Cho vay ngang ha ng p2p là gì năm 2024

Như vậy, có thể thấy, thị trường P2P Lending ở mỗi quốc gia sẽ mang đặc điểm, màu sắc khác nhau, từ đó, chính sách điều tiết cũng rất đa dạng; trong đó, điểm chung là các đơn vị muốn cung cấp dịch vụ P2P Lending đều phải được cấp giấy phép, tuân thủ các quy định về quản lý an toàn hoạt động. Trong đó, ba vấn đề chính được quan tâm hàng đầu gồm: (i) Quy định về tiêu chuẩn cấp phép, hoạt động và giám sát đối với tổ chức cung cấp nền tảng công nghệ; (ii) Quy định về giới hạn đầu tư/cho vay của nhà đầu tư; (iii) Quy định và hoạt động giám sát công bố thông tin.

3. Thực trạng P2P Lending tại Việt Nam

Xu hướng phát triển dịch vụ P2P Lending đã lan rộng tới cả các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam. Trong số hơn 100 công ty Fintech được cấp phép thì có đến 40 công ty có dịch vụ P2P Lending (tiêu biểu như Tima, Trustcircle, We Cash, Interloan, Lenbiz, Vnvon.com...), trong đó có một số công ty có nguồn gốc từ Trung Quốc, Indonesia hay Singapore. Một số đang hoạt động khá hiệu quả, nhất là những công ty cho vay nhắm vào phân khúc DNNVV, dần giúp thị trường này trở thành một kênh huy động vốn tiềm năng cho các DNNVV - vốn là đối tượng có nhu cầu vốn hoạt động sản xuất, kinh doanh thay đổi lớn trong quá trình hoạt động cũng như thường phải huy động vốn từ nguồn không chính thức.

Mô hình phát triển P2P Lending tại Việt Nam cũng khá đa dạng. Theo Ngân hàng Nhà nước (NHNN), mô hình hoạt động trực tiếp và gián tiếp đều đã được triển khai tại Việt Nam.

Thứ nhất, với mô hình trực tiếp, các công ty Fintech có dịch vụ P2P Lending cung cấp công nghệ đơn thuần. Đây là các công ty cung cấp nền tảng công nghệ để kết nối giữa người cho vay - người đi vay và hưởng phí. Các công ty công nghệ này cũng có thể hợp tác với các ngân hàng trong lĩnh vực thanh toán, quản lý tài khoản của khách hàng tại ngân hàng như: Công ty cổ phần Interloan hợp tác với ba ngân hàng Sacombank, Nam Á Bank và Vietcapital Bank; Công ty cổ phần Tima hợp tác với NCB, Nam Á Bank; Công ty cổ phần Lendbiz hợp tác với PG Bank, VIB…

Thứ hai, với mô hình cho vay gián tiếp, các công ty P2P Lending hợp tác với ngân hàng, tổ chức tín dụng để cho vay khách hàng. Theo đó, một số ngân hàng kết hợp với công ty công nghệ để cho vay khách hàng doanh nghiệp nhỏ và cá nhân như Dragon Bank, The Bank, Gobear là ba công ty cổ phần hợp tác và kết nối với ngân hàng trong việc tìm kiếm khách hàng. Các ngân hàng hợp tác rất đa dạng. Công ty cổ phần Dragon Bank hợp tác với các ngân hàng: OCB, Shinhan Bank, HDBank, ACB, UOB, VPBank, TPBank, MSB. Công ty cổ phần Gobear kết nối với BaovietBank, Citibank, DongA Bank, Eximbank, HD Bank. The Bank có các đối tác tài chính là: FE Credit, Techcombank, Manulife, VPBank, UOB, Shinhan Bank, BIDV, ABBank, Sacombank,… Nhìn chung, các công ty P2P Lending kết nối với ngân hàng sẽ hợp tác với rất nhiều tổ chức tài chính.

Hoạt động P2P Lending đã cho phép khách hàng tra cứu thông tin và thực hiện giao dịch vay tiền qua nhiều kênh như website, ứng dụng di động, facebook, zalo hoặc đường dây nóng mà không cần đến văn phòng để ký kết giấy tờ. Quyết định cho vay sẽ được phản hồi rất nhanh trong ngày hoặc tối đa là một tuần. Vì vậy, khả năng tiếp cận khách hàng tốt và thu hút được sự quan tâm của nhiều doanh nghiệp nhỏ có nhu cầu vay vốn sản xuất, kinh doanh ngắn hạn. Đến nay, số lượng người vay và người cho vay/nhà đầu tư khá lớn như Tima (tổng số tiền lên đến gần 100 nghìn tỷ đồng và tổng số người cho vay gần 3 triệu người)... với thời hạn cho vay phần lớn là ngắn hạn, dưới 1 năm. Mức cho vay nhỏ, mức vay tối đa của nhiều sản phẩm ở mức 50 triệu đồng và thực tế cho vay phổ biến là 10 triệu đồng với cá nhân, với doanh nghiệp món vay thường dưới 400 triệu đồng (có trường hợp lên đến 1 tỷ đồng/doanh nghiệp như tại Lenbiz).

