Đặc trưng thi pháp văn học trung đại là gì
Ngày đăng:
03/12/2021
Trả lời:
0
Lượt xem:
276
Thi pháp văn học trung đại việt nam với việc đọc hiểu các tác phẩm văn học trung đại trong nhà trường
S¸ng kiÕn kinh nghiÖm PHẦN MỞ ĐẦU 1.1. Lý do chọn đề tài - Thi pháp là toàn bộ hệ thống các hình thức nghệ thuật (phương thức: tự sự, trữ tình, kịch; phương tiện: ngôn ngữ, từ vựng, cú pháp, ngữ âm, hình tượng; thủ pháp: ẩn dụ, hoán dụ, biểu tượng) có chức năng biểu đạt tư tưởng, giá trị đặc sắc của sáng tác văn học. Thi pháp nhìn văn học dưới góc độ sáng tạo nghệ thuật - tức là các yếu tố tạo nên cái đẹp cho văn học. Mà tác phẩm văn học là một sáng tạo thẩm mỹ, việc nghiên cứu thi pháp văn học sẽ giúp người đọc nâng cao khả năng cảm thụ một tác phẩm văn học. Khái niệm Thi pháp không phải là mới song đối với học sinh trong nhà trường phổ thông dường như đó vẫn là một vấn đề khá lạ lẫm. Các em được hướng dẫn tìm hiểu, khám phá những giá trị nội dung, nghệ thuật đặc sắc của tác phẩm hoặc tác giả nhưng chưa được cung cấp một cái nhìn khái quát và toàn diện về toàn bộ hệ thống các hình thức nghệ thuật (thi pháp) của một tác giả hay một thại đại, một giai đoạn văn họcViệc nắm bắt đặc trưng thi pháp của một giai đoạn văn học, một hệ thống tác phẩm, hoặc tác giả của các em vẫn còn lúng túng và chưa đầy đủ. - Trong toàn bộ tiến trình VHVN, Văn học trung đại là một trong những chặng đường đầu tiên của bộ phận văn học viết. Đây là chặng đường văn học khá dài (khoảng 10 thế kỉ), phát triển phức tạp và đạt được nhiều thành tựu phong phú, góp phần quan trọng vào sự phát triển của chặng đường Văn học hiện đại sau này. - Soi chiếu vào Sách giáo khoa Ngữ văn THPT, văn học Trung đại chiểm 2/3 chương trình Ngữ văn 10 và chiếm gần 1/2 chương trình ngữ văn 11. Thực tế này một lẫn nữa khẳng định vị trí quan trọng của Văn học trung đại đối với học sinh trung học phổ thông. Tuy nhiên, từ thực tiễn kinh nghiệm giảng dạy, người viết nhận thấy đối với học sinh THPT việc tìm hiểu và giãi mã các tác phẩm trung đại vẫn là một khó khăn lớn đối với các em bởi khoảng cách về văn 1 Ph¹m ThÞ B×nh Chuyªn H-ng Yªn S¸ng kiÕn kinh nghiÖm hoá, tư tưởng, quan niệm, ngôn ngữDo đó, giúp HS nắm vững đặc trưng của thi pháp văn học trung đại sẽ cung cấp cho các em có chìa khoá để giải mã các tác phẩm trung đại trong chương trình cũng như mở ra cánh cửa của văn học trung đại nhiều bí ẩn nhưng cũng đầy mới mẻ. Xuất phát từ cơ sở lí luận về thi pháp văn học cũng như thực tiễn kinh nghiệm giảng dạy văn học trung đại trong nhà trường PT nói trên, người viết lựa chọn đề tài: Thi pháp Văn học trung đại Việt Nam với việc đọc - hiểu các tác phẩm văn học trung đại trong nhà trường THPT như một hướng khai thác và nghiên cứu trong quá trình giảng dạy. 1.2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài - Nghiên cứu và thực hiện đề tài này trong quá trình giảng dạy ở trường PT, người viết sẽ cung cấp cho học sinh một cái nhìn bao quát và toàn diện về đặc trưng thi pháp của văn học trung đại Việt Nam. Từ việc nắm vững lý thuyết chung đó, học sinh có thể vận dụng để tìm hiểu và giải mã sâu sắc một tác phẩm hoặc một nhóm tác phẩm trung đại cụ thể trong chương trình. - Thực hiện đề tài Thi pháp Văn học trung đại Việt Nam với việc đọc hiểu các tác phẩm văn học trung đại trong nhà trường THPT , người viết sẽ tập trung vào những nhiệm vụ cụ thể như sau: + Tìm hiểu chung về thi pháp Văn học trung đại trên các phương diện: thi pháp thể loại, thi pháp hình tượng nghệ thuật, thi pháp nhân vật, thi pháp ngôn ngữ (có kèm theo phân tích ví dụ cụ thể để học sinh hiểu rõ hơn vấn đề nghiên cứu). + Vận dụng thi pháp trung đại vào các bài tập cụ thể: phân tích một số tác phẩm trung đại tiêu biểu trong chương trình ngữ văn 10 và 11. 1.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu: thi pháp văn học trung đại Việt Nam. Cụ thể như thi pháp thể loại, thi pháp nhân vật, thi pháp hình tượng, thi pháp ngôn ngữ của văn học trung đại Việt Nam. - Phạm vi nghiên cứu: Bám sát vào các tác phẩm tiêu biểu của các tác giả Trung đại trong nhà trường phổ thông (chẳng hạn như các tác phẩm của Nguyễn 2 Ph¹m ThÞ B×nh Chuyªn H-ng Yªn S¸ng kiÕn kinh nghiÖm Trãi, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Khuyến). 