Chiến thắng trên sông Như Nguyệt có ý nghĩa quân trong như thế nào

  • lý thuyết
  • trắc nghiệm
  • hỏi đáp
  • bài tập sgk

trình bày ý nghĩa chiến thắng như nguyệt

Các câu hỏi tương tự

Câu hỏi: Tóm tắt diễn biến trận chiến trên sông Như Nguyệt

Trả lời:

Cuộc chiến đấu trên phòng tuyến Như Nguyệt.

a. Diễn biến:

- Quách Quỳ cho quân vượt sông tấn công vào phòng tuyến của ta nhưng bị quân ta phản công.

- Một đêm cuối xuân 1077, nhà Lý cho quân vượt sông, bất ngờ tấn công vào đồn giặc.

- Quân giặc “mười phần chết đến năm sáu phần”.

- Quách Quỳ chấp nhận “giảng hòa” và rút quân về nước.

c. Kết quả: quân ta dành thắng lợi

d. Ý nghĩa lịch sử:

- Củng cố nền độc lập của đất nước.

- Đập tan âm mưu xâm lược Đại Việt của nhà Tống.

- Là một trong những trận đánh lớn trong lịch sử nước ta.

Cùng Top lời giải tìm hiểu về cuộc chiến trên sông Như Nguyệt nhé!

1. Khái quát chung về trận chiến trên phòng tuyến Như Nguyệt [1077]

- Trận Như Nguyệtlà một trận đánh lớn diễn ra ở một khúcsông Như Nguyệt[haysông Cầu] vào năm1077, là trận đánh có tính quyết định của cuộcChiến tranh Tống-Việt, 1075-1077, và là trận đánh cuối cùng củanhà Tốngtrên đấtĐại Việt.

- Trận chiến diễn ra trong nhiều tháng, kết thúc bằng chiến thắng của quân độiĐại Việtvà thiệt hại nhân mạng lớn của quân Tống, đánh bại hoàn toàn ý chí xâm lược Đại Việt của họ, buộc họ phải thừa nhận Đại Việt là một quốc gia.

2. Nguyên nhân, diễn biến, kết quả của trận đánh

- Nguyên nhân : Sông Như Nguyệt là con sông chặn ngang tất cả các ngả đường bộ từ Quảng Tây vào Thăng Long. Giặc chắc chắn sẽ đi con đường này nên Lý Thường Kiệt đã cho quân xây dựng phòng tuyến sông Như Nguyệt

- Diễn biến:

+ Đầu năm 1076, ngay sau khi đại phá quân Tống ở Châu Ung, Châu Khâm và Châu Liêm trở về, Lý Thường Kiệt đã lập tức bố trí lực lượng quân đội ở những vị trí hiểm yếu nhất, sẵn sàng đón đánh quân Tống, nếu chúng dám liều lĩnh tràn sang. Toàn bộ lực lượng bộ binh do Lý Thường Kiệt trực tiếp chỉ huy, nhưng tất cả thủy binh đều do Hoằng Chân, Chiêu Văn và Lý Kế Nguyên dẫn đầu.

+ Ngày 8-1-1077, bộ binh giặc vượt ải Nam Quan để tiến vào lãnh thổ nước ta. Ngày 18-1-1077, giặc đã áp sát vùng bờ Bắc sông Cầu và tại đây, cuộc tấn công của chúng bị chặn đứng. Quân Tống không sao vượt nổi chiến tuyến sông Cầu. Mọi mưu toan và cố gắng của chúng đều bị đánh bại. Ở bờ Bắc sông Cầu, quân Tống đành phải chia làm 2 khối lớn, lập trại đóng giữ để chờ thủy binh. Khối thứ nhất do Phó tướng Triệu Tiết cầm đầu, đóng ở bờ Bắc bến Như Nguyệt. Khối thứ 2 do Chánh tướng Quách Quỳ chỉ huy, đóng cách Triệu Tiết khoảng 15 cây số về phía Đông. Chúng nôn nóng chờ đợi đạo thủy binh vì chỉ khi nào có thêm thủy binh, chúng mới có thể vượt sông Cầu một cách thuận lợi. Nhưng thủy binh của chúng lại không sao có thể đến được.

+ Tại miền duyên hải Đông Bắc, tướng Lý Kế Nguyên lập công lớn. Ông đã chỉ huy thủy binh chặn đứng giặc ở Vĩnh An, kế hoạch cấp tốc hành quân để hỗ trợ cho bộ binh của chúng bị thất bại. Từ Vĩnh An, giặc điên cuồng mở đường máu để tiến vào châu thổ nước ta, nhưng cả 10 trận liều lĩnh đều bị đánh bại cả 10. Chiến công của Lý Kế Nguyên có ý nghĩa rất to lớn đối với thắng lợi chung của toàn bộ cuộc kháng chiến chống Tống. Việc chặn đứng và vô hiệu hóa lực lượng thủy binh giặc ở Vĩnh An đã khiến mưu đồ chung của Quách Quỳ và Triệu Tiết bị sụp đổ.