Đồng thời, sản phẩm P2P Lending khá đa dạng, bao gồm cho vay đáp ứng nhu cầu sản xuất kinh doanh và phục vụ đời sống... Định hướng khách hàng mục tiêu của các công ty khá rõ ràng và đa dạng. Bên cạnh một số công ty phục vụ khách hàng cá nhân như Tima, Vaymuon…, nhiều công ty tập trung vào khách hàng doanh nghiệp nhỏ, hộ kinh doanh như HuyDong, Lendbiz... là đối tượng thường có nhu cầu vay vốn lưu động. Theo đó, ước tính đến cuối năm 2021, Lenbiz đã giải ngân lên đến 756 tỷ đồng cho doanh nghiệp/hộ kinh doanh, với hơn 980 chiến dịch gọi vốn và thu hút gần 7.000 nhà đầu tư. Các doanh nghiệp thường được cung ứng vốn nhanh hơn và thủ tục cũng đơn giản hơn - điều này là cần thiết hơn với các DNNVV với các khoản vay giá trị không cao. Lãi suất cho vay thường cao hơn nhiều so với lãi cho vay của các NHTM, nhưng vẫn thấp hơn các nguồn vốn phi chính thức như tín dụng đen. Theo thông tin từ Vụ Chính sách tiền tệ - NHNN, lãi suất cho vay của các công ty P2P Lending thường từ 20 - 30%/năm cho nhà đầu tư, nhưng còn một số loại phí như phí tư vấn, phí trả nợ trước hạn…

Tuy nhiên, hiện nay, đa phần các công ty P2P Lending có trụ sở hoạt động tại hai thành phố lớn là Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh và thường có quy mô nhỏ nên khả năng phòng vệ rủi ro còn hạn chế. Vốn điều lệ của các công ty phần lớn là dưới 10 tỷ đồng, rất ít công ty có vốn điều lệ trên 10 tỷ đồng. Ngoài ra, thị trường còn tồn tại một số bất cập khi một số công ty P2P Lending tự huy động vốn, rồi cho vay; một số khác thực chất là doanh nghiệp cầm đồ xây dựng App và website riêng để cho vay dưới hình thức cho vay nặng lãi, hoặc có thể liên kết với công ty công nghệ để ứng dụng trong cho vay cầm đồ... Đặc biệt là sau khi Chính phủ Trung Quốc siết chặt lại các hoạt động này thì một số nền tảng P2P Lending không chính thống của Trung Quốc đã chuyển hoạt động sang Việt Nam. Đây là những hình thức cần ngăn chặn vì gây nên hệ lụy xã hội xấu và đặc biệt dễ bị người dân hiểu và đánh giá sai về các công ty P2P Lending. Bên cạnh đó, không loại trừ trường hợp các NHTM hợp tác, liên kết với các công ty P2P Lending mà không kiểm soát hết được những rủi ro thì có thể chịu tác động tiêu cực về chất lượng tín dụng, uy tín, thương hiệu…

Nguyên nhân một phần của những tồn tại này là do thiếu những chế tài pháp lý quản lý hoạt động P2P Lending tại Việt Nam. Cho vay là một trong các hình thức cấp tín dụng và bị điều chỉnh bởi Luật Các tổ chức tín dụng, nhưng P2P Lending thì không bị điều chỉnh bởi Luật này mà hiện vẫn được điều chỉnh theo Bộ luật Dân sự năm 2015. Từ năm 2017, NHNN đã thành lập Ban Chỉ đạo về lĩnh vực Fintech, trong đó có P2P Lending. Theo đó, NHNN sẽ nghiên cứu và đề xuất quy định quản lý về hoạt động P2P Lending dựa trên nền tảng Fintech. Ngày 08/7/2019, NHNN ban hành Công văn số 5228/NHNN-CSTT yêu cầu các tổ chức tín dụng thận trọng trong việc ký kết và thực hiện các thỏa thuận hợp tác với các công ty P2P Lending để đảm bảo an toàn của hệ thống ngân hàng. Tiếp đó, theo Quyết định số 999/QĐ-TTg ngày 12/8/2019 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án thúc đẩy mô hình kinh tế chia sẻ, NHNN được giao nhiệm vụ nghiên cứu xây dựng cơ chế thí điểm về quản lý hoạt động P2P Lending.