1.4. Phương pháp nghiên cứu - Phương pháp phân tích, tổng hợp. - Phương pháp so sánh, đối chiếu. - Phương pháp đọc - hiểu văn bản. 1.5. Cấu trúc của sáng kiến kinh nghiệm. Ngoài phần Mở đầu và phần Kết luận, phần Nội dung của đề tài gồm năm phần chính sau đây: I. Khái niệm chung về thi pháp văn học trung đại II. Những đặc điểm tư tưởng, văn hoá thời trung đại - Tiền đề của thi pháp VHTĐVN. III. Đặc điểm Thi pháp văn học trung đại. IV. Vận dụng làm bài tập. V. Kết quả thực nghiệm. 3 Ph¹m ThÞ B×nh Chuyªn H-ng Yªn S¸ng kiÕn kinh nghiÖm PHẦN NỘI DUNG I. Khái niệm chung về thi pháp và thi pháp văn học trung đại Thi pháp là toàn bộ hệ thống các hình thức nghệ thuật (phương thức: tự sự, trữ tình, kịch; phương tiện: ngôn ngữ, từ vựng, cú pháp, ngữ âm, hình tượng; thủ pháp: ẩn dụ, hoán dụ, biểu tượng) có chức năng biểu đạt tư tưởng, giá trị đặc sắc của sáng tác văn học. Thi pháp có nhiều cấp độ: Xét từ chỉnh thể văn học có: thi pháp tác phẩm, thi pháp tác giả, thi pháp trào lưu, thi pháp văn học một thời đại, một thời kì lịch sử, thi pháp văn học dân tộc. Xét từ các phương tiện, phương thức nghệ thuật có: thi pháp thể loại, thi pháp phong cách, thi pháp kết cấu, thi pháp ngôn ngữ, thi pháp không gian, thời gian Ở đề tài này, người viết tập trung nghiên cứu thi pháp từ cấp độ chỉnh thể văn học, cụ thể là thi pháp văn học một thời đại: Thi pháp văn học trung đại Việt Nam. Thi pháp văn học trung đại là nói đến toàn bộ những hình thức nghệ thuật: phương thức, phương tiện, thủ pháp nghệ thuậtbiểu hiện đời sống, tạo nên giá trị tư tưởng đặc sắc cho các sáng tác trung đại. II. Những đặc điểm tư tưởng, văn hoá thời trung đại - Tiền đề của thi pháp VHTĐVN. 1. Quan niệm về thời gian, không gian. a. Quan niệm về thời gian - Thời trung đại quan niệm thời gian chu kì, tuần hoàn. + Thời gian vũ trụ là một vòng tròn lặp lại, mùa này qua mùa khác lại tới, năm này qua năm khác tới, tựa như một sự xoay vần vĩnh viễn.(Vì người xưa sống đời sống nông nghiệp nên gắn với các mùa: xuân, hạ, thu, đông. Các mùa đó cứ lặp đi lặp lại theo một chu kì.) Điều này được thể hiện khá rõ trong thơ của các nhà thơ trung đại. Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du viết: 4 Ph¹m ThÞ B×nh Chuyªn H-ng Yªn S¸ng kiÕn kinh nghiÖm Nay hoàng hôn đã lại mai hôn hoàng Thời gian của ngày (hoàng hôn) hôm nay cũng giống thời gian đó của ngày mai, nó mang tính lặp lại, bền vững, không thay đổi. Thời gian của năm (mùa) cũng vĩnh viễn bởi nó ra đi rồi lại quay trở lại: Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại (Tự tình - Hồ Xuân Hương) Hay trong bài thơ Cáo tật thị chúng, Mãn Giác thiền sư cũng viết: Xuân qua, trăm hoa rụng Xuân tới, trăm hoa tươi Hai câu thơ nói về quy luật của tự nhiên: mùa xuân qua hoa cỏ úa tàn, khi xuân đến hoa cỏ lại tươi tốt. Mãn Giác thiền sư đã dùng hình ảnh hoa rụng, hoa nở là để nói về sự sống tuần hoàn theo vòng tuần hoàn, luân hồi của thời gian. + Lịch sử như một quá trình xoay vòng tròn, một sự xoay vần vĩnh cửu của chừng ấy hình thức chính trị theo một trình tự nhất định. Sở dĩ có quan niệm này bởi trong thời trung đại, hình thái lịch sử xã hội phong kiến kéo quá dài, triều đại này suy sụp thì triều đại khác lại thay thế và hưng thịnh. Vì thế, nói đến lịch sử là nói đến sự thay thế triều đại, sự hưng vong thành bại của những con người xuất chúng. Tượng trưng có ý nghĩa sâu sắc cho quan niệm của người trung đại về thời gian là cái bánh xe. Chiếc bánh xe vũ trụ vận động vĩnh viễn, đó là vòng tuần hoàn lặp đi lặp lại.Vì quan niệm thời gian là một vòng tuần hoàn vĩnh cửu nên con người luôn bình thản, lạc quan, không chút lo âu, vội vã. - So sánh: Quan niệm đó khác hẳn với quan niệm của con người hiện đại. Người hiện đại quan niệm tuyến tính về thời gian. Thời gian như một véctơ, trôi một chiều, trôi đi là mãi mãi không bao giờ trở lại và nó sẽ bào mòn đi tất cả. Vì thế con người hiện đại luôn bị ám ảnh bởi thời gian. Họ thường lo lắng, hốt hoảng, vội vã trước dòng chảy của thời gian, thậm chí chạy đua với thời gian. Thi sĩ Xuân Diệu hơn một lần giục giã: Mau với chứ! Vội vàng lên với chứ Em, em ơi! Tình non sắp già rồi. 5 Ph¹m ThÞ B×nh Chuyªn H-ng Yªn S¸ng kiÕn kinh nghiÖm Một điều lưu ý là trong thời trung đại có quan niệm thời gian như bóng câu qua cửa sổ song đó không phải là thời gian một đi không trở lại như