+ Từ đây, đại binh của nhà Tống lâm vào thế bế tắc và khủng hoảng ngày càng nghiêm trọng. Kế hoạch vượt sông Cầu không sao thực hiện được. Những mục tiêu lớn đặt ra cho cuộc viễn chinh cũng không sao có thể thực hiện được. Trong lúc đó, lương ăn của giặc ngày một cạn, khí hậu nóng bức ngày một đến gần, bệnh dịch cũng bắt đầu xuất hiện. Đúng lúc quân Tống ở vào thế khủng hoảng, khốn quẫn như vậy thì Lý Thường Kiệt hạ lệnh phản công. Trận quyết chiến chiến lược Như Nguyệt bắt đầu.

+ Người mở đầu cho trận đánh lịch sử này chính là Hoằng Chân và Chiêu Văn. Từ Vạn Xuân, Hoằng Chân và Chiêu Văn đã bất ngờ cho quân ngược sông Cầu, ồ ạt tấn công vào doanh trại của Quách Quỳ. Thủy binh của ta vừa đánh vừa phô trương thanh thế, cốt tập trung sự chú ý của giặc. Sau cơn hốt hoảng, Quách Quỳ dốc toàn lực để đánh trả. Khối quân của Triệu Tiết cũng vội vã dồn về để trợ chiến. Giặc rất hí hửng, bởi chúng muốn vượt sông Cầu để tìm diệt quân chủ lực của ta, nhưng không sao vượt được thì giờ đây, chính quân chủ lực của ta đã xuất hiện ngay ở bờ Bắc sông Cầu. Một trận ác chiến đã diễn ra. Và trong trận ác chiến này cả Hoằng Chân và Chiêu Văn đều anh dũng hy sinh. 2 vị hoàng tử không còn nữa, nhưng cuộc chiến đấu của họ đã tạo điều kiện cho đại binh của Lý Thường Kiệt dễ dàng vượt sông Cầu. Khi đại binh ta tiến sang bờ Bắc một cách an toàn và đánh quyết liệt, Quách Quỳ và Triệu Tiết chỉ còn biết hốt hoảng tháo chạy. Quá nửa quân số của giặc bị giết.

- Kết quả : Quân ta chủ động kết thúc chiến tranh bằng đề nghị giảng hòa, quân Tống chấp nhận ngay vội đem quân về nước

3. Ý nghĩa lịch sử

- Đây là chiến thắng tuyệt vời trong lịch sử chống giặc ngoại xâm của dân tộc.

- Nền độc lập tự chủ của Đại Việt được bảo vệ và củng cố.

- Nhà Tống từ bỏ mộng xâm lược Đại Việt.

* Chuẩn bị : - Sau khi rút quân khỏi thành Ung Châu, Lý Thường Kiệt cho quân bố phòng: + Cho quân mai phục ở biên giới. + Cử Lý Kế Nguyên giữ vùng biển Quảng Ninh để chặn quân thủy. + Xây dựng phòng tuyến Sông Cầu [sông Như Nguyệt], do Lý Thường Kiệt chỉ huy gồm cả quân thủy và quân bộ. Phòng tuyến sông Cầu xây dựng ở bờ Nam sông Như Nguyệt [sông Cầu], đây là con sông chặn ngang tất cả các ngả đường bộ từ Trung Quốc vào Thăng Long, phòng tuyến dài 100 km được đắp bằng đất cao, vững chắc. Được ví như chiến hào tự nhiên, khó vượt qua. Diễn biến: Cuối năm 1076 quân Tống tấn công nước ta bằng 2 cánh quân thủy bộ: - Quân bộ do Quách Quỳ, Triệu Tiết chỉ huy gồm 10 vạn bộ binh tinh nhuệ, 1 vạn ngựa chiến, 20 vạn dân phu. Quân thủy do Hòa Mâu dẫn đầu.

- Quân bộ vượt ải Nam Quan vào Lạng sơn bị Thân cảnh Phúc chặn đánh phải dừng lại ở bờ bắc sông Như Nguyệt, chờ quân thủy tiếp viện, nhưng quân thủy đã bị Lý kế Nguyên đánh bại.