Đồng thời, theo các Nghị quyết, Quyết định của Bộ Chính trị, Chính phủ về chương trình chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 thì Việt Nam sẽ tập trung ban hành cơ chế, chính sách để các doanh nghiệp thực hiện chuyển đổi số được tiếp cận tín dụng một cách thuận lợi, xây dựng hệ sinh thái dịch vụ tài chính - ngân hàng để thúc đẩy phổ cập tài chính quốc gia… Ngày 11/5/2021, Thống đốc NHNN đã ký Quyết định số 810/QĐ-NHNN phê duyệt “Kế hoạch chuyển đổi số ngành Ngân hàng đến năm 2025, định hướng đến năm 2030” thể hiện rõ định hướng trong việc phát triển các dịch vụ tài chính số như chỉ tiêu về tỷ lệ quyết định giải ngân, cho vay của NHTM, công ty tài chính đối với các khoản vay nhỏ lẻ, vay tiêu dùng của khách hàng cá nhân được thực hiện theo hướng số hóa, tự động, đến năm 2025 đạt tối thiểu 50% và đến năm 2030 đạt tối thiểu 70%...

Như vậy, có thể thấy, thị trường P2P Lending tại Việt Nam đã hình thành và đạt được kết quả bước đầu, có nhiều cơ hội tiếp tục phát triển mạnh mẽ hơn trong tương lai. Tuy nhiên, cũng có những rủi ro tiềm ẩn; do đó, việc quản lý, kiểm soát thị trường P2P Lending là rất cần thiết để có thể hiện thực hóa tiềm năng trở thành kênh huy động vốn hiệu quả cho DNNVV của thị trường này.

4. Giải pháp phát triển P2P Lending tại Việt Nam trở thành một kênh cung ứng vốn mới cho DNNVV

Xu thế phát triển P2P Lending tại Việt Nam được đánh giá là rất tiềm năng với các lý do chính là: (i) Dân số hơn 98 triệu người, với phần đông trong độ tuổi lao động, thu nhập đang tăng khá nhanh và người dân thích dùng công nghệ tiên tiến để đầu tư cũng như tiêu dùng; (ii) Khả năng tiếp cận dịch vụ tài chính - ngân hàng còn ở mức khiêm tốn so với khu vực (theo Ngân hàng Thế giới, tại Việt Nam, số người lớn có tài khoản ngân hàng năm 2017 khoảng 31%, hết năm 2021 có thể lên tới 45 - 50% - theo ước tính của nhóm tác giả), nhu cầu vay vốn của các DNNVV để khôi phục sản xuất kinh doanh sau đại dịch dự kiến sẽ gia tăng. Vì vậy, khuyến khích hoạt động P2P Lending an toàn, trở thành kênh cung ứng vốn hiệu quả cho khách hàng nói chung, DNNVV nói riêng, chúng tôi gợi ý một số giải pháp như sau:

Thứ nhất, cần có định nghĩa về P2P Lending để xác định khung pháp lý quản lý phù hợp (cơ quan quản lý là NHNN, áp dụng các Luật liên quan), trước mắt có thể là cơ chế quản lý thử nghiệm (regulatory sandbox), lựa chọn mô hình vận hành đảm bảo an toàn cho các bên tham gia (tham khảo áp dụng mô hình Nhật Bản, Mỹ). Theo đó, cần cân nhắc hoàn thiện các quy định, giải pháp về dữ liệu, cơ chế chia sẻ thông tin, dữ liệu giữa tổ chức tín dụng và Fintech, Bigtech… để tạo điều kiện cho phát triển hệ sinh thái tài chính số nói chung và P2P Lending nói riêng.

Thứ hai, cơ chế cấp phép đối với công ty P2P Lending trên cơ sở xác định các tiêu chuẩn về vốn tối thiểu, năng lực về công nghệ, tiêu chuẩn đội ngũ quản lý và nhân viên… Trong đó, các công ty P2P Lending khi thành lập phải xây dựng được một hệ thống chấm điểm rủi ro tín dụng công khai, minh bạch. Đặc biệt là các yêu cầu về quản lý rủi ro lan truyền đến thị trường tài chính thông qua khuyến khích các công ty P2P Lending có cơ chế phòng vệ hợp lý thông qua Quỹ dự phòng rủi ro tín dụng.

Thứ ba, quy định về đảm bảo an toàn hoạt động đối với công ty P2P Lending cùng với chính sách kiểm tra, giám sát định kỳ tương ứng (các quy định về chế độ báo cáo, tuân thủ các yêu cầu về vốn điều lệ, giới hạn vốn huy động, minh bạch thông tin, tiêu chuẩn đội ngũ cán bộ chủ chốt, hệ thống công nghệ thông tin và quản lý rủi ro, quỹ phòng ngừa rủi ro, tính tuân thủ…).