thời hiện đại mà chỉ là thời gian trôi nhanh trong sự tuần hoàn mà thôi. b. Quan niệm về không gian - Thời trung đại quan niệm không gian được cảm nhận theo chiều dọc, có cao có thấp, có trên có dưới. + Không gian vũ trụ, không gian xã hội, không gian ý thức được sắp xếp theo chiều dọc thành tôn ti, trật tự. Những gì thuộc về không gian cao được coi là cao quý, tốt đẹp. Ngược lại, những gì thuộc về không gian thấp đều bị coi là thấp hèn, thô lỗ. Từ quan niệm đó tạo thành các phạm trù đối lập: trời đất, thần quỷ, thượng hạ - Bên cạnh quan niệm về không gian được cảm nhận theo chiều dọc, thời trung đại còn quan niệm không gian theo chiều ngang với vũ trụ vĩ mô và vi mô. Không gian vũ trụ được cảm nhận như những vòng tròn đồng tâm: thiên nhiên (đại vũ trụ) hoà đồng với con người (tiểu vũ trụ), và có sự liên thông thành ba thế giới: trời đất (trần gian) địa phủ. Tả người phải lấy vẻ đẹp của trời đất (Thuý Kiều, Thuý Vân). Và các nhân vật dễ dàng đi lại trong 3 không gian ấy: Truyền kì mạn lục, Truyện Kiều 2. Quan niệm về con người - Quan niệm vũ trụ được cảm nhận theo chiều dọc (cao - thấp, trên dưới) đã ảnh hưởng tới quan niệm không gian xã hội với con người đẳng cấp. Con người được phân theo vị trí: quý tộc bình dân; theo phẩm chất: cao thượng - thấp hèn. Ví dụ, thời trung đại con người được phân theo vị trí từ cao xuống thấp như: Hoàng đế Vương Công Hầu Bá Tử Nam. Hoặc dựa trên nhân cách, phẩm chất, trí tuệ, năng lực làm, Nho giáo chia thành hai loại người: quân tử (người có phẩm chất tốt đẹp, có trí tuệ hơn người và có khả năng hành đạo giúp đời) và tiểu nhân (kẻ ti tiện về nhân cách, kém cỏi về trí tuệ và không có năng lực làm). 6 Ph¹m ThÞ B×nh Chuyªn H-ng Yªn S¸ng kiÕn kinh nghiÖm - Bên cạnh đó, quan niệm không gian theo chiều ngang, vũ trụ được cảm nhận trong sự đồng tâm đã tác động đến quan niệm con người được đặt trong cái chung, ít thể hiện cá tính. + Con người hiện lên với một kiểu mẫu có sẵn, cá tính được khuôn đúc. Chẳng hạn người con gái vẹn toàn phải có: công, dung, ngôn, hạnh; người nam tử phải có: trung, hiếu, tiết, nghĩa. Quan niệm này có thể thấy rõ qua các hình tượng nhân vật Kiều Nguyệt Nga, Lục Vân Tiên trong truyện thơ của Nguyễn Đình Chiểu: Trai thời trung hiếu làm đầu Gái thời tiết hạnh làm câu trau mình + Từ quan niệm đặt con người trong cái chung, con người trong thời trung đại đề cao tinh thần hi sinh vì cộng đồng, trách nhiệm chung với cả cộng đồng. Đó là quan niệm vua tôi, cha con. Ý thức về trách nhiệm với nhân dân, hay đó là ý thức về việc lập công danh của người nam tử. - Từ quan niệm thời gian là một vòng tuần hoàn, lặp đi lặp lại, bất biến đã ảnh hưởng tới quan niệm con người được nhìn nhận trong sự tĩnh tại chứ không phát triển. Con người thời trung đại không phát triển mà chỉ chuyển từ tuổi này sang tuổi khác.Thời trung cổ người ta xem đứa bé như người lớn còn bé, không đặt ra sự hình thành tính cách, trẻ em được xem như người bạn tự nhiên của người lớn (Các phạm trù văn hoá trung cổ). Từ đó, con người cũng không có sự phát triển tính cách, người ta không chú ý nhiều tới sự tác động của hoàn cảnh, nếu có thì hoàn cảnh cũng không có vai trò tác động làm thay đổi tính cách con người mà nó chỉ tô đậm, làm rõ thêm cho tính cách ban đầu. Chẳng hạn như nhân vật Vũ Nương (Truyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ) được giới thiệu ngay từ đầu truyện là người hiếu thảo, nhan sắc, nết na, thuỳ mị, thuỷ chung. Những phẩm chất đó càng được sáng tỏ hơn trong mối quan hệ với mẹ chồng, với chồng, với con khi người chồng đi lính. Khi phải tìm đến cái chết, khi đã sang thế giới khác và hiển linh gặp lại chồng con, Vũ Nương đã khẳng định tấm lòng thuỷ chung ngời sáng của mình. 7 Ph¹m ThÞ B×nh Chuyªn H-ng Yªn S¸ng kiÕn kinh nghiÖm - Một phần quan niệm về thời gian lặp lại, bất biến cũng ảnh hưởng tới quan niệm con người trọng đức hơn trọng tài. Bởi đức là một yếu tố có tính bền vững hơn tài. Đức đã trở thành bản chất, phẩm chất đặc biệt của con người, đặc biệt là con người vùng văn hoá nông nghiệp với lối sống cộng đồng, coi trọng tình nghĩa. Quan niệm của người phương Đông là quan niệm đức trị, quan niệm khiêm nhi bất kiêu: Tài, đức thì cho lại có nhân Tài thì kém đức một vài phân (Nguyễn Trãi) 3. Quan niệm về cái đẹp. - Từ quan niệm về thời