Vượn người xuất hiện ở đâu đầu tiên

  • lý thuyết
  • trắc nghiệm
  • hỏi đáp
  • bài tập sgk

Vượn người xuất hiện đầu tiên ở đâu?

Các câu hỏi tương tự

Loài người xuất hiện trên trái đất vào thời gian nào? Mặc dù sự sống xuất hiện trên trái đất từ khoảng 4 tỷ năm trước, nhưng loài người xuất hiện muộn hơn rất nhiều, chỉ cách đây khoảng 3-4 triệu năm.

Ngày nay, các nhà khoa học đa số thống nhất loài người đã tiến hóa từ vượn người qua 3 loại hình cơ bản. Ba loại hình đó là:

  • Homo habillis [Người Khéo léo],
  • Homo erectus [Người Đứng thẳng],
  • Homo sapiens [Người Tinh khôn, người Hiện đại].

Vượn người Phương Nam [Australopithecus] là dạng vượn người đầu tiên, sống cách nay ít nhất 3 – 4 triệu năm. Đại diện là hóa thạch của Lucy [Australopithecus afarensis], phát hiện năm 1974, niên đại khoảng 3,85 – 2,95 triệu năm. Họ giống khỉ hơn giống chúng ta.

Cách đây 3,0 đến 1,5 triệu năm, khi vượn người biết chế tạo công cụ được gọi là con người. Nhóm con người đầu tiên được đặt tên Homo habillis [Người Khéo léo], không phải vì họ thực sự khéo léo mà do biết chế tạo công cụ hơn dạng vượn người mà thôi.  Người Khéo léo biết chế tạo công cụ dùng để đập hạt, cắt thịt…

Cách đây 1,8 triệu năm, con người tiến hóa hơn biết dùng lửa, biết chế tạo dụng cụ cắt phức tạp hơn được gọi là Homo erectus [Người Đứng thẳng]. Loài này đã bắt nguồn từ châu Phi [có thể cả Đông Nam Á] và lan tỏa xa tới Anh, Gruzia, Ấn Độ, Sri Lanka, Trung Quốc và Java. Một số đại diện như: Homo heidelbergensis, Người vượn Java, Người vượn Bắc kinh,… Loài này hiện nay đã tuyệt chủng.

Cách đây khoảng 200.000 năm ở Đông Phi bắt đầu xuất hiện Homo sapiens [Người Tinh khôn]. Người Tinh khôn trông giống loài người như ngày nay, đã biết mặc quần áo.

Con người xuất hiện từ bao giờ? Câu hỏi đó không phải đến nay mới được đặt ra. Sự quan tâm của con người tới nguồn gốc “xuất thân” của mình được thể hiện qua rất nhiều truyền thuyết, truyện cổ tích về sự sáng tạo thế giới mà ở bất cứ dân tộc nào cũng có. Thời cổ đại, một số học giả lại cho rằng thoạt đầu con người có hình dáng nửa người nửa động vật. Thời trung đại, giáo lí của các tôn giáo, dưới nhiều hình thức khác nhau, đều giải thích rằng con người do Thượng đế sinh ra.

Đến giữa thế kỉ XVIII, vấn đề về vị trí của con người trong thế giới tự nhiên mới được đặt ra trên nền tảng khoa học thực sự khi Cac Linnây xếp con người vào cùng hệ thống với thế giới động vật. Từ đó, qua nghiên cứu, các nhà khoa học ngày càng nhận thấy cơ thể của người và lớp động vật có vú, đặc biệt là giống vượn hình người hiện đại như Jipbông [Gibbon], Ôrăng Utăng [Orang-Outang], Gôril [Gorille], Sanhpăngdê [Chimpanzé] có rất nhiều nét gần gũi nhau. Những kết quả nghiên cứu của ngành động vật học cao cấp cũng cho thấy, một số động vật có vú cũng mắc một số căn bệnh mà trước kia người ta thường cho rằng chỉ có loài người mới có; những động vật này cũng chịu thuốc kháng sinh và các loại vắcxin phòng dịch. Khi nghiên cứu quá trình phát triển của bào thai người, ngành phôi thai học đã đi đến kết luận: quá trình hình thành bào thai người là sự “rút ngắn” của hàng triệu năm tiến hóa từ động vật trở thành người.

Sau khi công trình của Đacuyn được công bố năm 1871, nguồn gốc động vật của loài người đã được nhiều ngành, nhiều nhà khoa học tìm kiếm, chứng minh bằng những bằng chứng khoa học, trong đó nổi bật nhất là việc phát hiện những di cốt hóa thạch của loài vượn cổ và người vượn trung gian, cho phép khôi phục lại các mắt xích của quá trình chuyển biến từ vượn thành người.