Xem thêm trận đánh khác cũng diễn ra gần khúc sông này vào năm 1285 tại bài Trận Như Nguyệt [1285]

Trận Như Nguyệt là một trận đánh lớn diễn ra ở một khúc sông Như Nguyệt [hay sông Cầu] vào năm 1077, là trận đánh có tính quyết định của cuộc Chiến tranh Tống-Việt, 1075-1077, và là trận đánh cuối cùng của nhà Tống trên đất Đại Việt. Trận chiến diễn ra trong nhiều tháng, kết thúc bằng chiến thắng của quân đội Đại Việt và thiệt hại nhân mạng lớn của quân Tống, đánh bại hoàn toàn ý chí xâm lược Đại Việt của họ, buộc họ phải thừa nhận Đại Việt là một quốc gia.[6]

Trận Như NguyệtMột phần của Chiến tranh Tống-Việt, 1075-1077Thời gianĐịa điểmKết quả
18 tháng 1,1077-28 tháng 2,1077

sông Như Nguyệt, Đại Việt

chiến thắng quyết định cho Đại Việt
Tham chiến Đại Tống Đại ViệtChỉ huy và lãnh đạo Quách Quỳ
Triệu Tiết
Miêu Lý
Hòa Mâu Lý Thường Kiệt
Hoằng Chân 
Chiêu Văn 
Thân Cảnh Phúc 
Lý Kế Nguyên
Lưu BaLực lượng 45.000 lính chính quy
55.000 binh trưng tập ở biên giới[1]
10.000 ngựa
200.000 dân phu[2][3] 60.000 quân[4]-100.000 quânThương vong và tổn thất 76.600 quân và 80.000 phu phục dịch[5]
Hơn 6.000 ngựa không rõ

Bài chi tiết: Chiến tranh Tống-Việt, 1075-1077

Nhà Tống Trung Quốc vào thế kỷ 11 có ý định xâm lược Đại Việt để mở rộng lãnh thổ, nhằm giải quyết một số khó khăn về đối nội và đối ngoại, đồng thời trả thù lần thất bại trong cuộc chiến tranh Tống-Việt lần 1 trước đó[7]. Họ ra sức chuẩn bị cho việc tiến công Đại Việt: xây dựng đường giao thông, cơ sở chứa lương thực[8], huấn luyện binh sĩ, cho quân đóng trại sát biên giới Tống-Việt.[9]

Nhà Lý sớm nhận ra ý định này của nhà Tống nên đã thực hiện một chiến dịch đánh đòn phủ đầu vào cuối năm 1075 đầu năm 1076, phá hủy các căn cứ hậu cần chuẩn bị cho chiến tranh của nhà Tống. Nhà Tống vẫn quyết tâm tiến hành chiến tranh, vua Tống Thần Tông cử Quách Quỳ chỉ huy, Viên ngoại lang Bộ Lại Triệu Tiết làm phó tướng cho cuộc tấn công thay đổi kế hoạch và chuẩn bị kỹ hơn cho cuộc tiến quân. Họ điều động cả bộ binh lẫn thủy binh nhằm chuẩn bị đánh Đại Việt.[2]

Trước binh lực mạnh của nhà Tống, Lý Thường Kiệt quyết định chọn chiến lược phòng thủ:[10] ông dùng các đội quân của các dân tộc thiểu số ở miền núi phía bắc nhằm quấy rối hàng ngũ của quân Tống[11]. Các tướng Lưu Kỹ, Phò mã Thân Cảnh Phúc, Vi Thủ An đem quân hãm bước tiến quân Tống ở Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, đồng thời chặn một bộ phận thủy quân của nhà Tống từ Quảng Đông xuống[11]... Sau khi chặn đánh quân Tống không thành tại vùng núi phía Bắc, Lý Thường Kiệt lui quân về phía nam Sông Cầu. Được sự giúp sức của nhân dân, Lý Thường Kiệt đã xây dựng một phòng tuyến trên sông Như Nguyệt [một đoạn của khúc sông Cầu] để biến nơi đây là nơi diễn ra trận đánh quyết định của cả cuộc chiến.[12]

Quân Tống

Quân Tống huy động khoảng 100.000 quân chiến đấu [45.000 binh từ biên giới với Liêu Hạ, số còn lại là binh trưng tập][1], 10.000 ngựa, 200.000 dân phu,[2][3] đồng thời có sự hỗ trợ từ lực lượng thủy binh. Quân đội có kinh nghiệm chiến đấu dày dạn trang bị tốt với máy bắn đá và hỏa tiễn.[10] Chỉ huy là Quách Quỳ và Phó Chỉ huy là Triệu Tiết cùng với nhiều tướng khác được điều về từ miền bắc Tống.[2] Trong số này 4,5 vạn là quân rút từ miền biên giới Liêu Hạ, do 9 tướng chỉ huy. Số còn lại là trưng tập ở các lộ, đặc biệt là các lộ dọc đường từ kinh đô đến Ung Châu.[13]

Quân Lý

Bộ phận quân chủ lực của nhà Lý gồm thủy binh và bộ binh phòng thủ và chiến đấu tại sông Như Nguyệt có 60.000 quân[4][14] và một số lực lượng không tham gia trực tiếp vào trận đánh dùng để hãm chân và quấy rối tiếp vận phía sau có tầm trên 15.000 người.[11] Toàn bộ lực lượng bộ binh do Lý Thường Kiệt trực tiếp chỉ huy, nhưng tất cả thủy binh đều do Hoằng Chân, Chiêu Văn và Lý Kế Nguyên cầm đầu. Bấy giờ, thủy binh được bố trí cụ thể như sau:

- Đại bộ phận tập trung ở Vạn Xuân, tức là ở khu vực cực Đông của chiến tuyến sông Cầu. "Vạn Xuân là một vị trí chiến lược trọng yếu ở vào đầu mối của tất cả các đường thủy vùng Đông Bắc. Từ Vạn Xuân, thủy binh ta có thể vượt sông Lục Nam, sông Thương, sông Cầu tiến sâu vào địa bàn vùng Đông Bắc, có thể xuôi sông Bạch Dằng, sông Thái Bình ra biển, có thể theo sông Đuống về Thăng Long"[15]. Ở đây có khoảng 400 chiến thuyền và hơn 20.000 quân, tất cả đặt dưới sự chỉ huy của Hoằng Chân và Chiêu Văn.

