Đại đồn chí hòa hiện nay ở đâu

Đại đồn Chí Hòa [gọi tắt là Đại đồn] nằm ở làng Chí Hòa thuộc Gia Định xưa. Vào thời kỳ đó, đây là một hệ thống đồn lớn nhất Việt Nam, do tướng Nguyễn Tri Phương chủ trương xây dựng nhằm phòng thủ phía Tây Bắc thành phố Sài Gòn – Chợ Lớn trước các cuộc tấn công của liên quân Pháp – Tây Ban Nha trên đất Việt vào năm 1860-1861. Nhưng cuối cùng, mục đích đó không thực hiện được.

Ngày 12 tháng 2 năm 1859, thực dân Pháp chiếm thành Gia Định. Năm 1860, vua Tự Đức sung chức Gia Định Quân thứ cho tướng Nguyễn Tri Phương, để cùng Tham tán đại thần Phạm Thế Hiển trông coi việc quân sự ở miền Nam.
Để đương đầu với thực dân Pháp ở Gia Định, ngay khi mới vào thay tướng Tôn Thất Hiệp, Nguyễn Tri Phương đã cho tập trung sức quân, sức dân vào việc biến đồn Chí Hòa do tướng Hiệp xây từ trước, thành một đại đồn rộng lớn, để ngăn chặn và đánh bại các cuộc tấn công của liên quân.

Đại đồn nằm trong địa phận làng Chí Hòa và Phú Thọ, dọc theo rạch Nhiêu Lộc, lấy con đường đi Tây Ninh [đường Cách mạng Tháng Tám ngày nay] làm trung tâm để xây dựng chiến lũy, theo nhà văn Sơn Nam, vì ba lý do chính sau:

  • Có thể khống chế và cắt Sài Gòn – Chợ Lớn ra làm hai khu vực, không cho thực dân nhận nguồn tiếp tế từ đồng bằng sông Cửu Long.
  • Quân Việt từ đồn điền Gò Công, Mỹ Tho dễ tới lui xây thành, vận chuyển lương thực và tác chiến.
  • Phía Bắc của Phú Thọ – Chí Hòa, giáp kề Mười Tám Thôn Vườn Trầu, nơi đây địa thế hiểm và đông đúc người giàu nghĩa khí. Cho nên, làng Thuận Kiều của khu vực này đã được bố trí làm hậu cứ của Đại đồn.

Đại đồn được Nguyễn Tri Phương cho xây dựng từ tháng 8 năm 1860 đến tháng 2 năm 1861 mới hoàn thành. Do công trình này ở tại làng chí Hòa nên được gọi là Đại đồn chí Hòa.

Đại đồn dài 3.000m, rộng 1.000m, được chia làm năm khu bằng nhau, ngăn cách bằng một bờ rào gỗ có cửa. Tường đồn được xây bằng đất sét và đá ong, cao 3,5m, dày 2m, có rất nhiều lỗ châu mai. Mặt trên và mặt ngoài tường đồn, có trồng nhiều cây gai gốc dày đặc. Bên ngoài đồn có nhiều lớp rào tre, nhiều mô đất, nhiều ao nước và vô số hố chông. Trên mặt tường đồn, bố trí 150 đại bác các cỡ bắn bằng đạn gang. Bên phải của đại đồn về phía chùa Cây Mai và bên trái rạch Thị Nghè có đắp mỗi bên một chiến lũy dài, lấy đồn Hữu và đồn Tả làm điểm tựa. Đằng sau Đại đồn là nhiều đồn nhỏ yểm trợ: đồn Thanh Lương, đồn Thuận Kiều, đồn Rạch Tra…Ngoài ra, phía sau đại đồn còn có kho chứa quân lương, quân khí. Khi ấy, ở đại đồn có khoảng 20.000 quân thường trực, 10.000 quân dân dũng. Vì vậy đối với thực dân Pháp, đại đồn Chí Hòa là một vật cản lớn cần phải đánh dẹp, để họ có thể tiến chiếm các nơi khác…
Trung úy Hải quân Pháp Léopold Pallu, sĩ quan tùy viên Tổng hành dinh của tướng Charner & là người trực tiếp tham dự trận, sau này đã mô tả Đại đồn trong sách của mình như sau:

Thành Kỳ Hòa thật rộng lớn xây đắp theo hình vuông. Mặt hậu tuyến của thành có xây ụ phòng thủ nhô ra ở hai góc. Mặt hậu tuyến là một thành hẳn hoi, xây kín, gọi là thành Giữa, dùng làm cổng sau cho cả doanh trại Kỳ Hòa. Thành Giữa nằm trên đường ranh hậu tuyến. Hai ụ phòng thủ hai bên và thành Giữa bảo vệ lẫn nhau. Tầm súng của địch [quân Việt] trong thành có thể quét quân tấn công khi đến gần vùng ven biên, nơi mà quân ta [quân Pháp] phải xông vào. Hơn nữa, như ta thấy, vùng ven biên được bảo vệ bằng hầm chông, hào và bàn chông trong khoảng rộng một trăm thước kể từ chân tường thành. Nhìn từ xa, ta thấy các ụ phòng thủ và thành Giữa đều thẳng băng, không có góc nào nhô ra hay thụt vào. Nhưng bên trong lại có một lớp tường thẳng góc với lớp tường bên ngoài và ngăn thành Giữa ra làm hai khu; tường ngăn có bệ đứng và có lỗ châu mai để bắn; lại có hào và một khoảng đất cắm cọc nhọn chéo nhau để bảo vệ thêm. Tường thành bên trong có hai ụ bắn nhô ra để làm ổ phòng ngự: trong các phúc trình của ta, vòng thành này ta đặt tên là đường tuyến thứ hai để dễ gọi. Ngay ở góc nơi hai bờ tường nối với nhau, có một cửa lớn đầy cạm bẫy, cửa giúp hai khu thông thương với nhau khi bình thường. Khu bên trái gọi là thành Quan, danh xưng ta đặt ra vì tại đây có một đồn cố thủ với thật nhiều chiến cụ, đến mười lần nhiều hơn nơi khác. Khu bên phải bố trí để chống trả tấn công nếu có từ khu bên trái sang, tức là có tường chắn và ụ nhọn lồi ra để phòng thủ, ngoài ra còn có một đồn cố thủ nằm trong góc.

Vị trí của Đồn Chí Hòa hiện nay thuộc khu vực các phường 7, 11, 12, 14 quận Tân Bình, có ranh giới là các đường Trường Chinh, Trương Công Định, Bàu Cát và Lý Thường Kiệt hiện nay.

Bài chính: Trận Đại đồn Chí Hòa

Ngày 23 tháng 2 năm 1861, quân Pháp do Đề đốc Charner chỉ huy với khoảng 10.000 quân và chiến thuyền các loại, bắt đầu công phá Đại đồn Chí Hòa. Đáp lại, tướng Nguyễn Tri Phương với khoảng 12.000 quân thường trực và quân dân dũng, cũng đã kháng cự mãnh liệt, nhất là trong hai ngày 24 và 25 tháng 2. Tuy nhiên, trước những vũ khí hùng hậu và hiện đại, lực lượng giữ Đại đồn cũng đã phải rút lui, để cho quân Pháp chiếm đoạt và rồi cho san bằng.

Một khẩu đại bác của quân Pháp, bên cạnh những khẩu đại bác của quân Việt, đang được trưng bày tại Bảo tàng Lịch sử Việt Nam – Thành phố Hồ Chí Minh.

Sách Lịch sử cận đại Việt Nam, Tập I, có đoạn:

Xem địa đồ toàn cuộc, thấy hình thể Đại đồn giống như cái thân hình đồ sộ của một lực sĩ giang hai cánh tay [hai chiến lũy tả hữu] ôm lấy Sài Gòn – Chợ Lớn, quyết ném địch xuống sông. Nguyễn Tri phương tưởng đâu quân Pháp không thể bước qua Đại đồn nổi, cam chịu co rút trong Sài Gòn cho đến ngày phải rút đi như chúng nó đã rút đi khỏi Đà Nẵng hồi năm trước…

Nhận xét về hệ thống Đại đồn Chí Hòa, GS. Trần Văn Giàu viết:

Đại đồn là một cái đồn rộng quá, chiều dài 3.000 mét, chiều ngang 1.000 mét. Nó thiếu cao thừa rộng, mặt thì yếu [hai bên hông], mặt thì mạnh [mặt tiền ngó ra sông Sài Gòn], nên quân của đối phương dễ leo vào, đánh xuyên hông, đánh bọc hậu. Về vũ khí, trên mặt tường đồn, có 150 đại bác đủ loại, nhưng phần nhiều là đại bác bắn đạn gang, trúng ai nấy chết. Nếu là chiến tranh thời trung cổ với vũ khí thô sơ, thì đại đồn có thể xem như khá kiên cố…nhưng ở đây nó phải đối chọi với những vũ khí hiện đại, hùng hậu, có sức công phá mãnh liệt… Tuy có chủ trương “vừa công vừa thủ”, nhưng không hơn gì Tôn Thất Hiệp, Thống tướng Nguyễn Tri Phương vẫn án binh bất động, chỉ khác một điều là ông tập trung sức lực quân dân [khoảng 30.000 người] không phải vào việc đánh mà vào việc xây dựng Đại đồn Chí Hòa nhằm bao vây địch chặt chẽ hơn, tính không cho địch bung ra rộng hơn nữa…[Để rồi] Đại đồn xây dựng gần một năm với công sức của mấy vạn quân và dân, chỉ bảo vệ được hơn một ngày thì mất!. Đại đồn Chí Hòa, biểu hiện chiến lược phòng thủ tai hại của tướng Nguyễn Tri Phương…

Sau thất bại nặng nề trong trận Đại đồn Kỳ Hòa, triều đình Huế như “điên dại”. Vua Tự Đức tức tốc phái Nguyễn Bá Nghi làm Khâm sai đại thần, Tôn Thất Đính làm Đề đốc mang 4.000 lính vào Biên Hòa tiếp viện… Để rồi viên tướng này đã tâu về triều rằng: Việc nước ta ngày nay, trừ một chước hòa không có chước nào khác…

Qua Chí Hòa hoài cổ Tiện bước qua thăm cảnh Chí Hòa Đây nơi chiến địa buổi can qua. Đống xương vô định sương vùi lấp, Giọt máu hy sanh cỏ nhuộm lòa. Cứu nước chẳng nề thân sống thác, Liều mình không quản sức xông pha! Người xưa, cảnh cũ nay còn nhớ? Tang hải buồn thay nỗi nước nhà! Sài Sơn P.H.C [Phụ nữ tân văn số 28 ngày 7 tháng 11 năm 1929]

Đăng nhập

Đăng nhập để trải nghiệm thêm những tính năng hữu ích

Zalo

  • Nóng

  • Mới

  • VIDEO

  • CHỦ ĐỀ

Sơ đồ Đại đồn Chí Hòa ở Gia Định

Tôn Thất Thọ

Từ trước đến nay, mỗi khi nhắc đến trận đánh của quân Pháp vào Đại đồn Chí Hòa [Gia Định] tháng 2 năm 1861, các tài liệu đều ghi Đại đồn Chí hòa do Nguyễn Tri Phương được triều đình cử vào xây dựng để tổ chức phòng thủ, lập căn cứ chống Pháp. Sách “Việt Năm Sử Lược” của Trần Trọng Kim chép:

“…Ông Nguyễn Tri Phương cùng quan Tham tán Đại thần Phạm Thế Hiển vào xếp đặt ở Gia Định một cách có quy củ, đắp dãy đồn Kỳ Hòa [người Pháp gọi là dãy đồn Chí Hòa] cũng hợp quy thức, để chống nhau với quân của Đại tá D’Aries. Hai bên đã từng đánh nhau hai ba trận, đều bị thiệt hại cả…”[VNSL T2, trang 258].

Về sau, các nhà nghiên cứu đã lấy đó làm căn cứ để xác định Nguyễn Tri Phương là người chỉ huy xây Đại đồn Chí Hòa. Ở đây, chưa nói đến việc học giả họ Trần xác định chưa chính xác địa danh, vì đồn được xây tại làng Chí Hòa, nên gọi là đồn Chí Hòa, và người Pháp đã phát âm thành đồn Kỳ Hòa chứ không phải như Trần Trọng Kim chép, nhưng quan trọng hơn, việc xác định Nguyễn Tri Phương vào xây dựng đồn Chí Hòa là điều cần phải xác định lại.