Ở chặng đầu của quá trình có một loài vượn cổ hay còn gọi là vượn nhân hình – Hominid, sống ở cuối thế kỉ thứ ba của thời đại Tân sinh, cách ngày nay khoảng hơn 6 triệu năm. Loài vượn nhân hình này đã có thể đứng và đi bằng hai chân, dùng hai chi trước để cầm nắm, ăn hoa quả, lá cây, củ và cả động vật nhỏ. Trong quá trình phát triển, loài vượn nhân hình này cũng tiến hóa dần dần, ngày càng gần với người hơn: từ loài vượn Đriôpithécus đến Ramapithécus và bước tiến hóa rõ rệt hơn cả là vượn phương Nam – Australopithecus. Di cốt hóa thạch của những loài vượn này đã được tìm thấy ở Đông Phi, Tây Á, Ấn Độ, Trung Quốc và cả ở Lạng Sơn [Việt Nam].

Loài vượn nhân hình Hominid là tổ tiên chung của loài người và cả các giống vượn hiện đại. Từ Hominid, một nhánh nào đó đã phát triển lên thành người Homo Habilis [người khéo léo]. Đó là giai đoạn thứ hai và là bước ngoặt quan trọng trong quá trình tiến hóa. Di cốt của một trong những Homo Habilis đã được hai vợ chồng L.Leakey phát hiện năm 1960 ở thung lũng Ônđuvai [Tanzania]. Thể tích hộp sọ là 650cm3 và có niên đại khoảng 1.850.000 năm. Năm 1976, Clark Howall công bố những phát hiện mới trong những năm 1967 – 1976 ở thung long Ômô [Etiôpia]. Tại đây đã phát hiện những hóa thạch động vật có vú và người Homo Habilis có niên đại khoảng 2.500.000 năm. Đặc biệt, năm 1974, D.Johansơn đã tìm thấy ở thung lũng Afar [Etiôpia] một di cốt hóa thạch khá đầy đủ. Đó là một cô gái khoảng 25 – 30 tuổi, được đặt lên là Lucy và “tuổi” của cô được xác định bằng phương pháp Kali Acgông là 3.500.000 năm. Lucy đã thường xuyên ở tư thế đứng thẳng.

Cũng trong năm 1974, Mary Leakey đã phát hiện ở Lactôli [Tanzania] 42 răng người và một hàm hóa thạch với 9 chiếc răng nguyên vẹn. Niên đại của chúng được xác nhận là khoảng 3.700.000.

Điều đặc biệt quan trọng là ở một số nơi như ở Ômô và Rudolf [Bắc Kênia], người ta cũng đã tìm thấy những công cụ đá chôn cùng với hóa thạch Homo Habilis. Những phát hiện mới này không những đã đẩy niên đại của sự xuất hiện loài người lên khoảng 3.500.000 đến 4.000.000 năm cách ngày nay, mà còn làm nảy sinh nhiều giả thuyết mới về cái “nôi” của loài người và về động lực của quá trình tiến hóa từ vượn thành người.

Giai đoạn tiếp theo là giai đoạn của những người Homo Érectus [người đứng thẳng]. Địa điểm đầu tiên phát hiện ra loại người vượn này là Trinil ở miền Trung Java [Inđônôxia]. Trong những năm 1891 – 1892, bác sĩ Dubois người Hà Lan đã khai quật được ở đây một răng hàm trên, nấp sọ và một xương đùi. Tới năm 1894, ông công bố chi tiết phát hiện của mình và đặt tên cho nó là Pithécanthropus Èrectus. Dựa vào các tài liệu đã công bố, tính đến năm 1986 ở đảo Java đã phát hiện được khoảng 21 mảnh sọ, 5 hàm dưới và 3 hàm trên hóa thạch của Homo Érectus. Dung tích sọ não của người Pithécanthropus đã vào khoảng từ 750 đến 975 cm3. Họ đã biết phát ra tiếng nói và biết chế tạo công cụ lao động.

Một đại diện khác rất nổi tiếng của Homo Érectus là Sinanthropus [người vượn Bắc Kinh] mà hóa thạch răng của nó đã được phát hiện trong những năm 1921 – 1923, ở Chu Khẩu Điếm gần Bắc Kinh. Đến năm 1937, ở khu vực này, người ta đã phát hiện được khoảng 40 cá thể của loài người vượn này và cho tới gân đây vẫn có những phát hiện lẻ tẻ khác nữa.

Người Sinanthropus có sọ dẹt, trán dốc thoải, u trán nổi rõ, dung tích sọ khá lớn [từ 850 đến 1220 cm3]. Họ đã biết chế tạo công cụ bằng đá rất thô sơ, biết duy trì và sử dụng lửa tự nhiên.

Di cốt và mảnh di cốt của người Homo Érectus được tìm thấy ở nhiều nơi khác như Ấn Độ, Kênia v.v… Vào những năm 1964 – 1965, các cán bộ khoa học Việt Nam đã phát hiện được một chiếc răng ở hang Thẩm Hai và 9 chiếc khác ở hang Thẩm Khuyên [Bình Gia, Lạng Sơn]. Những chiếc răng này đều có niên đại trung kì Pléistocène và đều là răng của Homo Érectus.

