Vì sao tầng lớp trí thức không có sứ mệnh lịch sử như giai cấp công nhân

Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân trong “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” và ý nghĩa thời đại

Thứ sáu - 23/07/2021 14:36 215.480 0
[TG] - Cách đây 173 năm, tác phẩm “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” ra đời đánh dấu bước phát triển trong lịch sử hình thành chủ nghĩa Mác. Một trong những quan điểm nổi bật của tác phẩm là C.Mác và Ph.Ăngghen đã luận giải một cách thuyết phục sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Đây là “vũ khí lý luận” sắc bén để giai cấp công nhân có thể bước lên vũ đài chính trị và khẳng định vai trò to lớn của mình trong cuộc đấu tranh chống lại giai cấp tư sản. Cho đến nay, quan điểm này vẫn có ý nghĩa to lớn, nhất là cung cấp cơ sở lý luận vững chắc để đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, xuyên tạc, phủ nhận sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân.
C.Mác và Ph.Ăngghen [Ảnh minh họa]

1.Ngày 24/2/1848,“Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”[gọi tắt làTuyên ngôn] - một văn kiện mang tính cương lĩnh, có giá trị lịch sử quan trọng do C.Mác và Ph.Ăngghen soạn thảo theo sự ủy nhiệm của Liên đoàn những người cộng sản [một tổ chức công nhân quốc tế] lần đầu tiên được xuất bản tại Luân Đôn [Anh]. Trong phần mở đầu, khi nói về bối cảnh ra đời củaTuyên ngôn, C.Mác và Ph.Ăngghen đã chỉ rõ nỗi sợ hãi và sự căm thù của các thế lực trong thế giới tư bản chủ nghĩa [TBCN] đối với phong trào cộng sản đang hình thành và ngày một phát triển sâu rộng bằng một lời khẳng định rất cô đọng: Một bóng ma đang ám ảnh châu Âu.“Bóng ma” ấy đã khiến cho các thế lực trong thế giới tư bản phải “liên hợp lại thành một liên minh thần thánh để trừ khử”. Chính vì vậy, “hiện nay, đã đến lúc những người cộng sản phải công khai trình bày trước toàn thế giới những quan điểm, mục đích, ý đồ của mình; và phải có một Tuyên ngôn của đảng của mình để đập lại câu chuyện hoang đường về bóng ma cộng sản”[1].

Trong bối cảnh đó, để giúp cho giai cấp vô sản toàn thế giới và các chính đảng nhận thức rõ vị trí, vai trò, sứ mệnh lịch sử và mục đích cao cả trong cuộc đấu tranh nhằm lật đổ giai cấp tư sản và chủ nghĩa tư bản [CNTB], đồng thời thiết lập địa vị thống trị của mình và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, C.Mác và Ph.Ăngghen đã phác họa nên một bức tranh sinh động về quá trình hình thành và phát triển của CNTB, bóc trần những mâu thuẫn nội tại, vốn có của nó, chỉ rõ mức độ đối kháng giai cấp ngày càng sâu sắc giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản. Không chỉ vậy, C.Mác và Ph.Ăngghen còn khẳng định: “Giai cấp tư sản đã đóng một vai trò hết sức cách mạng trong lịch sử”; ở bất cứ nơi nào mà giai cấp tư sản thiết lập được quyền thống trị chính trị của mình, nó đều “đạp đổ những quan hệ phong kiến, gia trưởng và điền viên”, làm tiêu tan “tất cả những quan hệ xã hội cứng đờ và hoen rỉ, với cả tràng những quan niệm và tư tưởng vốn được tôn sùng từ nghìn xưa đi kèm những quan hệ ấy”. Nó “làm cho sản xuất và tiêu dùng của tất cả các nước mang tính chất thế giới”, những thành quả hoạt động tinh thần của một dân tộc “trở thành tài sản chung của tất cả các dân tộc” và “lôi cuốn đến cả những dân tộc dã man nhất vào trào lưu văn minh”. Hơn nữa, giai cấp tư sản, trong quá trình thống trị chưa đầy một thế kỷ, “đã tạo ra những lực lượng sản xuất nhiều hơn và đồ sộ hơn lực lượng sản xuất của tất cả các thế hệ trước kia gộp lại”[2].