- Một bộ phận thủy binh khác do Lý Kế Nguyên chỉ huy, tiến ra đóng giữ ở vùng duyên hải  Đông Bắc, sẵn sàng đánh trả đạo thủy binh của nhà Tống. Quân số và phương tiện chiến đấu của bộ phận này cụ thể ra sao, hiện chúng ta vẫn chưa rõ, chỉ biết là nhỏ hơn so với bộ phận thủy binh do Hoằng Chân và Chiêu Văn chỉ huy, nhưng lại đủ lớn để có thể chủ động tổ chức những trận đánh quyết liệt với đạo thủy binh của giặc.

Bài chi tiết: Sông Như Nguyệt và Phòng tuyến sông Như Nguyệt

Đoạn sông Như Nguyệt mà Lý Thường Kiệt chọn lựa xây dựng phòng tuyến có vị trí mang tính chiến lược: có núi ở cả hai bên bờ[16], đoạn sông có chiều dài khá rộng lên hơn 100 mét[17], vắt ngang con đường dễ dàng nhất để vượt qua sông Cầu[18], con sông chặn mọi đường trên bộ có thể dùng để tiến quân vào Thăng Long[18]. Trên khúc này có khoảng 11 bến đò ngang: Như Nguyệt, Tiểu Lâm, Dũng Liệt, Phù Yên, Đẩu Hàn, Phù Cầm, Lượng Sài, Đáp Cầu, Yên Ngô, Bằng Lâm, Phả Lại[18]. Hai bến có tuổi đời lâu và quan trọng nhất là Như Nguyệt và Thị Cầu [hay Đáp Cầu về sau] nằm trên đường giao thông quan trọng tiến vào Thăng Long và là con đường thuận lợi nhất để quân Tống vượt qua sông và tiến về Thăng Long. Vì địa thế quan trọng này, Lý Thường Kiệt quyết định lập một phòng tuyến tại đây nhằm đánh một trận chiến lược[19]

Khu vực phòng thủ mà Lý Thường Kiệt xây dựng chạy dài từ chân núi Tam Đảo [khoảng Đa Phúc] với nhiều chỗ núi ăn sát bờ sông hoặc rừng cây có mật độ dày đặc. Địa hình này có thể được lợi dụng để ngăn việc vượt sông dễ dàng, tạo điều kiện cho quân nhà Lý không cần phải xây dựng một chiến tuyến dài hết nam sông Như Nguyệt mà chỉ cần xây ở các khu vực đường giao thông, quan trọng nhất là đoạn Như Nguyệt, Thị Cầu và Vạn Xuân.[20]

Chiến lũy của phòng tuyến được xây dựng bằng đất có đóng cọc tre dày mấy tầng làm dậu[21]. Dưới bãi sông được bố trí các hố chông ngầm tạo thành một phòng tuyến rất vững chắc. Quân của nhà Lý đóng thành từng trại trên suốt chiến tuyến, mà quan trọng nhất là ba trại ở Như Nguyệt, Thị Cầu, Phấn Động[22]. Mỗi trại binh có thể có thêm thủy binh phối hợp. Quân chủ lực do chính Lý Thường Kiệt chỉ huy đóng ở phủ Thiên Đức[23], một vị trí có thể cơ động chi viện nhiều hướng và khống chế mọi ngả đường tiến về Thăng Long. Quân Tống cũng đóng dọc theo hai bờ sông, tập trung ở các vị trí quan trọng: phó tướng Triệu Tiết đóng tại khu vực mà ngày nay là thôn Mai Thượng, xã Mai Đình, Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang khoảng đối diện bến Như Nguyệt[24]; quân chủ lực do Quách Quỳ chỉ huy đóng tại phía đông cách Triệu Tiết chừng 30 km khoảng đối diện với Thị Cầu[24]. Một bộ phận khác đóng tại các vị trí cần thiết, các ngọn núi quan trọng như núi Phượng Hoàng và núi Tiên, phòng trường hợp bị quân nhà Lý tiến công hoặc có thể tổ chức vượt sông nếu hoàn cảnh cho phép.[24]