gian chu kì, tuần hoàn, không có sự diễn tiến đã ảnh hưởng đến quan niệm về cái đẹp thời trung đại: Thời hoàng kim thuộc về quá khứ, cái đẹp là khuôn mẫu của tiền nhân. + Người trung đại quan niệm thời xưa là một lí tưởng không thể nào đạt tới, là thế kỉ vàng của nhân loại. Tầm mắt của họ không nhìn về tương lai mà quay lại quá khứ, sống để sáng tạo khuôn mẫu đã có từ quá khứ ấy Điều này thể hiện ở văn chương trung đại với tâm lí sùng cổ, chuộng những gì của nước ngoài, đặc biệt là Trung Hoa với sự tồn tại lâu đời, có những khuôn mẫu đã trở thành mực thước. Đồng thời từ đó cũng dẫn đến quan niệm thuật nhi bất tác (làm theo mà không sáng tạo), sáng tạo trong khuôn mẫu có sẵn. Biểu hiện cụ thể như: văn học trung đại Việt Nam đã tiếp thu những thể loại văn học Trung Quốc như phú (đời Hán), thơ (đời Đường), từ (đời Tống), tiểu thuyết (đời Minh Thanh). Bên cạnh đó, chúng ta còn viện dẫn nhiều điển cố, thi liệu Hán học trong thơ ca. - Xuất phát từ quan niệm không gian vũ trụ theo chiều dọc có cao - thấp, không gian xã hội có đẳng cấp sang hèn dẫn đến quan niệm cái đẹp thường là những cái cao cả, tao nhã, cái đời thường, bình dị không thuộc phạm trù cái đẹp. Do đó, văn chương hướng tới vẻ đẹp của thiên nhiên, vũ trụ, của chí, của đạo. Từ đó hình thành quan niệm về chức năng văn chương: thi dĩ ngôn chí, 8 Ph¹m ThÞ B×nh Chuyªn H-ng Yªn S¸ng kiÕn kinh nghiÖm văn dĩ tải đạo và phong, hoa tuyết, nguyệt, sơn thuỷ hữu tình, tùng, cúc, trúc, mai trở thành những thi đề quen thuộc của thơ ca trung đại. - Từ quan niệm không gian được cảm nhận trong sự đồng tâm, con người trong cái chung, ít thể hiện cá tính, bản sắc riêng, thời trung đại quan niệm cái đẹp là sự hài hoà. Điều này thể hiện ở cảm quan đối xứng, song hành bởi sự đối xứng bao giờ cũng tạo nên nét cân bằng, hài hoà cho tạo vật. Chẳng hạn như nghệ thuật tứ bình, nghệ thuật song hành thời trung đại. Nói đến cây cối phải nói đến: tùng, cúc, trúc, mai; nói đến tài năng của con người phải nói đến: cầm kì thi - hoạ; nói đến bốn thú vui phải nói đến: ngư - tiều canh - mụcQuan niệm đó cũng thể hiện qua hình thức câu văn, câu thơ đối xứng. Chẳng hạn thể cáo, phú, hịchthường sử dụng những câu văn biền ngẫu. III. Đặc điểm Thi pháp văn học trung đại. 1. Thi pháp thể loại. Đối với văn học trung đại, vấn đề phong cách thể loại giữ vai trò quan trọng. Hầu hết tên các tác phẩm thời trung đại đều gắn với tên thể loại: Thiên đô chiếu, Hịch tướng sĩ, Bình Ngô đại cáo, BĐ giang phú, Thượng kinh kí sự, Truyện Kiều a. Quá trình phát triển của thể loại VHTĐ - Từ thế kỉ X XIV: chủ yếu tiếp thu thể loại VHTQ (hịch, cáo, chiếu, biểu, phú, thơ đường luật) - Từ thế kỉ XV: Dân tộc hoá thơ Đường luật để có thơ Nôm Đường luật. - Thế kỉ XVIII XIX: thể loại nội sinh phát triển: ngâm khúc, truyện thơ, hát nói b. Phân loại các thể loại của VHTĐ - Các thể loại văn học chức năng (hay còn gọi là văn học hành chức - thực hiện những chức năng ngoài văn học). Gồm: + Văn học thực hiện chức năng hành chính xã hội: hịch, cáo, chiếu, biểu, thư + VH thực hiện chức năng lễ nghi, tôn giáo: văn tế (lễ nghi), kệ - còn gọi là thơ Thiền (tôn giáo) 9 Ph¹m ThÞ B×nh Chuyªn H-ng Yªn S¸ng kiÕn kinh nghiÖm + Vh thực hiện chức năng sử học: những truyện ghi chép về lịch sử (Đại việt sử kí, Đại Việt sử kí toàn thư) - Các thể loại VH nghệ thuật. Gồm: + Các thể thơ trữ tình: Thơ tự tình (HXH), Ngâm khúc, hát nói. + Các thể loại truyện: truyện văn xuôi chữ Hán (truyện thần linh, truyện truyền kì, tiểu thuyết chương hồi), truyện thơ Nôm. + Các thể loại kí: kí sự (Thượng kinh kí sự), tuỳ bút (Vũ trung tuỳ bút Phạm Đình Hổ). c. Các thể loại của VHTĐ có tính quy phạm chặt chẽ - Tính quy phạm về kết cấu: Mỗi thể loại văn học trung đại có những quy định chặt chẽ về kết cấu. Những quy định này thường được các tác giả tuân thủ một cách nghiêm ngặt khi sáng tác. Ví dụ: + Thể cáo, tiêu biểu là Đại cáo bình Ngô Nguyễn Trãi được kết cấu theo bốn phần: Phần 1: Nêu luận đề chính nghĩa. Phần 2: Vạch rõ tội ác của quân xâm lược Phần 3: Thuật lại quá trình chinh phạt gian khổ, tất thắng của cuộc khởi nghĩa. Phần 4: Tuyên bố chiến quả, khẳng định sự nghiệp chính nghĩa. + Một thể loại nữa có kết cấu chặt chẽ đến mức có thể mô hình hóa, đó là thể thơ Đường luật. Có hai cách chia kết cấu một bài thơ Đường luật: Thứ nhất: theo kết cấu khai, thừa, chuyển, hợp đối với thơ tứ tuyệt và kết cấu đề, thực, luận, kết đối với thơ bát cú. Thứ 2: là kết cấu bài thơ Đường luật theo mô hình Kim Thánh Thán đề xuất thì có thể chia làm hai. Bài thơ bát cú thì bốn câu trên được gọi là tiền giải, bốn câu sau gọi là hậu giải. Không cứ bát cú mà bài tứ tuyệt cũng có khi chia thành hai phần như thế. Ví dụ: Bài Độc Tiểu Thanh kí Nguyễn Du, có thể chia 2 phần: Bốn câu đầu: Khóc người, thương người (thể hiện lòng nhân đạo bao la); bốn câu sau: Khóc mình thương mình (thể hiện lòng nhân đạo sâu sắc). 