Đánh giá cao những thành tựu và đóng góp ấy của CNTB và giai cấp tư sản, song với cái nhìn biện chứng khách quan về tiến trình phát triển của lịch sử nhân loại, trongTuyên ngôn, C.Mác và Ph.Ăngghen cũng đã khẳng định rằng, giờ đây, giống như những gì đã xảy ra với các phương thức sản xuất trước kia, quan hệ sản xuất TBCN đã không còn phù hợp với lực lượng sản xuất hùng mạnh do nó tạo ra nữa, nó bắt đầu kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất này. TrongTuyên ngôn, khi chứng minh sự tất yếu phải diệt vong của CNTB và khẳng định “sự sụp đổ của giai cấp tư sản và thắng lợi của giai cấp vô sản đều là tất yếu như nhau”, C.Mác và Ph.Ăngghen đã nhấn mạnh rằng, điều đó sẽ không tự động diễn ra. Vai trò kẻ đào huyệt chôn chế độ tư bản đã trở nên lỗi thời đó sẽ phải do một giai cấp nhất định thực hiện - giai cấp vô sản, giai cấp do chính xã hội tư bản sản sinh ra: “Giai cấp tư sản không những đã rèn những vũ khí sẽ giết mình; nó còn tạo ra những người sử dụng vũ khí ấy chống lại nó, đó là những công nhân hiện đại, nhữngngười vô sản”[3]. Theo các ông, không một giai cấp thống trị đã lỗi thời nào lại tự nguyện rút lui khỏi vũ đài lịch sử và do vậy, việc lật đổ giai cấp tư sản với tư cách một giai cấp thống trị đã hết vai trò lịch sử chỉ có thể thành công bởi một cuộc đấu tranh giai cấp quyết liệt - cuộc cách mạng vô sản do chính giai cấp vô sản cách mạng và chính đảng của nó thực hiện.

Một trong những điểm nhấn quan trong củaTuyên ngônlà C.Mác và Ph.Ăngghen đã tiến hành luận chứng cho sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của giai cấp vô sản. Theo các ông, trong thời đại ngày nay, với tư cách là “sản phẩm của bản thân nền đại công nghiệp”, giai cấp vô sản không chỉ trở thành “giai cấp đang nắm tương lai trong tay”, mà còn là “giai cấp thực sự cách mạng” nhất và chính nền sản xuất TBCN đã đưa họ lên địa vị đó, lên vũ đài lịch sử với tư cách lực lượng cách mạng hùng hậu và không điều hòa với toàn bộ chế độ lao động làm thuê. Sự nghiệp giải phóng giai cấp vô sản phải do chính giai cấp vô sản thực hiện. Song, giai cấp vô sản tiến hành cách mạng nhằm lật đổ giai cấp tư sản và CNTB không chỉ vì sự nghiệp giải phóng mình, mà còn thực hiện một sứ mệnh cao cả nữa, mang đậm tính nhân văn cộng sản chủ nghĩa là giải phóng toàn thể nhân loại cần lao vĩnh viễn thoát khỏi mọi ách áp bức, bóc lột.

Để giành thắng lợi trong cuộc đấu tranh cách mạng nhằm lật đổ giai cấp tư sản và CNTB, giai cấp vô sản cần phải có phương pháp cách mạng đúng đắn và thực thi những giải pháp tình thế một cách hợp lý, đúng đắn, “bước thứ nhất trong cuộc cách mạng công nhân là giai cấp vô sản biến thành giai cấp thống trị, là giành lấy dân chủ”[4]. Với quyền thống trị chính trị của mình, giai cấp vô sản, theo các ông, cần phải từng bước giành lấy toàn bộ tư bản trong tay giai cấp tư sản, tập trung tất cả các công cụ sản xuất chủ yếu vào tay nhà nước vô sản để nhanh chóng phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng một chế độ xã hội mới tốt đẹp. Không chỉ thế, các ông còn cho rằng, thông qua con đường đấu tranh cách mạng, việc giai cấp vô sản “tự tổ chức thành giai cấp”, “trở thành giai cấp thống trị” và thiết lập chính quyền vô sản - một chính quyền dân chủ do chính ngay bản chất của nó, thể hiện lợi ích của tuyệt đại đa số nhân dân và dựa vào sự ủng hộ của nhân dân - phải được coi là vấn đề đầu tiên, then chốt và mang ý nghĩa quyết định trong cuộc đấu tranh nhằm lật đổ giai cấp tư sản và CNTB, xây dựng thành công chế độ xã hội mới.