Quân Tống dưới sự chỉ huy của Quách Quỳ tiến tới bờ bắc sông Như Nguyệt không khó khăn lắm.[25] Quách Quỳ thấy vậy cũng muốn thực hiện chiến lược đánh nhanh thắng nhanh mà vua Tống đã đề ra[25]. Nhưng vì thủy binh chưa đến, Quách Quỳ quyết định cho quân đóng trại tại bờ bắc sông Như Nguyệt đối diện với phòng tuyến của quân nhà Lý[24] để chờ thủy binh hỗ trợ cho việc vượt sông[26]. Quách Quỳ không hề biết rằng cánh thủy quân do Dương Tùng Tiên và Hòa Mâu chỉ huy đã bị thủy quân Đại Việt do Lý Kế Nguyên chỉ huy chặn đánh quyết liệt, liên tục tập kích hơn 10 trận, giặc điên cuồng mở đường máu để tiến vào châu thổ nước ta nhưng cả mười trận liều lĩnh đều bị đánh bại cả mười. Đặc biệt với thảm bại tại sông Đông Kênh, thủy quân Tống buộc phải rút lui về đóng án binh bất động ở cửa sông.

Sau một khoảng thời gian chờ đợi không thấy thủy quân đến hội sư, khoảng đầu tháng 2 năm 1077, Quách Quỳ dự định tổ chức vượt sông mà không có sự hỗ trợ của thủy quân. Tuy nhiên vì trước trại của Quách Quỳ tại Thị Cầu có một trại quân mạnh của nhà Lý án ngữ khiến Quỳ không dám cho quân vượt sông ở Thị Cầu. Cùng lúc, tướng Miêu Lý đóng tại Như Nguyệt báo với Quách Quỳ rằng quân Lý đã trốn đi và xin lệnh đem binh vượt sông. Quách Quỳ chấp nhận và tướng Vương Tiến bắc cầu phao cho đội xung kích của Miêu Lý khoảng 2.000 người vượt sông.[26] Lợi dụng được yếu tố bất ngờ, cuộc vượt sông đã thành công, đội xung kích của quân Tống đã chọc thủng được phòng tuyến của quân Lý[26], sẵn đà thắng, Miêu Lý định tiến nhanh về Thăng Long nhưng đến vùng Yên Phụ, Thụy Lôi thì bị phục kích, bao vây và chặn đánh dữ dội tại cầu Gạo, núi Thất Diệu[27]. Miêu Lý cùng những binh sĩ còn sống chạy về phía Như Nguyệt nhưng đến nơi thì cầu phao đã bị hủy và gặp quân nhà Lý đón đánh và bị diệt gần hết, dù quân Tống đóng bên bờ bên kia có cố gắng cho bè sang hỗ trợ. Thất bại của Miêu Lý đã làm cho Quách Quỳ hết sức tức giận và định xử tử viên "tướng kiêu" này.[27] Mô tả trận đánh này, một tác giả đời Tống viết: "Binh thế dứt đoạn, quân ít không địch nổi nhiều, bị giặc ngăn trở, rơi xuống bờ sông".

Quân Tống tấn công lần thứ hai

Sau thất bại này, Quách Quỳ nhận ra quân nhà Lý không bỏ bất cứ đoạn nào trên phòng tuyến, nên ông không dám vượt sông mà không có thủy binh nữa nên buộc phải chờ thủy binh tới.[28] Vì thủy binh quân Tống khi ấy đã bị chặn lại ngoài biển nên không tiến vào được, buộc Quách Quỳ phải tổ chức đợt tấn công lần hai mà không có sự hỗ trợ của thủy binh. Lần này, quân Tống dùng một lực lượng mạnh hơn nhiều so với lần trước và đóng bè lớn với sức chứa khoảng 500 quân để vượt sông.[29] Quân Tống ồ ạt đổ sang bờ nam nhưng họ phải vừa ra sức chặt lớp trại rào tre, vừa phải chống lại các đợt phản công mãnh liệt của quân nhà Lý mà số binh tiếp viện lại không qua kịp nên quân bị vỡ trận và thiệt hại nặng. Đợt tấn công lần hai lại kết thúc với thất bại. Việc này đã khiến Quách Quỳ thấy rằng, nếu không có thủy binh hỗ trợ sẽ không thể vượt sông được, buộc phải ra lệnh đưa quân về thế phòng thủ và tuyên bố rằng: "Ai bàn đánh sẽ chém!"[30], phá sản ý định đánh nhanh thắng nhanh của nhà Tống. Họ chỉ dám thỉnh thoảng dùng máy bắn đá bắn sang bờ nam.[31]

Với tình thế này, cộng với nhiều khó khăn vì các lý do về tình hình nhà Tống[30], sự quấy rối của dân binh địa phương, và việc thiếu lương thực do các cơ sở tiếp vận đã bị phá hủy trong cuộc tấn công năm 1075 của Lý Thường Kiệt, và khâu tiếp vận cho 10 vạn lính và 1 vạn ngựa vốn dĩ cần ít nhất 40 vạn phu, quá sức 20 vạn phu mà quân Tống đang có; đã khiến họ trở nên bị động và suy giảm sức chiến đấu.[32]