Đến thời hậu kì Pléistocène đã xuất hiện một dạng người mới, gần với người hiện đại hơn. Di cốt hóa thạch tiêu biểu của dạng người này đã được tìm thấy lần đầu tiên vào năm 1956 ở một thung lũng nước Đức mà giới khoa học gọi là người Nêanđectan. Thân thể người Nêanđectan đã rất giống với người hiện đại, thể tích hộp sọ khá lớn – từ 1200 đến 1600cm3. Vì thế, khả năng lao động và ngôn ngữ của họ cũng phát triển hơn; Di cốt của dạng người Nêanđectan – cả của người lớn và trẻ con, còn được tìm thấy ở nhiều nơi khác như Anh, Pháp, Italia, Tây Ban Nha, vùng Trung Á, Trung Quốc v.v…

Đến khoảng 4 vạn năm trước đây, Người hiện đại hay Người tinh khôn [Homo Sapiens] đã ra đời. Homo Sapiens có cấu tạo cơ thể phát triển như người ngày nay. Các bộ phận cơ thể đã trở  nên hoàn thiện, hai bàn tay nhỏ, khéo léo, các ngón tay, nhất là ngón cái linh hoạt hơn, trán cao, xương hàm nhỏ và không còn nhô ra phía trước, não đặc biệt phát triển.

Sự xuất hiện Homo Sapiens là bước nhảy vọt thứ hai sau bước nhảy vọt từ vượn thành người Homo Habilis. Di cốt của họ đã được tìm thấy ở hầu khắp các lục địa. Sự phát hiện các di cốt hóa thạch cùng với công cụ lao động của các dạng người nói trên không những đã cung cấp cho chúng ta những bằng chứng khoa học không thể chối cãi được về nguồn gốc động vật của loài người, mà còn giúp ta thấy rõ cả quá trình hình thành loài người với những niên đại ngày càng được xác định chính xác hơn.

Lịch sử thế giới cổ đại - NXB Giáo dục,

Nguồn gốc của loài người

Loài người, không còn nghi ngờ gì nữa, đó là loài sinh vật thông minh nhất trên Trái Đất. Vậy con người xuất hiện từ bao giờ? Câu hỏi đó không phải đến nay mới được đặt ra. Sự quan tâm của con người đến “nguồn gốc” của mình được thể hiện hiện qua rất nhiều truyền thuyết, truyện cổ tích về sự sáng tạo thế giới mà ở bất kì dân tộc nào cũng có. Thời cổ đại, một số học giả cho rằng thoạt đầu con người có hình dạng nửa người nửa động vật. Thời trung đại, giáo lí của các tôn giáo, dưới nhiều hình thức khác nhau, đều giải thích rằng con người do Thượng đế sinh ra.

Đến giữa thế kỉ XVIII, vấn đề về vị trí của con người trong thế giới tự nhiên mới được đặt ra trên nền tảng khoa học thực sự khi Cac Linnay xếp con người vào cùng hệ thống với thế giới động vật. Từ đó, qua nghiên cứu các nhà khoa học mới ngày càng nhận thấy cơ thể của con người và lớp động vật có vú, đặc biệt là giống vượn hiện đại như Jippông [Gibbon – vượn], Orang Outang [Ôrăng –Utăng, đười ươi], Gorilla [khỉ đột], Chimpanzees [sanhhpangde- tinh tinh], có rất nheieuf nét gần gũi với nhau. Những kết quả nghiên cứu của ngành động vật học cao cấp cũng cho thấy, một số động vật có vú cũng mắc một số bệnh như con người , những động vật này cũng chịu thuốc kháng sinh và các loại vacxin phòng bệnh. Khi nghiên cứu quá trình phát triển bào thai người, ngành phôi thai học đã đi đến kết luận: quá trình phát triển của bào thai người là sự “rút ngắn” của hàng triệu năm tiến hóa từ động vật trở thành người.

Sau khi công trình của Darwin được công bố năm 1871, nguồn gốc của loài người đã được nhiều ngành, nhiều nhà khoa học tìm kiếm, chjuwngs minh bằng những bằng chứng khoa học, nhất là việc phát hiện những di cốt hóa thạch của loài vượn cổ và người vượn trung gian, cho phép chúng ta khôi phục lại các mắt xích của quá trình chuyển biến từ vượn thành người.

Qúa trình tiến hóa của loài người

ở chặng đầu tiên của quá trình có một loài vượn cổ hay còn gọi là vượn người, vượn nhân hình- Hominid, sống ở cuối thế kỉ thứ ba của thời đại Tân sinh, cách ngày nay khoảng hơn 6 triệu năm. Loài vượn nhân hình này đã có thể đứng và đi bằng hai chân, dung hai chi trước để cầm nắm, ăn hoa quả, lá cây, củ và cả động vật nhỏ. Trong quá trình phát triển, loài vượn nhân hình này cũng dần tiến hóa, ngày càng gần với người hơn: từ loài vượn Dryopithecus [ đến Ramapithecusvà bước tiến rõ rệt hơn cả là người vượn phương Nam – Australopithecus. Di cốt hóa thạch của những loài vượn này đã đượct ìm thấy ở Đông Phi, Tây Á, Ấn Độ, Trung Quốc và cả ở Lạng Sơn [VN]

Loài vượn nhân hình Hominid là tổ tiên chung của loài người và cả giống vượn hiện đại. Từ hominid, một nhánh nào đó đã phát triển lên thành người Homo Habilis [hô-mô ha-bi-lít, Người khéo léo]. Đây là giai đoạn thứ hai và là bước ngoặt quan trọng trong quá trình tiến hóa. Di cốt của của một trong những Homo Habilis đã được phát hiện vào năm 1960 ở thung lũng Ôn-đu-vai [Tanzania]. Thể tích sọ là 650 cm3 và có niên đại khoảng 1,85 triệu năm.