Ngay khi C.Mác và Ph.Ăngghen đưa ra tư tưởng này đã gặp phải sự phản đối quyết liệt của các học giả tư sản và giai cấp tư sản. Họ cho rằng những quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là “không tưởng”, “xuất phát từ sự tư biện chủ quan”[5]. Tuy nhiên, lịch sử phát triển của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế đã cho thấy, những quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen về sứ mệnh lịch sử củaTuyên ngônthực sự là “vũ khí lý luận” sắc bén để giai cấp vô sản từng bước bước lên vũ đài chính trị và khẳng định sứ mệnh lịch sử của mình.

2.Mặc dù đã ra đời cách đây 173 năm nhưngTuyên ngônvẫn thể hiện ý nghĩa thời đại rất sâu sắc, đặc biệt trong việc đấu tranh phản bác với các quan điểm sai trái, thù địch về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân hiện nay.

Thời gian qua, có ba xu hướng phủ nhận sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân:

Thứ nhất, gần đây, trong bối cảnh cuộc cách mạng khoa học - công nghệ [KHCN] hiện đại, các học giả của thuyết kỹ trị cho rằng, sự xuất hiện ngày càng nhiều “robot thông minh”, “trí tuệ nhân tạo” khiến người máy đang dần thay thế con người. Điều đó khiến người lao động vốn từ chỗ là chủ thể của quá trình sản xuất đang bị gạt ra bên lề quá trình sản xuất ấy, trở thành nhân tố đóng vai trò thứ yếu. Biểu hiện của sự thay đổi này là thay về cần đến nhiều nhân công để lao động, sản xuất thì ngày càng có nhiều doanh nghiệp chỉ cần ít nhân công. Thay vì trả lương cho nhân công, các doanh nghiệp đầu tư vào máy móc, công nghệ. Do đó, các nhà kỹ trị cho rằng đã đến lúc cần xem xét lại quan điểm của C.Mác về vai trò, vị trí trung tâm, có ý nghĩa quyết định của người lao động trong hoạt động sản xuất vật chất. Theo quan điểm của C.Mác, người lao động trong nền sản xuất tư bản chủ nghĩa không ai khác chính là giai cấp công nhân, giai cấp vô sản nên mục đích sâu xa của quan điểm này là nhằm phủ nhận vai trò của giai cấp công nhân.

Thứ hai, có một số luận điệu cho rằng, giai cấp công nhân đã hoàn thành sứ mệnh của mình trong thời kỳ cách mạng giải phóng dân tộc. Ngày nay, trong điều kiện hòa bình, hội nhập, thời kỳ của các cuộc cách mạng KHCN, vai trò đó phải thuộc về đội ngũ trí thức, những nhà khoa học. Chỉ có những nhà khoa học, trí thức mới có thể làm chủ được xã hội, đưa đất nước phát triển hiện đại, văn minh.

Thứ ba,có quan điểm cho rằng, trong xã hội tư bản hiện đại, đời sống của giai cấp công nhân không còn cơ cực như trước. Ở nhiều công ty, người công nhân đã có cổ phần, cổ phiếu nên họ không còn là giai cấp vô sản nữa. Vì thế, mẫu thuẫn giữa giai cấp công nhân với giai cấp tư sản cũng không còn mang tính chất đối kháng như trước đây. Vì thế, giai cấp công nhân cũng không còn cần đến sứ mệnh lịch sử của mình là “đào mồ chôn chủ nghĩa tư bản” như C.Mác và Ph.Ăngghen đã từng khẳng định trongTuyên ngôn.

Có thể nhận thấy, cả ba xu hướng trên đều căn cứ vào sự phát triển của xã hội hiện đại mà thời của C.Mác và Ph.Ăngghen chưa có được để phủ nhận tính đúng đắn trong quan điểm về vai trò quyết định của người lao động trong hoạt động sản xuất vật chất cũng như sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Không thể phủ nhận được ngày nay những thành tựu củaKHCNhiện đại với sự ra đời của người máy đã thay thế không chỉ những công việc nặng nhọc, những hoạt động cơ bắp, mà còn có thể thay thế cho cả những hoạt động tinh vi, phức tạp của con người. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là người lao động trở thành yếu tố thứ yếu, đứng bên ngoài quá trình sản xuất. Về thực chất,KHCNtrước hết là sản phẩm của quá trình nhận thức, sản phẩm của sự phát triển trí tuệ của con người. Do yêu cầu của sản xuất mà con người đã sáng tạo và quyết định khuynh hướng, tốc độ phát triển củaKHCN, đồng thời quyết định việc sử dụngKHCNvào sản xuất theo mục đích của mình. Thực tế cho thấy, kỹ thuật, công nghệ hiện đại dù năng động và cách mạng đến mấy cũng chỉ là sản phẩm do bàn tay và khối óc của con người làm ra và chịu sự điều khiển, giám sát của con người. Do đó, dù trí tuệ nhân tạo dẫu được mệnh danh là tiên tiến đến đâu cũng chỉ là sản phẩm của con người, hoạt động của nó phụ thuộc vào những chương trình mà con người đã lập ra, đã cài đặt vào máy tính điện tử và người máy công nghiệp. Vì vậy, trong bất cứ thời đại nào, kể cả thời đại củaKHCNhiện đại, người lao động hay nói cụ thể hơn là giai cấp công nhân vẫn đóng vai trò quyết định hoạt động sản xuất vật chất.