10 Ph¹m ThÞ B×nh Chuyªn H-ng Yªn S¸ng kiÕn kinh nghiÖm - Tính quy phạm về lời văn: Nhiều thể loại thường dùng những lời văn đối xứng: + Văn vần: Thơ Đường luật quy đinh cặp câu 3 -4, Cặp câu 5 6 phải đối xứng với nhau. + Văn biền ngẫu: phú, cáo, chiếu thường sử dụng những câu văn đối xứng. + Văn xuôi: các bài kí, bài tựa, bài luậncó khi cũng dùng những lời văn đối xứng (Đối trong một câu - tiểu đối; đối 2 câu - đối ngẫu; xét về nội dung ý nghĩa có đối tương đồng và đối tương phản. Tác dụng của đối: tăng âm hưởng, nhịp điệu, sự mượt mà; đồng thời góp phần nhấn mạnh ý hoặc nổi bật ý). 2. Thi pháp hình tượng nghệ thuật a. Thiên về những hình tượng nghệ thuật mang tính ước lệ. - Xuất phát từ quan niệm thẩm mĩ: cái đẹp là khuôn mẫu của tiền nhân, dẫn đến tính quy phạm chi phối cả trong tư duy, cả trong hình tượng nghệ thuật. Do đó, tính ước lệ như một đặc điểm nổi bật của văn học trung đại. VHTĐ hình thành những hệ thống ước lệ để phản ánh, biểu đạt thế giới, xã hội, con người. - Các loại hệ thống hình tượng ước lệ trong VHTĐ: + Hệ thống hình tượng ước lệ về thiên nhiên: phong, hoa, tuyết, nguyệt, tùng, cúc, trúc, mai, sơn thuỷ hữu tình Viết về mùa thu bao giờ cũng gắn liền với các hình ảnh như: - Ngô đồng nhất diệp lạc Thiên hạ cộng tri thu (Một lá ngô đồng rụng Thiên hạ biết thu sang) - Rừng phong thu đã nhuốm màu quan san. - Sen tàn cúc lại nở hoa Sầu dài ngày ngắn, đông đà sang xuân. + Hệ thống hình tượng ước lệ về cuộc sống: ngư, tiều, canh, mục - Lom khom dưới núi tiều vài chú 11 Ph¹m ThÞ B×nh Chuyªn H-ng Yªn S¸ng kiÕn kinh nghiÖm Lác đác bên sông chợ mấy nhà. - Gác mái ngư ông về viễn phố Gõ sừng mục tử lại cô thôn. + Hệ thống hình tượng ước lệ về chia ly, xa cách: hoàng hôn, dòng sông, con đò - Song sa vò võ phương trời Nay hoàng hôn, đã lại mai hôn hoàng. - Buồn trông cửa bể chiều hôm. - Trời chiều bảng lảng bóng hoàng hôn. b. Hình tượng nghệ thuật có sự sáng tạo trong ước lệ. - Các hình tượng nghệ thuật được xây dựng nên vẫn giữ tính ước lệ nhưng trong ước lệ đã có sự sáng tạo riêng của tác giả. - Phân tích ví dụ: bài thơ Tùng của Nguyễn Trãi. + Yếu tố ước lệ của bài thơ: Sử dụng hình tượng tùng để chỉ người quân tử. Những phẩm chất của cây tùng cũng chính là những phẩm chất của người quân tử: Một mình lạt thuở ba đông người quân tử có thể vượt qua những thử thách, khó khăn của hoàn cảnh. Tài đống lương cao ắt cả dùng. người quân tử có tài năng, phẩm chất, có thể giữ vị trí quan trọng trong triều đình, quốc gia. Cội rễ bền, dời chẳng động. bản lĩnh, ý chí của người quân tử trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng không thay đổi. Dành còn để trợ dân này. tấm lòng ái quốc ưu dân của người quân tử. + Yếu tố sáng tạo của Nguyễn Trãi. Qua hình tượng cây tùng để nói về chính mình (về chủ thể trữ tình). Qua đó, ta thấy được cuộc đời (cuộc đời nhiều thăng trầm và nhà thơ đã vượt 12 Ph¹m ThÞ B×nh Chuyªn H-ng Yªn S¸ng kiÕn kinh nghiÖm qua tất cả) và phẩm chất (ý thức được tài năng của mình và suốt đời sống với lý tưởng vì dân) của Nguyễn Trãi. Nghệ thuật: hình thức đối thoại nhưng thực chất là độc thoại (giống văn học hiện đại: chủ thể trữ tình phân thân để tự đối thoại: Việt Bắc, Đây thôn Vĩ Dạ, Tiếng hát con tàu). - Đống lương tài có mấy bằng mày - Dành còn để trợ dân này. c. Hình tượng nghệ thuật có sự phá vỡ tính ước lệ. - Với những hình tượng nghệ thuật này, tác giả có cách nhìn riêng dẫn đến có sự sáng tạo riêng và thể hiện được cá tính của mình. + Ví dụ: hình tượng thiên nhiên trong thơ Hồ Xuân Hương đều mang vẻ đẹp hình thể, tự nhiên, trần thế của người phụ nữ (quả mít, động Hương tích, đèo Ba dội, cái quạt), tạo ra hệ thống hình tượng mang tính chất phạm thượng. Hồ Xuân Hương là người