Đặc biệt, năm 1974, nhà khảo cổ Johanson đã tìm thấy một di cốt hóa thạch khá đầy đủ. Đó là một cô gái khoảng 25-30 tuổi, được đặt tên là Lucy và “tuổi” của cô được xác định bằng phương pháp Kali Acgong là 3,5 triệu năm. Lucy đã thường xuyên ở tư thế đứng thẳng.

Điều đặc biệt quan trọng là ở một số nơi của Bắc Kenya hiện nay, người ta đã tìm thấy những công cụ đá chôn cùng với hóa thạch của người Homo Habilis. Những phát hiện này không những đã đẩy niên đại của sự xuất hiện loài người lên khoảng 3,5 đến 4 triệu năm cách ngày nay, mà còn làm nảy sinh nhiều giả thuyết về cái “nôi” của loài người và về động lực của quá trình tiến hóa từ vượn người thành người.

Giai đoạn tiếp theo là giai đoạn của những người Homo Erectus [hô-mô ê-rếch-tus – người đứng thẳng]. Địa điểm đầu tiên phát hiện ra loại người vượn này là ở Trinil ở miền Trung Java [Indonesia], được bác sĩ người Dubois người Hà Lan khi quật vào cuối thế kỉ 19. Ông đặt tên cho nó là Pithecanthropus erectus hay còn gọi là Java man [người vượn Java]. Dung tích sọ não của người Pithecanthropus đã vào khoảng từ 750 đến 975 cm3. Họ đã biết phát ra tiếng nói và đã biết chế tạo công cụ lao động.

Một đại diện rất nổi tiếng của Homo Erectus là Sinanthropus [người vượn Bắc Kinh] mà hóa thạch của nó được phát hiện trong những năm 1921-1923, ở Chu Khẩu Điếm gần Bắc Kinh. Người Sinanthropus có sọ dẹt, trán dốc thoải, u trán nổi rõ, dung tích sọ khá lớn. từ 850 đến 1220 cm khối. Họ đã biết chế tạo công cụ bằng đá rất thô sơ, biết duy trì và sử dụng lửa tự nhiên.

Khoảng 350-600 nghìn năm trước, đã xuất hiện một dạng người mới, gần với người hiện đại hơn, đó là người Homo Neanderthal [nê-an-đéc-tan]. Di cốt hóa thạch tiêu biểu của dạng người này đã được tìm thấy vào năm 1956 tại nước Đức. Thân thể người Neanderthal đã rất giống với người hiện đại, thể tích hộp sọ khá lớn từ 1200 đến 1600 cm3. Vì thế khả năng lao động và khả năng ngôn ngữ của họ cũng phát triển hơn. Di cốt của dạng người Neanderthal – cả của người lớn và trẻ em, được tìm thấy ở nhiều nơi khác như Anh, Pháp, Italia, Tây Ban Nha và vùng Trung Á.

Khoảng 200 nghìn năm trước, Homo Sapiens tức Người hiện đại hay người tinh khôn đã ra đời. Homo sapien có cấu tạo cơ thể phát triển như người ngày nay. Các bộ phận cơ thể đã trở nên hoàn thiện, hai bàn tay nhỏ, khéo léo, các ngón tay, nhất là ngón tay tay cái linh hoạt hơn, trán cáo, xương hàm nhỏ, và không còn nhô ra phía trước, não đặc biệt phát triển.

Sự xuất hiện của homo sapiens là bước nhảy vọt thứ hai sau bước nhảy vọt từ vượn thành người homo habilis. Di cốt của họ đã được tìm thấy ở hầu khắp các lục địa. Sự phát hiện các di cốt hóa thạch cùng với các công cụ lao động của các dạng người nói trên không những đã cung cấp cho chúng ta những bằng chứng khoa học không thể chối cãi được về nguồn gốc động vật của loài người, mà còn giúp ta thấy rõ quá trình hình thành loài người với những niên đại ngày càng được xác định chính xác hơn.

Đến khoảng 13000 năm rước, phần lớn các chủng loại loài người đều tuyệt chủng. Homo Sapiens là loài người duy nhất còn sót lại, tồn tại đến ngày nay.

Trong quá trình tiến hóa trên 4 triệu năm, cuối cùng chỉ còn một loài Homo sapiens sapiens kế thừa từ tổ tiên Loài Người được tồn tại tới ngày nay. Khoảng 10 loài đã tuyệt chủng trong quá trình tiến hóa này:

1. Homo rudolfensis, hóa thạch thấy ở Kenya, niên đại 1,9 triệu năm.

2. Homo habilis sống 2,5 – 1,8 triệu năm trước.

3. Homo georgicus hóa thạch có niên đại 1,8 triệu năm, tìm thấy ở Georgia là một loài trung gian giữa Homo habilis và H. erectus.