Ngoài ra, ngày nay, mặc dù tầng lớp trí thức đang gia tăng nhanh chóng về số lượng, ngay cả bản thân giai cấp công nhân cũng diễn ra xu hướng trí thức hóa ngày càng mạnh mẽ nhưng điều đó không có nghĩa là tầng lớp trí thức thay thế sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. C.Mác, Ph.Ăngghen và cả V.I.Lênin sau này cũng nhận thấy vai trò to lớn của tầng lớptrí thức trong sự nghiệp cách mạng của giai cấp công nhân nhưng do phương thức lao động quy định và vai trò trong hệ thống sản xuất xã hội, tầng lớp trí thức không có hệ tư tưởng nên không thể giữ vai trò lãnh đạo xã hội. V.I.Lênin cho rằng: “So với giai cấp công nhân thì giới trí thức bao giờ cũng có nhiều tính chất cá nhân chủ nghĩa hơn, ấy là do những điều kiện cơ bản của đời sống và công tác của họ không cho phép họ thống nhất lực lượng một cách trực tiếp và rộng rãi, không cho họ được giáo dục trực tiếp trong lao động tập thể có tổ chức”[6].

Lịch sử phong trào cộng sản và công nhân quốc tế cho thấy, trong giai đoạn đầu của cách mạng vô sản, phần lớn những người trí thức đứng về phía giai cấp tư sản, bảo vệ những quan điểm, lập trường tư sản, phản ánh những lợi ích của giai cấp tư sản. Cùng với thực tiễn đấu tranh cách mạng của quần chúng nhân dân, tầng lớp trí thức ngày càng nhận rõ vai trò và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân và tìm thấy lợi ích của mình trong cuộc đấu tranh chung đó. Vì thế, ngày càng nhiều trí thức đi theo giai cấp công nhân, ủng hộ phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động.Tuy nhiên,trí thức tồn tại với tư cách không phải là một giai cấp, mà là một tầng lớp [đội ngũ] trung gian trong xã hội, hoạt động trong lĩnh vực lao động trí óc [sản xuất tinh thần là chủ yếu], trí thức không có hệ tư tưởng độc lập mà phụ thuộc vào hệ tư tưởng của giai cấp mà họ phục vụ. Đúng như V.I.Lênin nhận xét: “Nếu không nhập cục với một giai cấp thì giới trí thức chỉ là một con số không mà thôi”[7].

Hơn nữa, trong lòng xã hội tư bản, đời sống của người lao động tuy có được cải thiện, nhưng số người bị “hất” ra hè phố, số người nghèo khổ vẫn ngày càng tăng. Sự phát triển của các tập đoàn tư bản, các công ty tư bản xuyên quốc gia cùng sự bòn rút tài nguyên và bóc lột nhân dân nhiều nước thuộc thế giới thứ ba; các cuộc chiến tranh giữa các quốc gia hay nội chiến do các nước đế quốc phát động là nguyên nhân chủ yếu khiến cho hơn 500 triệu người bị đe dọa chết đói, 1,6 tỷ người sống trong cảnh khốn cùng, 600 triệu người thất nghiệp, hơn 800 triệu người mù chữ[8]. Đó là một bằng chứng không gì thuyết phục hơn để khẳng định CNTB sẽ không bao giờ thay đổi bản chất của họ nên giai cấp công nhân cũng sẽ vẫn còn sứ mệnh lịch sử to lớn trong việc đấu tranh giải phóng giai cấp mình và tiến tới giải phóng toàn xã hội.