Quân nhà Lý phản công

Hai tháng sau đợt tấn công cuối cùng, quân Tống lâm vào tình cảnh tiến thoái lưỡng nan: họ ngày càng mệt mỏi, hoang mang vì tin tức vì chờ mãi thủy binh không thấy thủy binh đâu. Và thêm sự không hợp khí hậu Đại Việt, dù đã có thầy thuốc đi theo nhưng bệnh tật vẫn làm cho nhiều binh sĩ ốm và một số chết, nhưng lại không dám rút lui vì đó là một sự nhục nhã và tội lớn với triều đình nhà Tống[33]. Dù vậy, thế của quân Tống vẫn còn mạnh, họ vẫn cố thủ ở bờ bắc Như Nguyệt tìm cách dụ quân nhà Lý tấn công. Lý Thường Kiệt nhận ra đây là thời cơ tốt để tổ chức tiến công, ông nghiên cứu cách bố phòng của quân Tống và tổ chức các đợt tấn công theo kiểu tập kích chia cắt quân Tống[34].

Đầu tiên, ông mở một đợt tấn công vào khối quân của Quách Quỳ đang đóng ở Thị Cầu nhằm kéo sự chú ý của toàn bộ quân Tống về hướng này dù biết rằng Quách Quỳ có một khối quân khá lớn và bố phòng rất cẩn thận. Ông lệnh cho hai tướng Hoằng Chân và Chiêu Văn dùng 400 chiếc thuyền chở khoảng 2 vạn quân từ Vạn Xuân tiến lên Như Nguyệt.[35] Đoàn thuyền vừa đi vừa phô trương thanh thế nhằm kéo sự chú ý của toàn bộ quân Tống về hướng họ. Quân Lý đổ quân lên bờ bắc tấn công thẳng vào doanh trại quân Tống. Thời gian đầu họ chiếm ưu thế, đẩy quân Tống vào sâu, buộc quân Tống phản huy động hết lực lượng và đem cả đội thân quân ra đánh. Tất cả các thuộc tướng cao cấp của Quách Quỳ như Yên Đạt, Trương Thế Cự, Vương Mẫn, Lý Tường, Diên Chủng đều có mặt trong chiến địa. Thời gian sau, quân Tống lấy lại hàng ngũ tổ chức phản công, đẩy quân Lý lên thuyền để rút đi. Đồng thời quân Tống còn cho máy bắn đá bắn với theo, đánh chìm một số chiến thuyền. Trận này quân Lý thiệt hại nặng, 2 tướng Hoằng Chân và Chiêu Văn cùng mấy nghìn quân tử trận.[35] Tuy nhiên, khi mọi sự chú ý của quân Tống đều đổ dồn về phía trại quân Quách Quỳ, thì Lý Thường Kiệt đích thân dẫn đại quân đánh vào doanh trại của Triệu Tiết[35].

Triệu Tiết đóng tại bắc Như Nguyệt trên một khu vực tương đối rộng và quang đãng, chính giữa là trại quân chính gọi là Dinh, hai bên trái phải là khu đất Miễu và Trại, bố trí theo kiểu dã chiến không lũy tường tổ chức phòng ngự tạm. Triệu Tiết có chừng 3 đến 4 vạn quân chiến đấu, nhưng một số đã được điều đi tiếp ứng cho trại quân Quách Quỳ đang bị tấn công[36]. Chính vì vậy, khi cánh quân của Lý Thường Kiệt bất ngờ vượt sông tập kích, quân của Triệu Tiết nhanh chóng bị đánh bại, thương vong trên một nửa quân số[36] đến gần hết[37]. Số quân Tống chết nằm la liệt cái gò nơi họ đóng quân, về sau cư dân địa phương gọi đó là gò Xác hay cánh đồng Xác.[38]

Hai đợt tấn công này đã khiến quân Tống lâm vào cảnh ngặt nghèo, thế phòng ngự bị rung chuyển và có khả năng sẽ bị đánh bại hoàn toàn nếu vẫn tiếp tục cố thủ.[39]

Lý Thường Kiệt muốn kết thúc chiến tranh nhanh, phục hồi kinh tế nên đã chủ động giảng hòa với quân Tống. Ông còn cấp cho Quách Quỳ tàu bè và lương thực để có thể về nước. Quân ta giành chiến thắng, bảo vệ nền độc lập của đất nước.