       Như sử sách đã chép, thượng tuần tháng 2 năm 1859, được tin chiến thuyền Pháp vào cửa bể Vũng Tàu, bắn phá pháo đài dữ dội và hủy diệt chiến thuyền Việt Nam, tổng đốc Gia định là Võ Duy Ninh biết là quân Pháp mở cuộc tấn công Nam Kỳ, liền báo tin về kinh và động viên quân lính các tỉnh gấp rút đem về phòng thủ Gia ĐỊnh. Được tin cấp báo, triều đình Huế liền cử Hộ Bộ thượng thư Tôn Thất Hiệp [còn được đọc là Tôn Thất Cáp do tự dạng của chữ Hán] lĩnh Thống đốc Gia Định Quân thứ đem viện binh vào Nam, phối hợp cùng Trương văn Uyển, Tổng đốc Vĩnh Long; Lê Đình Đức, Tuần vũ Định Tường, Nguyễn Đức Hoan, Tuần vũ Biên Hòa để lập kế hoạch phòng thủ, nhưng khi quân của Tôn Thất Hiệp đến Biên Hòa thì quân Pháp đã chiếm thành Gia Định. Sách “Sử Quốc triều chính biên toát yếu” chép: “Ngài [vua Tự Đức] nghe báo thành Gia Định bị vây, lập tức đem các đạo quân binh tới cứu, quân mới đi, thành đã hãm rồi…Khi ấy quan Thống đốc quân vụ đại thần Tôn Thất Cáp[tức Hiệp- TTT] đóng binh tại Biên Hòa, ngài truyền dục quân qua tỉnh Gia Định phòng liệu…”[SQTCBTY tr.419].

      Trước đó,Trương Văn Uyển và Lê Đình Đức kéo hơn 2000 quân vào Gia Định ứng chiến, vừa đến đóng quân ở Đồn Cây Mai, chưa kịp bố phòng thì bị một nhóm giáo dân dẫn quân Pháp đến đột kích, Uyển bị thương phải lui quân, Lê Đình Đức phải chạy về Vĩnh Long. Khi quân của Tôn Thất Hiệp vào đến Gia Định thì quân Pháp đã hầu hư phá hủy toàn bộ thành Gia Định, các kho lương thực đều bị Pháp đốt phá. Đến nơi, Tôn Thất Hiệp lựa chọn địa điểm và quyết định cho xây dựng Đồn Chí Hòa để tổ chức bố phòng. Sách” Monographie de la province de Gia Định” do Hội nghiên cứu Đông Dương biên soạn,xuất bản năm 1902 bằng tiếng Pháp ghi lại, tạm dịch như sau:

        ” …Một ngàn quân do vị quan Tôn Thất Hiệp chỉ huy đóng tại ngôi làng cũ tại Chí Hòa, ở 5km phía tây Saigon. Vị tướng này cho xây đắp ba đồn: Đồn Tiền trên đường đi Tây Ninh với hai đồn ở hai bên, bên hữu và bên tả, cách nhau 400m là đồn Hữu và đồn Tả, đồn sau này ở trên rạch Bà Tiềm…” [Sđd, trang 110].

         Đề cập đến việc xây dựng đồn Chí Hòa, tác giả Alfred Schreiner đã viết trong tác phẩm Abrege de l’ Historie d’Annam[XB năm 1905, tại Sài Gòn, được dịch sang tiếng Việt với tựa là Đại Nam Quốc lược sử] trong đó có đoạn:

“ L’ennemi qui avait été forcé de quitter lé deux center, n’alla pourtant pas très loin. Il se retira en partie dans les forth dr Thuan Kieu, d’ou un millier d’hommes conduits par le Ton that Hiep partirent en avant s’ établir au village de Chi Hoa, a cinq kilometres de Saigon et à quarte de Cho Lon. Cechef militaire y fit élever un fort non loin de la route [Don Tien], celui que nous désignerons plus loin par “ ancien fort de Chi Hoa”; deux autres forts [Don Huu et Don Ta] le flanquauent des deux côtes à quartre cent mètres de distance. Ton That Hiep n’y fut pas inquiété pendant plus d’un an “. [sđd, tr 182]