Thứ tư, nghiên cứu và áp dụng các biện pháp quản lý và bảo vệ quyền lợi nhà đầu tư tham gia hoạt động P2P Lending để tránh các hệ lụy kinh tế - xã hội trong trường hợp xảy ra rủi ro. Cụ thể là việc thiết lập các quy định và giám sát tuân thủ về các giới hạn đầu tư so với thu nhập của nhà đầu tư, quy định về giới hạn góp vốn của mỗi nhà đầu tư, quy định về quyền tiếp cận thông tin…

Thứ năm, để hoạt động P2P Lending phát triển an toàn, hiệu quả, Chính phủ cũng như các bộ, ngành liên quan cần chú trọng nâng cấp hạ tầng công nghệ thông tin quốc gia, nhất là cơ sở dữ liệu định danh cá nhân, chính quyền điện tử… cũng như chú trọng yêu cầu về quản lý rủi ro công nghệ thông tin của hệ thống tài chính - ngân hàng, từ đó không chỉ tạo nền tảng quản lý P2P Lending mà còn hỗ trợ cho cả thị trường tài chính - ngân hàng số nói chung.

Thứ sáu, NHNN chỉ đạo/phối hợp với các hiệp hội/tổ chức xã hội đẩy mạnh giáo dục tài chính, đặc biệt là tiếp cận với các sản phẩm tài chính công nghệ, trong đó có P2P Lending. Trong đó, một trong những yêu cầu đặt ra là giúp cho DNNVV, các hộ kinh doanh cũng như người dân nói chung nâng cao khả năng nhận thức về dịch vụ P2P Lending, những rủi ro khi sử dụng dịch vụ này cũng như nâng cao các kiến thức cơ bản về tài chính, ngân hàng khác.

1. Bảo Trân (2020), Lúng túng quản lý, P2P biến tướng, Đầu tư Tài chính.

2. Các website: ec.europa.eu, exploreP2P.com, tapchicongsan.org.vn

3. Chen D, Lai F, Lin Z (2014), A trust model for online peer-to-peer Lending: a lender’s perspective, Information Technology and Management,15(4):239–254

4. Davis K, Murphy J (2016), Peer to Peer Lending: structures, risks and regulation.

5. Gan D (2017), Comparative Analysis of Peer-to-Peer Lending in China and the United Kingdom: An Assessment of the Lending Plaza’s Market Entry.

6. Nguyễn Thị Lệ Hà, Vũ Văn Thực (2019), Kinh nghiệm cho vay ngang hàng ở một số quốc gia trên thế giới và bài học cho Việt Nam, Tạp chí Thị trường Tài chính tiền tệ.

7. Mateescu Al (2015), Peer-to-Peer Lending, Data & Society Research Institute, p. 19-25.

8. TS. Cấn Văn Lực và nhóm nghiên cứu Viện Đào tạo và Nghiên cứu BIDV, Cho vay ngang hàng - kinh nghiệm quản lý của các nước và hành lang pháp lý tại Việt Nam, truy cập tại https://cafef.vn/

9. Vụ Chính sách tiền tệ, Ngân hàng Nhà nước (2020), Chương trình tập huấn về cho vay ngang hàng, truy cập tại http://truongnganhang.edu.vn/

Ứng dụng cho vay ngân hàng P2P là gì?

– Cho vay ngang hàng( Peer-to-peer) lending – P2P là một loại nền tảng cho phép người tham gia vay và cho vay một khoản tiền mà không cần phải dựa vào một tổ chức tài chính thông thường để kiểm soát các giao dịch.

Đầu tư P2P là gì?

Mạng ngang hàng P2P (Peer-to-Peer) là một hệ thống máy tính kết nối với nhau thông qua Internet và chia sử dữ liệu mà không cần sự trung gian của máy chủ trung tâm qua cơ chế phân tán.

Chuyển tiền Peer to Peer là gì?

Giao dịch tiền mã hoá P2P là một phương thức mua và bán tiền mã hoá trực tiếp giữa những người dùng mà không cần trung gian trung tâm. Người dùng có thể sử dụng một sàn giao dịch P2P để tiếp cận thị trường toàn cầu, nhiều tùy chọn thanh toán và ưu đãi được cá nhân hóa.

Lợi ích của nền tảng cho vay ngang hàng là gì?

Bằng sự hỗ trợ của nền tảng kết nối trực tuyến cùng công nghệ xử lý thông tin dựa vào dữ liệu lớn và trí tuệ nhân tạo, chi phí kết nối và xử lý giao dịch giữa bên cho vay và bên vay được giảm thiểu; nhờ đó, hoạt động cho vay ngang hàng có thể cung cấp các khoản vay với lãi suất thậm chí là thấp hơn so với hoạt động ...