đi trước trong việc lấy con người là chuẩn mực cho cái đẹp, không phải chờ đến thơ hiện đại sau này. - Những hình tượng nghệ thuật phá vỡ tính ước lệ còn là những hình tượng giản dị, gần gũi, mộc mạc, phản ánh trực tiếp hiện thực đời sống: - Ao quan thả gửi đôi bè muống Đất bụt ươm nhờ một lảnh mùng. - Ao thu lạnh lẽo nước trong veo Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo * Tóm lại: Hình tượng nghệ thuật trong VHTĐ thiên về tính tượng trưng, ước lệ. Tuy nhiên, ở một số tác giả tài năng, cá tính họ đã có sự sáng tạo hình tượng nghệ thuật trong tính ước lệ, thậm chí phá vỡ ước lệ để tạo nên dấu ấn độc đáo trong sáng tác của mình, tạo sự phong phú cũng như sự phát triển cho VHTĐ. 3. Thi pháp nhân vật a. Nhân vật phân theo loại - Hệ thống nhân vật được phân loại thành 2 tuyến khá rõ ràngthiện ác, tốt - xấu tạo nên tính đơn nhất, một chiều trong xây dựng nhân vật. Ví dụ: Truyện LụcVân Tiên, nhân vật đại diện co cái thiện: Lục Vân 13 Ph¹m ThÞ B×nh Chuyªn H-ng Yªn S¸ng kiÕn kinh nghiÖm Tiêm, Kiều Nguyệt Nga, ông ngư, ông tiều, mục đồng, Hớn Minh, Tử Trực... Nhân vật đại diện cho cái ác: Trịnh Hâm, Bùi Kiệm, cha con Võ Thế Loan Giống kiểu nhân vật trong truyện cổ tích. Hay nói cách khác, ở điểm này, văn học trung đại mang dấu vết của Truyện cổ tích. - Tuy nhiên ở những tác giả tài năng, có tính đa diện khi xây dựng nhân vật (càng về sau nhân vật càng có tính cách đa diện) Ví dụ : Truyện Kiều - Nguyễn Du + Kiểu nhân vật theo loại: Tốt (Thuý Kiều, Ktrọng, Từ Hải) >< xấu (MGS, Tú Bà, Sở Khanh, Hoạn Thư). + Kiểu nhân vật đa diện: Thuý Kiều, ngoài những phẩm chất tốt đẹp như hiếu thảo, Thuỷ chung, giàu đức hi sinhthì vẫn có những tật xấu như lấy chuông vàng khánh bạc nhà Hoạn thư bỏ trốn (Phật tiền sẵn có mọi đồ kim ngân / Bên mình giắt để hộ thân), tham tiền mắc mưu Hồ Tôn Hiến dẫn đến cái chết của Từ Hải (Nàng thời thật dạ tin người / lễ nhiều nói ngọt nghe lời dễ xiêu), Hoạn Thư ngoài những cái xấu như ghen tuông, đánh đập tra tấn Kiều rất dã man nhưng khi biết Kiều bỏ trốn đã không cho người đuổi theo nàng (Nghĩ cho khi gác viết Kinh / Với khi khỏi cửa dứt tình chẳng theo) ; Thúc Sinh lúc đầu cũng yêu Kiều say đắm (Trước còn giăng gió sau ra đá vàng) nhưng khi bị Hoạn Thư đánh ghen thì tỏ ra nhu nhược, không dám đấu tranh cho tình yêu của mình (Liệu mà cao chạy xa bay / Ái ân ta có chừng này mà thôi). đây là yếu tố tiến bộ của nhân vật trong VHTĐ. b. Hướng về con người chung hơn là con người cá thể, ít thể hiện cái Tôi cá nhân. - VHTĐ chú ý xây dựng mối quan hệ giữa con người cá nhân với cộng đồng. con người trong thời trung đại đề cao tinh thần hi sinh vì cộng đồng, trách nhiệm chung với cả cộng đồng. Đó là quan niệm vua tôi, cha con: Quân thân chưa báo lòng canh cánh Tình phụ cơm trời, áo cha (Nguyễn Trãi) Hay đó là ý thức về việc lập công danh của người nam tử: Nam nhi vị liễu công danh trái / Tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu 14 Ph¹m ThÞ B×nh Chuyªn H-ng Yªn S¸ng kiÕn kinh nghiÖm (Thần thoại chú trọng mối quan hệ con người với tự nhiên, sử thi chú trọng mối quan hệ con người với lịch sử, VHHĐ chú trọng xây dựng con người trong quan hệ với chung và riêng). - Tuy nhiên, ở các tác giả tài năng và cá tính có xuất hiện con người cá nhân: + Sáng tác của Nguyễn Trãi có con người cá nhân: có sở thích cá nhân (Ông này đã có thú ông này), có bản lĩnh cá nhân (Sự thế dữ lành ai hỏi đến/ bảo rằng ông đã điếc hai tai), ý thức về tài năng cá nhân (tùng), những từ ngữ, hình ảnh thể hiện con người cá nhân (ông này, các đại từ cô, độc, nhất) + Ở Hồ Xuân Hương cũng có ý thức về cá nhân: bi kịch cá nhân (Tự tình), khát vọng cá nhân (Mời trầu, Tự tình), ý thức tài năng cá nhân (Đề đền Sầm Nghi Đống, Mắng học trò dốt) + Nguyễn Công Trứ cũng ý thức sâu sắc về tài năng cá nhân thể hiện qua lối sống ngất ngưởng, ngông (đó là biêu hiện của sự khác người, khác đời, đồng thời cũng là hơn người, hơn đời). + Con người cá nhân của Nguyễn Du - Độc Tiểu Thanh kí, Truyện Kiều, Tú Xương Thương vợ, các bài thơ viết về chủ đề thi cử). c. Thể hiện con người hành động hơn là con người cảm nghĩ. - Con người được khắc hoạ chủ yếu qua ngôn ngữ đối thoai, hành động, cử chỉ mà ít đi sâu miêu tả tâm trạng (so sánh với kiểu nhân vật trong Truyện cổ tích: chỉ có con người hành