4. Homo ergaster sống cách đây 1,9 – 1,4 triệu năm tại Đông Nam Phi châu.

5. Homo erectus

6. Homo antecessor sống ở Châu Âu từ Spain đến Georgia cách đây 1,2 triệu đến 700.000 năm.

7. Homo heidelbergensis

8. Homo neanderthalensis – Người Neanderthalđ đã tuyệt chủng, người cuối cùng biến mấtcách đây 24.000 years tại nam Spain.

9. Homo floresiensis [Hobbit – người lùn] có thân hình nhỏ thó, di chỉ thấy ở đảo Flores của Indonesia, mới tuyệt chủng rất gần đây.

10. Homo sapiens idaltu [“elderly wise man”] đã tuyệt chủng, sống ở Ethiopia cách đây 160.000 năm.

Lý do tại sao các loài trên bị tuyệt chủng vẫn còn là điều bí mật, chưa giải đáp được.

Xem thêm tại:

Nguồn gốc của loài người

Loài người, không còn nghi ngờ gì nữa, đó là loài sinh vật thông minh nhất trên Trái Đất. Vậy con người xuất hiện từ bao giờ? Câu hỏi đó không phải đến nay mới được đặt ra. Sự quan tâm của con người đến “nguồn gốc” của mình được thể hiện hiện qua rất nhiều truyền thuyết, truyện cổ tích về sự sáng tạo thế giới mà ở bất kì dân tộc nào cũng có. Thời cổ đại, một số học giả cho rằng thoạt đầu con người có hình dạng nửa người nửa động vật. Thời trung đại, giáo lí của các tôn giáo, dưới nhiều hình thức khác nhau, đều giải thích rằng con người do Thượng đế sinh ra.

Đến giữa thế kỉ XVIII, vấn đề về vị trí của con người trong thế giới tự nhiên mới được đặt ra trên nền tảng khoa học thực sự khi Cac Linnay xếp con người vào cùng hệ thống với thế giới động vật. Từ đó, qua nghiên cứu các nhà khoa học mới ngày càng nhận thấy cơ thể của con người và lớp động vật có vú, đặc biệt là giống vượn hiện đại như Jippông [Gibbon – vượn], Orang Outang [Ôrăng –Utăng, đười ươi], Gorilla [khỉ đột], Chimpanzees [sanhhpangde- tinh tinh], có rất nheieuf nét gần gũi với nhau. Những kết quả nghiên cứu của ngành động vật học cao cấp cũng cho thấy, một số động vật có vú cũng mắc một số bệnh như con người , những động vật này cũng chịu thuốc kháng sinh và các loại vacxin phòng bệnh. Khi nghiên cứu quá trình phát triển bào thai người, ngành phôi thai học đã đi đến kết luận: quá trình phát triển của bào thai người là sự “rút ngắn” của hàng triệu năm tiến hóa từ động vật trở thành người.

Sau khi công trình của Darwin được công bố năm 1871, nguồn gốc của loài người đã được nhiều ngành, nhiều nhà khoa học tìm kiếm, chjuwngs minh bằng những bằng chứng khoa học, nhất là việc phát hiện những di cốt hóa thạch của loài vượn cổ và người vượn trung gian, cho phép chúng ta khôi phục lại các mắt xích của quá trình chuyển biến từ vượn thành người.

Qúa trình tiến hóa của loài người

ở chặng đầu tiên của quá trình có một loài vượn cổ hay còn gọi là vượn người, vượn nhân hình- Hominid, sống ở cuối thế kỉ thứ ba của thời đại Tân sinh, cách ngày nay khoảng hơn 6 triệu năm. Loài vượn nhân hình này đã có thể đứng và đi bằng hai chân, dung hai chi trước để cầm nắm, ăn hoa quả, lá cây, củ và cả động vật nhỏ. Trong quá trình phát triển, loài vượn nhân hình này cũng dần tiến hóa, ngày càng gần với người hơn: từ loài vượn Dryopithecus [ đến Ramapithecusvà bước tiến rõ rệt hơn cả là người vượn phương Nam – Australopithecus. Di cốt hóa thạch của những loài vượn này đã đượct ìm thấy ở Đông Phi, Tây Á, Ấn Độ, Trung Quốc và cả ở Lạng Sơn [VN]

Loài vượn nhân hình Hominid là tổ tiên chung của loài người và cả giống vượn hiện đại. Từ hominid, một nhánh nào đó đã phát triển lên thành người Homo Habilis [hô-mô ha-bi-lít, Người khéo léo]. Đây là giai đoạn thứ hai và là bước ngoặt quan trọng trong quá trình tiến hóa. Di cốt của của một trong những Homo Habilis đã được phát hiện vào năm 1960 ở thung lũng Ôn-đu-vai [Tanzania]. Thể tích sọ là 650 cm3 và có niên đại khoảng 1,85 triệu năm.

