Bản đồ địa hình có số hiệu f-49 -102 là bản đồ có tỷ lệ bao nhiêu?
Bản đồ địa hình trong đồ bản hiện đại, là loại bản đồ biểu diễn chi tiết và định lượng các đặc trưng của địa hình địa vật theo một hệ tọa độ địa lý xác định. Show
Nội dung Bản đồ địa hình của Việt Nam Nội dungSửa đổiBản đồ địa hình gồm phần đồ họa chính, khung tọa độ và các chỉ dẫn. Nội dung chính thiên về mục đích quân sự và quản lý lãnh thổ, nên các địa vật ảnh hưởng tới tác chiến được ưu tiên thể hiện.
Ngôn ngữSửa đổiBản đồ thường được biên soạn bằng ngôn ngữ chính thức của quốc gia xuất bản và lưu hành. Tuy nhiên khi hệ ký tự của ngôn ngữ có thể gây khó khăn trong sử dụng quốc tế, như tiếng Hoa, Lào, Thái,... hoặc khi biên soạn phần lãnh thổ của nước khác nhưng có để ý đến tính đa dụng, thì thường biên soạn đa ngữ. Phần lớn thường ghi kèm tên hoặc chỉ dẫn bằng chữ Latin, với cách chuyển tự do nước biên soạn quy định. Bản đồ của Lào xuất bản có ghi các tên chuyển tự Latin cùng với chữ Lào.
Tại Liên Hợp Quốc thì Nhóm chuyên viên về Địa danh Liên Hợp Quốc đảm trách việc quy chuẩn phiên âm và chuyển tự địa danh, đưa ra khuyến nghị về sử dụng quy chuẩn đó [11]. Ứng dụngSửa đổiBản đồ địa hình, đặc biệt là loại tỷ lệ lớn, biểu diễn đầy đủ và chính xác bề mặt Trái Đất, là dữ liệu cơ bản cho quản lý đất đai lãnh thổ, cho các nghiên cứu, điều tra khoa học, quy hoạch kinh tế, thiết kế và xây dựng các cơ sở kinh tế, giao thông, các đường ống dẫn,... Bản đồ địa hình chính thức được cơ quan nhà nước xuất bản phục vụ lợi ích quốc gia, quốc phòng và an ninh công cộng. Tại nhiều nước, trong đó có Việt Nam, các bản đồ địa hình được coi là tài liệu mật. Tại Việt Nam dấu "MẬT" hiện vẫn có trong các bản in và bản điện tử. Trước năm 1980 bản đồ được sử dụng theo quy chế tài liệu mật, các bản hỏng phải được một hội đồng thanh lý, và các trường hợp đánh mất có thể gây phiền toái cho người dùng. Tuy nhiên hiện nay bản đồ được bán tràn lan. Các dẫn xuất là bản đồ lược trích, được xuất bản để làm nền cho bản đồ chuyên đề khoa học kỹ thuật khác, như bản đồ địa chất, thủy văn, thổ nhưỡng, thực vật, dân cư,... và cả nhu cầu dân sinh như bản đồ du lịch, giao thông dân sự,... Các đối tượng lược bỏ là phần hoạt động quân sự quan tâm: đường đồng mức chi tiết, độ cao các cao điểm, chỉ dẫn về các đặc điểm địa vật như độ dốc taluy,... Tác động của bản đồ tới địa danhSửa đổiTên đối tượng do từng nhóm biên tập khác nhau thực hiện vào thời gian và hoàn cảnh khác nhau, nên khi đưa lên bản đồ lần đầu tiên thì khó tránh khỏi sự "chưa chuẩn xác" và thiếu thống nhất. Dẫu vậy nếu không quá sai lệch thì tên đưa lên được thừa nhận, và việc trích xuất sang bản đồ cho môn học địa lý góp phần vào phổ biến những tên đó. Tại Việt Nam, và ở vùng Đông Dương nói chung, bản đồ do người Pháp lập ra đã tác động đến tên sông và một số địa danh.
Số hóa bản đồSửa đổiTừ những năm 1990 việc số hóa bản đồ địa hình đã được bắt đầu. Ví dụ như tại Cục Trắc địa và Đồ bản CHLB Đức (Bundesamt für Kartographie und Geodäsie), và đến nay đã hoàn thiện ở các tỷ lệ.[13] Tại Việt Nam, việc số hóa bắt đầu muộn hơn một chút, khi các phần mềm biên tập bản đồ được nhập khẩu và qua giai đoạn thử nghiệm[14]. Đến nay Bản đồ địa hình chính thức ở tỷ lệ đến 1:50 000 theo Hệ toạ độ quốc gia Việt Nam VN2000 đã hoàn thiện số hóa năm 2004, do Trung tâm Thông tin Dữ liệu Đo đạc và Bản đồ thuộc Cục Đo đạc và Bản đồ Việt Nam quản lý và phát hành cho các mục đích công vụ. OpenStreetMapSửa đổiDựa theo dữ liệu bản đồ thế giới, các dạng trực quan của bản đồ địa hình được đưa ra ở Dự án OpenStreetMap và Shuttle Radar Topography Mission.
Chỉ dẫnSửa đổi
Tham khảoSửa đổi
Liên kết ngoàiSửa đổi
|