Trong những năm qua, giai cấp công nhân Việt Nam không ngừng gia tăng về số lượng, trưởng thành về trình độ, ý thức, kỹ năng... Giai cấp công nhân nước ta lãnh đạo xã hội qua đội tiền phong là Đảng Cộng sản Việt Nam. Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hành động. Tuy nhiên, nhìn chung, trình độ, tay nghề của công nhân nước ta còn nhiều hạn chế, gặp nhiều khó khăn khi thích ứng với yêu cầu của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Do đó, để giai cấp công nhân nước ta tiếp tục thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình, đúng như Dự thảo các văn kiện trình Đại hội XIII của Đảng khẳng định, cần phải“phát triển giai cấp công nhân cả về số lượng và chất lượng; nâng cao bản lĩnh, trình độ, kỹ năng nhằm thích ứng với cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư”[9].

Cho đến nay, quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân qua“Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”vẫn còn vẹn nguyên giá trị. Nó không chỉ là vũ khí lý luận sắc bén cho giai cấp công nhân trong cuộc đấu tranh chống lại giai cấp tư sản để giải phóng giai cấp mình và toàn xã hội, mà hiện nay, nó còn là cơ sở lý luận quan trọng để chúng ta đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch phủ nhận giá trị chủ nghĩa Mác - Lênin. Nhìn lại những quan điểm của các nhà kinh điển để chúng ta càng thêm vững tin vào con đường đã chọn, vững tin vào giá trị bền vững của chủ nghĩa Mác - Lênin - cấu phần quan trọng trong nền tảng tư tưởng của Đảng ta.

TS. Lê Thị Chiên
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

Nguồn tin: tuyengiao.vn

ĐẤU TRANH LOẠI BỎ QUAN ĐIỂM SAI TRÁI PHỦ NHẬN SỨ MỆNH LỊCH SỬ CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN VIỆT NAM