Đặc biệt, năm 1974, nhà khảo cổ Johanson đã tìm thấy một di cốt hóa thạch khá đầy đủ. Đó là một cô gái khoảng 25-30 tuổi, được đặt tên là Lucy và “tuổi” của cô được xác định bằng phương pháp Kali Acgong là 3,5 triệu năm. Lucy đã thường xuyên ở tư thế đứng thẳng.

Điều đặc biệt quan trọng là ở một số nơi của Bắc Kenya hiện nay, người ta đã tìm thấy những công cụ đá chôn cùng với hóa thạch của người Homo Habilis. Những phát hiện này không những đã đẩy niên đại của sự xuất hiện loài người lên khoảng 3,5 đến 4 triệu năm cách ngày nay, mà còn làm nảy sinh nhiều giả thuyết về cái “nôi” của loài người và về động lực của quá trình tiến hóa từ vượn người thành người.

Giai đoạn tiếp theo là giai đoạn của những người Homo Erectus [hô-mô ê-rếch-tus – người đứng thẳng]. Địa điểm đầu tiên phát hiện ra loại người vượn này là ở Trinil ở miền Trung Java [Indonesia], được bác sĩ người Dubois người Hà Lan khi quật vào cuối thế kỉ 19. Ông đặt tên cho nó là Pithecanthropus erectus hay còn gọi là Java man [người vượn Java]. Dung tích sọ não của người Pithecanthropus đã vào khoảng từ 750 đến 975 cm3. Họ đã biết phát ra tiếng nói và đã biết chế tạo công cụ lao động.

Một đại diện rất nổi tiếng của Homo Erectus là Sinanthropus [người vượn Bắc Kinh] mà hóa thạch của nó được phát hiện trong những năm 1921-1923, ở Chu Khẩu Điếm gần Bắc Kinh. Người Sinanthropus có sọ dẹt, trán dốc thoải, u trán nổi rõ, dung tích sọ khá lớn. từ 850 đến 1220 cm khối. Họ đã biết chế tạo công cụ bằng đá rất thô sơ, biết duy trì và sử dụng lửa tự nhiên.

Khoảng 350-600 nghìn năm trước, đã xuất hiện một dạng người mới, gần với người hiện đại hơn, đó là người Homo Neanderthal [nê-an-đéc-tan]. Di cốt hóa thạch tiêu biểu của dạng người này đã được tìm thấy vào năm 1956 tại nước Đức. Thân thể người Neanderthal đã rất giống với người hiện đại, thể tích hộp sọ khá lớn từ 1200 đến 1600 cm3. Vì thế khả năng lao động và khả năng ngôn ngữ của họ cũng phát triển hơn. Di cốt của dạng người Neanderthal – cả của người lớn và trẻ em, được tìm thấy ở nhiều nơi khác như Anh, Pháp, Italia, Tây Ban Nha và vùng Trung Á.

Khoảng 200 nghìn năm trước, Homo Sapiens tức Người hiện đại hay người tinh khôn đã ra đời. Homo sapien có cấu tạo cơ thể phát triển như người ngày nay. Các bộ phận cơ thể đã trở nên hoàn thiện, hai bàn tay nhỏ, khéo léo, các ngón tay, nhất là ngón tay tay cái linh hoạt hơn, trán cáo, xương hàm nhỏ, và không còn nhô ra phía trước, não đặc biệt phát triển.

Sự xuất hiện của homo sapiens là bước nhảy vọt thứ hai sau bước nhảy vọt từ vượn thành người homo habilis. Di cốt của họ đã được tìm thấy ở hầu khắp các lục địa. Sự phát hiện các di cốt hóa thạch cùng với các công cụ lao động của các dạng người nói trên không những đã cung cấp cho chúng ta những bằng chứng khoa học không thể chối cãi được về nguồn gốc động vật của loài người, mà còn giúp ta thấy rõ quá trình hình thành loài người với những niên đại ngày càng được xác định chính xác hơn.

Đến khoảng 13000 năm rước, phần lớn các chủng loại loài người đều tuyệt chủng. Homo Sapiens là loài người duy nhất còn sót lại, tồn tại đến ngày nay.

Trong quá trình tiến hóa trên 4 triệu năm, cuối cùng chỉ còn một loài Homo sapiens sapiens kế thừa từ tổ tiên Loài Người được tồn tại tới ngày nay. Khoảng 10 loài đã tuyệt chủng trong quá trình tiến hóa này:

1. Homo rudolfensis, hóa thạch thấy ở Kenya, niên đại 1,9 triệu năm.

2. Homo habilis sống 2,5 – 1,8 triệu năm trước.

3. Homo georgicus hóa thạch có niên đại 1,8 triệu năm, tìm thấy ở Georgia là một loài trung gian giữa Homo habilis và H. erectus.

4. Homo ergaster sống cách đây 1,9 – 1,4 triệu năm tại Đông Nam Phi châu.

5. Homo erectus

6. Homo antecessor sống ở Châu Âu từ Spain đến Georgia cách đây 1,2 triệu đến 700.000 năm.

7. Homo heidelbergensis

8. Homo neanderthalensis – Người Neanderthalđ đã tuyệt chủng, người cuối cùng biến mấtcách đây 24.000 years tại nam Spain.