Chiến thắng này đã đánh dấu sự thành công nhiều chiến thuật chiến tranh phòng thủ và chủ động tấn công của danh tướng Lý Thường Kiệt trước một đế chế lớn hơn nhiều lần.[40]

Trong chiến dịch đánh Đại Việt, quân Tống mất tổng cộng 76.600 quân và 8 vạn phu[41]. Toàn bộ chi phí chiến tranh ngốn mất 5.190.000 lạng vàng[41]. Thất bại này đã làm cho nhà Tống mất hẳn ý chí xâm lược Đại Việt hay "quận Giao Chỉ" theo cách gọi của họ khi đó.[41]

  • Nam quốc sơn hà, bài thơ thường được cho là của Lý Thường Kiệt sáng tác nhằm cổ vũ động viên tinh thần chiến đấu cho binh sĩ mình trong trận chiến này.[42]
  • Nhà Lý
  • Lý Thường Kiệt
  • Hoằng Chân
  • Chiêu Văn
  • Chiến tranh Tống - Việt, 1075-1077
  • Thân Cảnh Phúc
  • Tông Đản

  1. ^ a b Trương Hữu Quýnh, Phan Đại Doãn, Nguyễn Cảnh Minh 1997, tr. 153.
  2. ^ a b c d Phan Huy Lê, Bùi Đăng Dũng, Phan Đại Doãn, Phạm Thị Tâm, Trần Bá Chí 1998, tr. 30.
  3. ^ a b Trương Hữu Quýnh, Phan Đại Doãn, Nguyễn Cảnh Minh 1997, tr. 154.
  4. ^ a b Trương Hữu Quýnh, Phan Đại Doãn, Nguyễn Cảnh Minh 1997, tr. 156.
  5. ^ Trương Hữu Quýnh, Phan Đại Doãn, Nguyễn Cảnh Minh 1997, tr. 164.
  6. ^ Phan Huy Lê, Bùi Đăng Dũng, Phan Đại Doãn, Phạm Thị Tâm, Trần Bá Chí 1998, tr. 69-71.
  7. ^ Phan Huy Lê, Bùi Đăng Dũng, Phan Đại Doãn, Phạm Thị Tâm, Trần Bá Chí 1998, tr. 23.
  8. ^ Phan Huy Lê, Bùi Đăng Dũng, Phan Đại Doãn, Phạm Thị Tâm, Trần Bá Chí 1998, tr. 24.
  9. ^ Phan Huy Lê, Bùi Đăng Dũng, Phan Đại Doãn, Phạm Thị Tâm, Trần Bá Chí 1998, tr. 25.
  10. ^ a b Phan Huy Lê, Bùi Đăng Dũng, Phan Đại Doãn, Phạm Thị Tâm, Trần Bá Chí 1998, tr. 31.
  11. ^ a b c Phan Huy Lê, Bùi Đăng Dũng, Phan Đại Doãn, Phạm Thị Tâm, Trần Bá Chí 1998, tr. 35.
  12. ^ Phan Huy Lê, Bùi Đăng Dũng, Phan Đại Doãn, Phạm Thị Tâm, Trần Bá Chí 1998, tr. 37-39.
  13. ^ “Kháng chiến chống Tống [1075 - 1077]”. Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam. ngày 11 tháng 11 năm 2005. Truy cập ngày 27 tháng 6 năm 2008.
  14. ^ Phan Huy Lê, Bùi Đăng Dũng, Phan Đại Doãn, Phạm Thị Tâm, Trần Bá Chí 1998, tr. 44.
  15. ^ Phan Huy Lê [chủ biên]. Một số trận quyết chiến chiến lược trong lịch sử dân tộc. -H.: QĐND, 1976. -Tr. 46.
  16. ^ Phan Huy Lê, Bùi Đăng Dũng, Phan Đại Doãn, Phạm Thị Tâm, Trần Bá Chí 1998, tr. 42-48.
  17. ^ Phan Huy Lê, Bùi Đăng Dũng, Phan Đại Doãn, Phạm Thị Tâm, Trần Bá Chí 1998, tr. 39.
  18. ^ a b c Phan Huy Lê, Bùi Đăng Dũng, Phan Đại Doãn, Phạm Thị Tâm, Trần Bá Chí 1998, tr. 37.
  19. ^ Phan Huy Lê, Bùi Đăng Dũng, Phan Đại Doãn, Phạm Thị Tâm, Trần Bá Chí 1998, tr. 46.
  20. ^ Phan Huy Lê, Bùi Đăng Dũng, Phan Đại Doãn, Phạm Thị Tâm, Trần Bá Chí 1998, tr. 40-41.
  21. ^ Phan Huy Lê, Bùi Đăng Dũng, Phan Đại Doãn, Phạm Thị Tâm, Trần Bá Chí 1998, tr. 39-40.
  22. ^ Phan Huy Lê, Bùi Đăng Dũng, Phan Đại Doãn, Phạm Thị Tâm, Trần Bá Chí 1998, tr. 42.
  23. ^ Phan Huy Lê, Bùi Đăng Dũng, Phan Đại Doãn, Phạm Thị Tâm, Trần Bá Chí 1998, tr. 43.
  24. ^ a b c d Phan Huy Lê, Bùi Đăng Dũng, Phan Đại Doãn, Phạm Thị Tâm, Trần Bá Chí 1998, tr. 47-49.
  25. ^ a b Phan Huy Lê, Bùi Đăng Dũng, Phan Đại Doãn, Phạm Thị Tâm, Trần Bá Chí 1998, tr. 49.
  26. ^ a b c Phan Huy Lê, Bùi Đăng Dũng, Phan Đại Doãn, Phạm Thị Tâm, Trần Bá Chí 1998, tr. 50.
  27. ^ a b Phan Huy Lê, Bùi Đăng Dũng, Phan Đại Doãn, Phạm Thị Tâm, Trần Bá Chí 1998, tr. 51-52.
  28. ^ Phan Huy Lê, Bùi Đăng Dũng, Phan Đại Doãn, Phạm Thị Tâm, Trần Bá Chí 1998, tr. 52.
  29. ^ Phan Huy Lê, Bùi Đăng Dũng, Phan Đại Doãn, Phạm Thị Tâm, Trần Bá Chí 1998, tr. 53.
  30. ^ a b Phan Huy Lê, Bùi Đăng Dũng, Phan Đại Doãn, Phạm Thị Tâm, Trần Bá Chí 1998, tr. 55.
  31. ^ Phan Huy Lê, Bùi Đăng Dũng, Phan Đại Doãn, Phạm Thị Tâm, Trần Bá Chí 1998, tr. 56.
  32. ^ Phan Huy Lê, Bùi Đăng Dũng, Phan Đại Doãn, Phạm Thị Tâm, Trần Bá Chí 1998, tr. 57-58.
  33. ^ Phan Huy Lê, Bùi Đăng Dũng, Phan Đại Doãn, Phạm Thị Tâm, Trần Bá Chí 1998, tr. 58.
  34. ^ Phan Huy Lê, Bùi Đăng Dũng, Phan Đại Doãn, Phạm Thị Tâm, Trần Bá Chí 1998, tr. 59
  35. ^ a b c Phan Huy Lê, Bùi Đăng Dũng, Phan Đại Doãn, Phạm Thị Tâm, Trần Bá Chí 1998, tr. 60-63
  36. ^ a b Phan Huy Lê, Bùi Đăng Dũng, Phan Đại Doãn, Phạm Thị Tâm, Trần Bá Chí 1998, tr. 63-66.
  37. ^ Trương Hữu Quýnh, Phan Đại Doãn, Nguyễn Cảnh Minh 1997, tr. 162.
  38. ^ Phan Huy Lê, Bùi Đăng Dũng, Phan Đại Doãn, Phạm Thị Tâm, Trần Bá Chí 1998, tr. 67.
  39. ^ Phan Huy Lê, Bùi Đăng Dũng, Phan Đại Doãn, Phạm Thị Tâm, Trần Bá Chí 1998, tr. 68.
  40. ^ Phan Huy Lê, Bùi Đăng Dũng, Phan Đại Doãn, Phạm Thị Tâm, Trần Bá Chí 1998, tr. 72-75.
  41. ^ a b c Phan Huy Lê, Bùi Đăng Dũng, Phan Đại Doãn, Phạm Thị Tâm, Trần Bá Chí 1998, tr. 71.
  42. ^ Phan Huy Lê, Bùi Đăng Dũng, Phan Đại Doãn, Phạm Thị Tâm, Trần Bá Chí 1998, tr. 75.