Ông Nguyễn Văn Nhàn đã dịch : “..Quân nghịch [chỉ quân ta-TTT] trước bị ép ra khỏi hai chỗ đô hội ấy, nhưng vậy chúng nó không đi xa là bao nhiêu, một phần rút vô các đồn Thuận Kiều, rồi đó có quan Tôn Thất Hiệp dẫn trót ngàn quân xơm tới trước mà đóng tại làng Chí Hòa, cách Saigon chừng 5000 thước langsa và xa Chợ lớn lối 4000 thước. Quan cai binh này dạy xây tại đó một cái đồn ở xa đường một ít [đồn Tiền], là cái lúc sau ta gọi” cựu đồn Chí Hòa”; hai đồn khác [đồn Hữu với đồn Tả] ở hai bên cách chừng 400 thước. Ông Tôn Thất Hiệp ở đó hơn một năm…[Sđd, tr 25]

         Về địa điểm xây dựng đồn Chí Hòa, nhà văn Sơn Nam đã viết trong tác phẩmBến Nghé xưa:

“Tướng Tôn Thất Hiệp [rồi tướng Nguyễn Tri Phương] đều nhất trí chọn lựa cuộc đất trong địa phận làng Chí Hòa và Phú Thọ dọc theo rạch Nhiêu Lộc, lấy con đường đi Tây Ninh làm trung tâm để xây đồn lũy gồm nhiều lý do: -Vị trí này có thể khống chế và cắt Saigon – Chợ lớn ra làm hai khu vực, không cho thực dân bám vào nguồn tiếp tế từ đồng bằng sông Cửu Long.-Quân đồn điền từ gò Công Mỹ tho đễ tới lui xây dựng thành. -Phía bắc của Phú Thọ- Chí Hòa giáp 18 thôn Vườn trầu, đông đúc những người côi cút làm ăn, giàu nghĩa khí…Trong khoảng thời gian dài sau khi thành Gia Định thất thủ, quân dân ta khẩn trương xây đồn dưới sự chỉ huy của Tôn Thất Hiệp. Về sau Nguyễn Tri Phương phát triển thêm…[Bến Nghé xưa, sđd,tr. 119].

Theo sáchViệt Nam- những sự kiện lịch sử 1858-1918 của Dương Kinh Quốc thì trong khoảng một năm,từ tháng 4 năm 1859 đến tháng 4 1860 quân Pháp nhiều lần mang quân đến tấn công đồn Chí Hòa nhưng đều bị quân ta dưới sự chỉ huy của Tôn Thất Hiệp chỉ huy đánh trả.

Sách Đại Nam thực lục thuật lại “…Quân Tây dương đến đồn Phú Thọ [do Tôn Thất Cáp [tức Hiệp -TTT] mới đắp]. Quân Tây dương đánh phá Hữu đồn, Hoàng Ngọc Chung cố sức đánh bị chết trận..Tôn Thất Cáp [Hiệp] cùng Tôn Thất Điển đốc lính ở Kinh chống nhau với giặc, chém được và bắn chết nhiều….” [ ĐNTL, T 7, sđd, tr 603].

        Năm 1860, quân Pháp lại đem quân tấn công vào đồn Chí Hòa, lần này chúng thua to. Sách Monographie….Gia Đinh chép:

“… Vào những ngày đầu tháng 4 năm 1860 quân Nam ở đồn Chí Hòa được mật báo sẽ xãy ra một cuộc tấn công vào đồn lũy Chí Hòa, thật vậy, vào sáng 16/4 đại pháo của Pháp bắn về phía Cây Mai, pháo binh Pháp tiến đến trước Đồn Hữu và bắn vào Đồn. Quân Nam bắn trả, một lúc áu, đại pháo bảo vệ đồn bị bắn hạ và quân pháp tấn công vào thành. Quân Nam chống trả mãnh liệt và chỉ chịu thua khi chỉ huy của họ là Trần Tương Tư bị trúng một phát đạn vào đầu khi đang ở trên thành. Họ[quân Nam-TTT] rút lui vào đồn Tiền, đồn này được phòng thủ vững chắc. Một hố rộng bao quanh thành, các vật dẫn hỏa, những cây gỗ lở, chởm mũi nhọn chất đầy mặt thành, sẵn sàng rơi xuống đầu kẻ tấn công thành. Quân phòng thủ cộng thêm số ở đồn Hữu chạy sang có khoảng 1500 người. Lúc 8 giờ, quân Pháp tấn công dưới làn đạn của đồn Tiền và đồn Tả. Sự cố gắng của họ bị thất bại trước chướng ngại dồn dập. Sau hai giờ chiến đấu quyết liệt làm thiệt hại mỗi bên hơn 20 ngườ. Đến 3 giờ chiều, họ trở lại Cây Mai. Dưới thành Đồn tiền có 6 xác thủy quân pháp bị giết ở những lỗ châu mai khi họ tìm cách đột nhập vào thành. Các quan Nam cho ném họ vào một cái đảo nhỏ bên cạnh[ Mật -cật]. Cùng ngày tướng Tôn Thất Hiệp cho quân thông báo về Huế tin chiến thắng. Triều đình gởi tiền bạc vào để khen thưởng quân sĩ…” [Sđd trang 126]. Qua những dẫn chứng đó, ta thấy người lựa chọn địa điểm và chỉ huy xây đồn Chí Hòa [ban đầu gọi là đồn Phú Thọ] chính là tướng Tôn Thất Hiệp, người được triều đình cử vào Gia Định để tổ chức chiến đấu chống Pháp. Còn tướng Nguyễn Tri Phương thì mãi đến tháng 8 năm 1860 mới vào Gia Định. Sách SQTCBTY chép: ” Năm Canh thân thứ XIII[1860]…tháng 7, cho quan Đông các đại học sĩ, Tráng Liệt Bá Nguyễn Tri Phương sung chức Gia Định quân thứ, tổng thống quân vụ đại thần, đổi Tôn Thất Cáp[tức Hiệp] làm Tham tán…”

***

        Tóm lại, khi vào nhận chức thay Tôn Thất Hiệp, tướng Nguyễn Tri Phương đã cho củng cố đồn Chí Hòa thành một Đại đồn quy mô và rộng lớn hơn, còn người chỉ huy việc xây dựng đồn ban đầu chính là ông Tôn Thất Hiệp. Tưởng cần nói thêm, ngày 24/2/1861 cả ba ông Nguyễn Tri Phương, Phạm Thế Hiển, Tôn Thất Hiệp cùng chỉ huy quân ta chống trả cuộc tổng tấn công lớn của quân Pháp vào Đại đồn Chí Hòa, lần này Pháp đã tăng viện binh, quyết hạ đồn để phá vỡ thế bị bao vây. Sau hai ngày chống cự, trước vũ khí hiện đại của giặc, đại đồn Chí Hòa thất thủ, Nguyễn Tri Phương quyết định rút quân về Biên Hòa, riêng Tôn Thất Hiệp, ông ở lại Gia Định chiêu tập binh sĩ và sau đó rút về Biên Hòa. Tuy thắng trận và chiếm được đồn, nhưng người Pháp phải thừa nhận sự chiến đấu dũng cảm của quân ta tại Chí Hòa:

“… Ngày 25 tháng 2, ngày mà người Annam không chịu lùi bước, ngày mà rất nhiều người trong số họ đã chết ngay trên vị trí chiến đấu của mình, đã có một tính chất hầu như duy nhất…”[Historie de l’expedition de Cochinchine en 1861, Paris, 1864, trang 92].

————————-

Tài liệu tham khảo:

-Đại Nam Thực lục T7, QSQTN, Nxb Giáo Dục, 2007.

 -Abrege de l’ Historie d’Annam, Alfred Schreiner, SG, 1906.

-Monographie de la province de Gia Định” [Đặc khảo về Gia Định -Hội nghiên cứu Đông Dương- 1902], Nxb Trẻ, 1994.

 -Việt Nam sử lược T2, Trần Trọng Kim, TTHL Bộ GD SG, 1971.

 -Việt Nam- những sự kiện lịch sử 1858-1918″ mDương Kinh Quốc,Viện Sử học,1990 -Bến Nghé xưa, Sơn Nam, Nxb Văn Nghệ TPHCM, 1983

Video liên quan

Chủ Đề