9. Homo floresiensis [Hobbit – người lùn] có thân hình nhỏ thó, di chỉ thấy ở đảo Flores của Indonesia, mới tuyệt chủng rất gần đây.

10. Homo sapiens idaltu [“elderly wise man”] đã tuyệt chủng, sống ở Ethiopia cách đây 160.000 năm.

Lý do tại sao các loài trên bị tuyệt chủng vẫn còn là điều bí mật, chưa giải đáp được.

Xem thêm tại: i người, không còn nghi ngờ gì nữa, đó là loài sinh vật thông minh nhất trên Trái Đất. Vậy con người xuất hiện từ bao giờ? Câu hỏi đó không phải đến nay mới được đặt ra. Sự quan tâm của con người đến “nguồn gốc” của mình được thể hiện hiện qua rất nhiều truyền thuyết, truyện cổ tích về sự sáng tạo thế giới mà ở bất kì dân tộc nào cũng có. Thời cổ đại, một số học giả cho rằng thoạt đầu con người có hình dạng nửa người nửa động vật. Thời trung đại, giáo lí của các tôn giáo, dưới nhiều hình thức khác nhau, đều giải thích rằng con người do Thượng đế sinh ra.

Đến giữa thế kỉ XVIII, vấn đề về vị trí của con người trong thế giới tự nhiên mới được đặt ra trên nền tảng khoa học thực sự khi Cac Linnay xếp con người vào cùng hệ thống với thế giới động vật. Từ đó, qua nghiên cứu các nhà khoa học mới ngày càng nhận thấy cơ thể của con người và lớp động vật có vú, đặc biệt là giống vượn hiện đại như Jippông [Gibbon – vượn], Orang Outang [Ôrăng –Utăng, đười ươi], Gorilla [khỉ đột], Chimpanzees [sanhhpangde- tinh tinh], có rất nheieuf nét gần gũi với nhau. Những kết quả nghiên cứu của ngành động vật học cao cấp cũng cho thấy, một số động vật có vú cũng mắc một số bệnh như con người , những động vật này cũng chịu thuốc kháng sinh và các loại vacxin phòng bệnh. Khi nghiên cứu quá trình phát triển bào thai người, ngành phôi thai học đã đi đến kết luận: quá trình phát triển của bào thai người là sự “rút ngắn” của hàng triệu năm tiến hóa từ động vật trở thành người.

Sau khi công trình của Darwin được công bố năm 1871, nguồn gốc của loài người đã được nhiều ngành, nhiều nhà khoa học tìm kiếm, chjuwngs minh bằng những bằng chứng khoa học, nhất là việc phát hiện những di cốt hóa thạch của loài vượn cổ và người vượn trung gian, cho phép chúng ta khôi phục lại các mắt xích của quá trình chuyển biến từ vượn thành người.

Qúa trình tiến hóa của loài người

ở chặng đầu tiên của quá trình có một loài vượn cổ hay còn gọi là vượn người, vượn nhân hình- Hominid, sống ở cuối thế kỉ thứ ba của thời đại Tân sinh, cách ngày nay khoảng hơn 6 triệu năm. Loài vượn nhân hình này đã có thể đứng và đi bằng hai chân, dung hai chi trước để cầm nắm, ăn hoa quả, lá cây, củ và cả động vật nhỏ. Trong quá trình phát triển, loài vượn nhân hình này cũng dần tiến hóa, ngày càng gần với người hơn: từ loài vượn Dryopithecus [ đến Ramapithecusvà bước tiến rõ rệt hơn cả là người vượn phương Nam – Australopithecus. Di cốt hóa thạch của những loài vượn này đã đượct ìm thấy ở Đông Phi, Tây Á, Ấn Độ, Trung Quốc và cả ở Lạng Sơn [VN]

Loài vượn nhân hình Hominid là tổ tiên chung của loài người và cả giống vượn hiện đại. Từ hominid, một nhánh nào đó đã phát triển lên thành người Homo Habilis [hô-mô ha-bi-lít, Người khéo léo]. Đây là giai đoạn thứ hai và là bước ngoặt quan trọng trong quá trình tiến hóa. Di cốt của của một trong những Homo Habilis đã được phát hiện vào năm 1960 ở thung lũng Ôn-đu-vai [Tanzania]. Thể tích sọ là 650 cm3 và có niên đại khoảng 1,85 triệu năm.

Đặc biệt, năm 1974, nhà khảo cổ Johanson đã tìm thấy một di cốt hóa thạch khá đầy đủ. Đó là một cô gái khoảng 25-30 tuổi, được đặt tên là Lucy và “tuổi” của cô được xác định bằng phương pháp Kali Acgong là 3,5 triệu năm. Lucy đã thường xuyên ở tư thế đứng thẳng.

Điều đặc biệt quan trọng là ở một số nơi của Bắc Kenya hiện nay, người ta đã tìm thấy những công cụ đá chôn cùng với hóa thạch của người Homo Habilis. Những phát hiện này không những đã đẩy niên đại của sự xuất hiện loài người lên khoảng 3,5 đến 4 triệu năm cách ngày nay, mà còn làm nảy sinh nhiều giả thuyết về cái “nôi” của loài người và về động lực của quá trình tiến hóa từ vượn người thành người.