động, không có con người cá tính). Ví dụ các nhân vật Lục Vân Tiên, Kiều Nguyệt Nga, Hớn Minh, Tử trực, Vũ Nương - Nhân vật ít có sự phát triển tính cách. Các sự kiện chỉ góp phần làm nổi bật nét tính cách đã được định hình từ trước. Ví dụ tính cách Vũ Nương, Kiều Nguyệt Nga đều được ổn định với tấm lòng thuỷ chung son sắc, Lục Vân Tiên với tính cách nghĩa hiệp - Tuy nhiên, ở một số tác giả tài năng và càng về cuối của VHTĐ càng xuất hiện nhân vật với cả con người hành động và con người cảm nghĩ, con người tính cách. Ví dụ sự thể hiện tâm lí của Thuý Kiều trong đoạn trích Trao duyên, Kiều 15 Ph¹m ThÞ B×nh Chuyªn H-ng Yªn S¸ng kiÕn kinh nghiÖm ở lầu Ngưng Bích, Nỗi thương mình. d. Hướng về con người nhân cách hơn là con người tài năng. - Xuất phát từ quan niệm người xưa trọng đức hơn trọng tài dẫn đến việc VHTĐ hướng nhiều về con người nhân cách. Trong sáng tác văn học thời này người ta ít nói đến tài năng (quan niệm của Khổng Tử: người quân tử khiêm nhi bất kiêu) mà đề cao khía cạnh phẩm chất, nhân cách, đề cao cái tâm của con người. Chẳng hạn như: + Con người sống theo nguyên tắc tỏ lòng: nhân vật trữ tình trong Thuật hoài, Cảm hoài, Thuý Kiều trong Truyện Kiều, Lục Vân tiên, Kiều Nguyệt Nga + Con người nêu gương sáng: thơ văn Nguyễn Trãi, - Ở các tác giả tài năng có sự thể hiện con người tài năng, đặc biệt là từ thế kỉ XVIII. Chẳng hạn nhân vật trữ tình trong thơ Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ, Hồ Xuân Hương. 4. Thi pháp ngôn ngữ a. Tính chất song ngữ với những yếu tố ngôn ngữ Hán và yếu tố ngôn ngữ Nôm. - Ngôn ngữ của VHTĐ có tính chất song ngữ với sự kết hợp hài hoà của yếu tố Hán và yếu tố Nôm về ngôn ngữ. * Yếu tố ngôn ngữ Hán được thể hiện thông qua cách dùng những điển tích, điển cố và thi liệu Hán học. Những yếu tố ngôn ngữ Hán được sử dụng trong văn học trung đại với những trường hợp sau: - Thể hiện những gì nghiêng về cái cao cả, tao nhã Chẳng hạn trong lời của Thuý Kiều, khi nói với Thúc Sinh tác giả sử dụng nhiều yếu tố ngôn ngữ Hán vì Thúc Sinh là một chàng thư sinh cũng có học thức, đồng thời tạo tính trang nhã: Sâm thương chẳng vẹn chữ tòng Tại ai lại chẳng phụ lòng cố nhân Nhưng khi nói về Hoạn Thư - một người đàn bà tinh ma, khôn ngoan thì lời Kiều lại xuất hiện nhiều yếu tố Nôm mà không dùng thi liệu Hán: Vợ chàng quỷ quái tinh ma 16 Ph¹m ThÞ B×nh Chuyªn H-ng Yªn S¸ng kiÕn kinh nghiÖm Phen này kẻ cắp bà già gặp nhau. Kiến bò miệng chén chưa lâu. Mưu sâu cùng trả nghĩa sâu cho vừa. - Thể hiện sắc thái cổ kính, cổ xưa, vĩnh hằng Ví dụ: Trong bài Chiều hôm nhớ nhà, Bà Huyện Thanh Quan có viết: Gác mái ngư ông về viễn phố Gõ sừng mục tử lại cô thôn. Từ những hình ảnh, sự vật cụ thể mà tác giả lại sử dụng những từ Hán Việt khiến cho những con người, sự vật ấy như đã có từ xưa cũ, thiên cổ, thành vĩnh hằng. Từ đó, một nỗi nhớ cụ thể trước mắt được đẩy thành nỗi nhớ muôn đời và vĩnh hằng. Và ngược lại nỗi nhớ từ vĩnh hằng, muôn thuở đã dồn vào nỗi nhớ cụ thể của tác giả hôm nay. - Khi cần thể hiện tính chất hàm súc, cô đọng người ta cũng hay dùng những điển cố, thi liệu Hán học. Chẳng hạn, kết thúc bài Thu vịnh, Nguyễn Khuyến hạ bút với một điển cố: Nhân hứng cũng vừa toan cất bút Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào. Sử dụng điển cố ông Đào (Tức Đào Tiềm) thể hiện nỗi thẹn về nhân cách, về tài năng của Nguyễn Khuyên so với Đào Tiềm cái thẹn này làm cho con người trở lên lớn lao, cao cả hơn. * Yếu tố ngôn ngữ Nôm được thể hiện thông qua cách sử dụng ngôn ngữ đời sống, thi liệu văn học dân gian. Yếu tố ngôn ngữ Nôm được sử dụng trong VHTĐ với những trường hợp sau: - Thể hiện những gì nghiêng về sự bình dị, mộc mạc. Chẳng hạn tái hiện lại một cuộc sống của một lão nông tri điền, Nguyễn Trãi viết: Ao cạn, vớt bèo cấy muống Đìa thanh, phát cỏ ương sen.. 17 Ph¹m ThÞ B×nh Chuyªn H-ng Yªn S¸ng kiÕn kinh nghiÖm - Thể hiện những gì nghiêng về sắc thái cụ thể, sinh động. Điều này được bộc lộ rõ khi tác giả sử dụng các từ láy (láy âm, láy vần, láy toàn phần). Ví dụ: Hương cách, gác vân thu lạnh lạnh Thuyền kề bãi tuyết nguyệt chênh chênh. Trong 2 câu thơ trên, những yếu tố ngôn ngữ Hán như: hương cách, gác vân, bãi tuyết, nguyệt rất dễ khiến câu thơ rơi vào công thức, ước lệ. Hai yếu tố ngôn ngữ Nôm là hai từ láy lạnh lạnh, chênh chênh