  • Phan Huy Lê, Bùi Đăng Dũng, Phan Đại Doãn, Phạm Thị Tâm, Trần Bá Chí [1998], Một số trận quyết chiến chiến lược trong lịch sử dân tộc, Nhà xuất bản Quân đội Nhân dânQuản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả [liên kết].
  • Trương Hữu Quýnh, Phan Đại Doãn, Nguyễn Cảnh Minh [1997], Đại cương lịch sử Việt Nam, 1, Nhà xuất bản Giáo dụcQuản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả [liên kết].

  • Lê Văn Hưu, Phan Phu Tiên, Ngô Sĩ Liên..., Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, 1 , Nhà xuất bản Khoa học Xã hộiQuản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả [liên kết]
  • Lý Đào; Hoàng Xuân Hãn chép, Tục tư trị thông giám trường biên, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội
  • Tống Sử, Phan Túc truyện và Hòa Bân truyện, Thương vụ ấn thư quán
  • Lý Tế Xuyên, Việt điện u linh [ấn bản 1960], Hà Nội: Nhà xuất bản Văn Hóa
  • Tư Mã Quang, Tốc thủy ký văn
  • Hoàng Xuân Hãn [1950], Lý Thường Kiệt, Hà Nội: Nhà xuất bản Sông Nhị
  • Quốc sử quán Triều Nguyễn [1971], Đại Nam nhất thống chí, IV , Hà Nội: Nhà xuất bản Khoa học xã hội
  • Vương Xung, Đông Đô sử lược
  • Võ Nguyên Giáp [1972], Vũ trang quần chúng cách mạng xây dựng quân đội nhân dân, Hà Nội: Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân

Lấy từ “//vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Trận_Như_Nguyệt&oldid=68739619”

Video liên quan

Chủ Đề