Giai đoạn tiếp theo là giai đoạn của những người Homo Erectus [hô-mô ê-rếch-tus – người đứng thẳng]. Địa điểm đầu tiên phát hiện ra loại người vượn này là ở Trinil ở miền Trung Java [Indonesia], được bác sĩ người Dubois người Hà Lan khi quật vào cuối thế kỉ 19. Ông đặt tên cho nó là Pithecanthropus erectus hay còn gọi là Java man [người vượn Java]. Dung tích sọ não của người Pithecanthropus đã vào khoảng từ 750 đến 975 cm3. Họ đã biết phát ra tiếng nói và đã biết chế tạo công cụ lao động.

Một đại diện rất nổi tiếng của Homo Erectus là Sinanthropus [người vượn Bắc Kinh] mà hóa thạch của nó được phát hiện trong những năm 1921-1923, ở Chu Khẩu Điếm gần Bắc Kinh. Người Sinanthropus có sọ dẹt, trán dốc thoải, u trán nổi rõ, dung tích sọ khá lớn. từ 850 đến 1220 cm khối. Họ đã biết chế tạo công cụ bằng đá rất thô sơ, biết duy trì và sử dụng lửa tự nhiên.

Khoảng 350-600 nghìn năm trước, đã xuất hiện một dạng người mới, gần với người hiện đại hơn, đó là người Homo Neanderthal [nê-an-đéc-tan]. Di cốt hóa thạch tiêu biểu của dạng người này đã được tìm thấy vào năm 1956 tại nước Đức. Thân thể người Neanderthal đã rất giống với người hiện đại, thể tích hộp sọ khá lớn từ 1200 đến 1600 cm3. Vì thế khả năng lao động và khả năng ngôn ngữ của họ cũng phát triển hơn. Di cốt của dạng người Neanderthal – cả của người lớn và trẻ em, được tìm thấy ở nhiều nơi khác như Anh, Pháp, Italia, Tây Ban Nha và vùng Trung Á.

Khoảng 200 nghìn năm trước, Homo Sapiens tức Người hiện đại hay người tinh khôn đã ra đời. Homo sapien có cấu tạo cơ thể phát triển như người ngày nay. Các bộ phận cơ thể đã trở nên hoàn thiện, hai bàn tay nhỏ, khéo léo, các ngón tay, nhất là ngón tay tay cái linh hoạt hơn, trán cáo, xương hàm nhỏ, và không còn nhô ra phía trước, não đặc biệt phát triển.

Sự xuất hiện của homo sapiens là bước nhảy vọt thứ hai sau bước nhảy vọt từ vượn thành người homo habilis. Di cốt của họ đã được tìm thấy ở hầu khắp các lục địa. Sự phát hiện các di cốt hóa thạch cùng với các công cụ lao động của các dạng người nói trên không những đã cung cấp cho chúng ta những bằng chứng khoa học không thể chối cãi được về nguồn gốc động vật của loài người, mà còn giúp ta thấy rõ quá trình hình thành loài người với những niên đại ngày càng được xác định chính xác hơn.

Đến khoảng 13000 năm rước, phần lớn các chủng loại loài người đều tuyệt chủng. Homo Sapiens là loài người duy nhất còn sót lại, tồn tại đến ngày nay.

Trong quá trình tiến hóa trên 4 triệu năm, cuối cùng chỉ còn một loài Homo sapiens sapiens kế thừa từ tổ tiên Loài Người được tồn tại tới ngày nay. Khoảng 10 loài đã tuyệt chủng trong quá trình tiến hóa này:

1. Homo rudolfensis, hóa thạch thấy ở Kenya, niên đại 1,9 triệu năm.

2. Homo habilis sống 2,5 – 1,8 triệu năm trước.

3. Homo georgicus hóa thạch có niên đại 1,8 triệu năm, tìm thấy ở Georgia là một loài trung gian giữa Homo habilis và H. erectus.

4. Homo ergaster sống cách đây 1,9 – 1,4 triệu năm tại Đông Nam Phi châu.

5. Homo erectus

6. Homo antecessor sống ở Châu Âu từ Spain đến Georgia cách đây 1,2 triệu đến 700.000 năm.

7. Homo heidelbergensis

8. Homo neanderthalensis – Người Neanderthalđ đã tuyệt chủng, người cuối cùng biến mấtcách đây 24.000 years tại nam Spain.

9. Homo floresiensis [Hobbit – người lùn] có thân hình nhỏ thó, di chỉ thấy ở đảo Flores của Indonesia, mới tuyệt chủng rất gần đây.

10. Homo sapiens idaltu [“elderly wise man”] đã tuyệt chủng, sống ở Ethiopia cách đây 160.000 năm.

Lý do tại sao các loài trên bị tuyệt chủng vẫn còn là điều bí mật, chưa giải đáp được.

Xem thêm tại: //youtu.be/kOyclaAtTWA

Video liên quan

Chủ Đề