khiến cảnh hiện lên chân thực, cụ thể, sinh động chứ không còn ước lệ, công thức nữa. - Yếu tố ngôn ngữ Nôm còn được sử dụng trong những trường hợp thể hiện sự gần gũi, thân mật, đậm đà chất dân tộc. + Chẳng hạn trong thơ Nguyễn Trãi. Trong tập Quốc âm thi tập, những từ chỉ quan hệ họ hàng, thân tộc hầu như Nguyễn Trãi không sử dụng từ Hán - Việt mà chỉ sử dụng từ thuần Việt, tạo sự gần gũi, chân thành, ruột thịt: - Nuôi con mới biết lòng cha mẹ Thấy loạn thì hay đời Thuấn, Nghiêu. - Quân thân chưa báo lòng canh cánh Tình phụ cơm trời, áo cha. + Thơ Nguyễn Khuyến sử dụng nhiều ngôn ngữ đời sống. Ông chẳng hay ông tuổi đã già. Năm lăm ông cũng lão đây mà. * Đôi khi, sự kết hợp hài hoà giữa yếu tố ngôn ngữ Hán với yếu tố ngôn ngữ Nôm tạo nên hiệu quả nghệ thuật cao. - Chẳng hạn khi các tác giả tạo nên sự kết hợp giữa cái thanh cao, tao nhã với cái bình dị, mộc mạc: Kho thu phong nguyệt đầy qua nóc Thuyền chở yên hà nặng vạy then. (Chữ in nghiêng là yếu tố ngôn ngữ Hán, chữ gạch chân là yếu tố ngôn ngữ Nôm). - Hoặc khi tạo sự kết hợp giữa cái hàm súc, cô đọng, biểu tượng với cái cụ 18 Ph¹m ThÞ B×nh Chuyªn H-ng Yªn S¸ng kiÕn kinh nghiÖm thể, sinh động. Gác mái ngư ông về viễn phố Gõ sừng mục tử lại cô thôn. Sự kết hợp giữa yếu tố ngôn ngữ Hán với các yếu tố ngôn ngữ Nôm, giữa bút pháp ước lệ với nét bút cụ thể đã tạo ra bức tranh cảnh chiều hôm vừa như thuộc về dĩ vãng vừa như đang diễn ra trong thực tại, sinh động ở trước mắt. b. Tính chất cô đọng, hàm súc với việc ưa đúc chữ và tính trang nhã với việc hay dùng uyển ngữ. * Ngôn ngữ trong VHTĐ ưa sự đúc chữ. Thể hiện rõ nhất trong thơ Đường luật. - Thơ Đường luật sử dụng nhiều thực từ hơn hư từ. Đặc biệt hay sử dụng những chữ có vai trò nhãn tự, nhãn cú, thần cú, thần tự - Ví dụ: nhãn tự Vô vi cư điện các Xứ xứ ắt đao binh. (Quốc tộ - Đỗ pháp Thuận) Từ vô vi là nhãn tự của bài thơ, thể hiện quan điểm trị quốc: dùng đức để cảm hoá thì đất nước, cuộc sống của nhân dân sẽ ấm no, hạnh phúc, chiến tranh tự nó sẽ chấm dứt. - Bất tri tam bách dư niên hậu Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như? Ở đây cùng nghĩa là khóc nhưng tác giả lại sử dụng từ khấp chứ không dùng từ khốc, Bởi khốc là khóc to thành tiếng và có nước mắt, còn khốc là khóc thầm, khóc không thành tiếng, nước mắt không chảy ra ngoài mà chảy ngược vào trong. Khấp là tiếng khóc tri âm giữa những người tri kỉ chứ không phải khóc xót thương thông thường như khốc. Vì vậy có thể nói Khấp là nhãn tự của bài thơ thể hiện niềm khát khao tìm kiếm người tri âm tri kỉ của đại thi hào Nguyễn Du, đồng thời cũng cho thấy được nỗi cô đơn, cô độc, không người thấu hiểu của nhà thơ trong thực tại. 19 Ph¹m ThÞ B×nh Chuyªn H-ng Yªn S¸ng kiÕn kinh nghiÖm * Ngôn ngữ VHTĐ cũng hay dùng uyển ngữ. Biểu hiện cụ thể như sau: - Dùng cách nói nhẹ, nói tránh thay cho lối nói trực diện có thể bị coi là thô lỗ, sỗ sàng. Bởi thời trung đại quan niệm văn phải lệ (tức văn phải trau chuốt, mài giũa), từ phải mĩ (tức từ phải hay, phải đẹp). Ví dụ trong đoạn trích Trao duyên, Thuý Kiều hay dùng các uyển ngữ: - Giữa đường đứt gánh tương tư - Bây giờ trâm gãy gương tan Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân. Hay trong Truyện Lục Vân Tiên có câu: Lá vàng còn ở trên cây Lá xanh đã rụng trời hay chăng trời. - Làm cho lời đẹp một cách trau chuốt, mượt mà: Chẳng hạn trong Truyện Kiều, Từ Hải khen tài thơ của Thuý Kiều, Nguyễn Du viết: Khen tài nhả ngọc, phun châu Lời lời châu ngọc, hàng hành gấm thêu. IV. Vận dụng làm bài tập. Bài tập 1. Đặc điểm thơ Nôm Đường luật? Phương pháp phân tích thơ Nôm Đường luật? Vận dụng phương pháp đó để phân tích bài thơ Nôm Đường luật Cảnh ngày hè - Nguyễn Trãi. * Gợi ý * Đặc điểm thơ Nôm Đường luật - Thơ Nôm Đường luật là một thành tựu rực rỡ của thơ ca trung đại Việt Nam. Dân tộc hoá từ thể loại thơ Đường luật của Trung Quốc - Đặc điểm của thơ Nôm Đường luật, nói một cách ngắn gọn và bản chất nhất là sự kết hợp hài hòa giữa yếu tố Nôm và yếu tố Đường luật. Hai yếu tố này vừa hòa quyện, đan xen vào nhau tạo nên giá trị của mỗi tác phẩm vừa có tính độc lập tương đối, có thể tách ra để nhận diện đặc điểm của thể loại. Mỗi một yếu tố có những giá trị biểu đạt, biểu cảm, giá trị thẩm mỹ khác nhau. 20 Ph¹m ThÞ B×nh Chuyªn H-ng Yªn Tải về bản full
|