Vũ Hữu Hải
2021-09-12T13:46:16+07:00 2021-09-12T13:46:16+07:00 //truongchinhtri.edu.vn/home/dau-tranh-bao-ve-nen-tang-tu-tuong-cua-dang/dau-tranh-loai-bo-quan-diem-sai-trai-phu-nhan-su-menh-lich-su-cua-giai-cap-cong-nhan-viet-nam-1340.html /home/themes/egov/images/no_image.gif
Trường Chính trị tỉnh Bình Phước //truongchinhtri.edu.vn/home/uploads/logotc108t.png
Thứ năm - 09/09/2021 17:58 6.730 0
Hiện nay, thế giới đang bước vào cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư [4.0], Kinh tế tri thức và kinh tế số giúp cho nhiều quốc gia phát triển vượt bậc. Các thế lực thù địch lợi dụng những biến đổi này để tuyên truyền, phủ nhận sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Chính vì vậy, có quan điểm sai trái cho rằng, trước sự phát triển của kinh tế tri thức và kinh tế số, giai cấp công nhân bị giảm sút nhiều mặt, nên không còn vai trò lãnh đạo xã hội, vai trò ấy đã thuộc về trí thức.
Đây là quan điểm sai trái, lợi dụng sự phát triển của khoa học công nghệ và những biến đổi lớn của xã hội để diễn dịch cho rằng giai cấp công nhân bị giảm sút nhiều mặt, nên không thể lãnh đạo xã hội và rồi quy nạp vai trò lãnh đạo xã hội về cho trí thức. Những luận điệu sai trái này cho rằng trong nền kinh tế tri thức, chỉ có trí thức mới quyết định được trình độ phát triển của đất nước. Trong bối cảnh nâng cao năng lực cạnh tranh với các nước phát triển và khi kinh tế tri thức càng phát triển thì số lượng trí thức càng tăng, từ đó trí thức giữ vị trí trung tâm của xã hội, lãnh đạo xã hội. Quan điểm này được đưa ra một cách chủ quan mà không dựa trên cơ sở lý luận và thực tiễn.
Thứ nhất, về lý luận: nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có sự đẩy mạnh phân công lao động xã hội theo ngành nghề, lĩnh vực, vùng miền, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức và kinh tế số đã làm chuyển dịch cơ cấu lao động, cơ cấu giai cấp theo hướng đa dạng và tạo ra không gian rộng mở cho sự phát triển nhiều mặt của giai cấp công nhân với nhiều thành phần kinh tế cùng tham gia công nghiệp hóa.
Vai trò của trí thức đối với sự phát triển xã hội là quan trọng, cấp thiết, thể hiện rõ nét trong kinh tế tri thức, kinh tế số và cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Với những đóng góp từ lao động của trí thức giúp cho quá trình sản xuất vật chất của công nhân và nông dân không ngừng nâng cao về năng xuất, chất lượng, năng lực cạnh tranh, tạo ra sự phát triển nhanh của đất nước. Nhưng trí thức không thể lãnh đạo xã hội vì những lý do sau:
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, trí thức không phải là một giai cấp, mà là một lực lượng xã hội đặc biệt, có nguồn gốc xuất thân không thuần nhất. Trí thức không đại diện cho một phương thức sản xuất độc lập nào, phương thức sản xuất của trí thức là độc lập nghiên cứu, sáng tạo; sản phẩm của trí thức là lý thuyết, phát minh, sáng chế, tồn tại dưới dạng những giá trị lý thuyết tinh thần là chủ yếu. Trí thức không có hệ tư tưởng riêng, tư tưởng của trí thức phụ thuộc hệ tư tưởng của các giai cấp thống trị xã hội. V.I.Lênin chỉ rõ: “nếu không nhập cục với một giai cấp thì giới trí thức chỉ là một consố không mà thôi”[1].Kể từ khi xã hội có phân chia giai cấp, sự lãnh đạo xã hội luôn thuộc về giai cấp.
Thứ hai, về thực tiễn: lịch sử loài người cho thấy, một giai cấp giữ vị trí thống trị xã hội bao giờ cũng phải là giai cấp đại diện cho lực lượng sản xuất phát triển, phương thức sản xuất tiến bộ. Trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, đòi hỏi giai cấp lãnh đạo xã hội phải trung thành với lới ích của giai cấp, dân tộc, có hệ tư tưởng tiên tiến, có Đảng Cộng sản lãnh đạo, có đường lối lãnh đạo đúng, có mục tiêu nhân văn vì giải phóng con người; có bản chất quốc tế và bản sắc dân tộc sâu sắc. Như vậy, trí thức không có được một tiêu chuẩn, giá trị nào trong hệ thống các giá trị chuẩn mực nêu trên.
Từ xưa đến nay, trí thức tồn tại với tư cách là lực lượng xã hội đặc biệt. Số lượng trí thức không đông bằng giai cấp công nhân và nông dân, không phải là một lực lượng kinh tế, chính trị - xã hội độc lập, không thể so với sự đông đảo của giai cấp công nhân và giai cấp nông dân. Tuy nhiên trí thức lại có khả năng tư vấn, phản biện, giám định về mặt kinh tế - kỹ thuật và mặt chính trị - xã hội cho chính phủ như: tư vấn, phản biện, giám định về nội dung, chương trình, kế hoạch giáo dục - đào tạo, phát triển y tế, tài chính, ngân hàng, điều chỉnh giá xăng, giá điện, nước, chuyển giao ứng dụng khoa học, kỹ thuật, công nghệ hiện đại, điều chế vắcxin điều trị Covid -19, v.v. Mặt khác, trí thức còn có khả năng khái quát xây dựng hệ tư tưởng cho các giai cấp thống trị xã hội như: trí thức dưới chế độ chiếm hữu nô lệ, trí thức phong kiến, trí thức tư sản và trí thức công nhân. Trên thực tế, trí thức chỉ tồn tại và phát triển dựa vào giai cấp công nhân hoặc nông dân, dựa trên lĩnh vực công nghiệp, nông nghiệp, đó là môi trường để trí thức có thể áp dụng các lý thuyết, phát minh, sáng chế, thiết kế của mình để kiểm nghiệm thực tiễn, đánh giá tính đúng – sai, kiểm tra chân lý, qua đó mà trí thức mới có thu nhập, được nuôi dưỡng, tồn tại và phát triển.
Qua thực tiễn hoạt động sản xuất vật chất, đấu tranh giai cấp và thực nghiệm khoa học đã làm cho đội ngũ trí thức ngày càng nhận rõ sứ mệnh lịch sử của của giai cấp công nhân và tìm thấy lợi ích của mình trong cuộc đấu tranh chung, thực hiện mục tiêu chung là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, thực hiện: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Chủ nghĩa xã hội là mẫu số chung, để cho công nhân, nông dân, trí thức và các tầng lớp lao động gắn bó với nhau trong một khối liên minh thống nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Vì thế, ngày càng có nhiều trí thức đi theo giai cấp công nhân, chấp nhận sự lãnh đạo của giai cấp công nhân thông qua Đảng Cộng sản Việt Nam.
Hiện nay, với sự phát triển của xã hội, số lượng người lao động được đào tạo ở trình độ, tay nghề cao ngày càng nhiều, do nhu cầu về việc làm, thu nhập mà những người có trình độ cao đã không ngừng tham gia vào phương thức sản xuất công nghiệp, bổ sung cho giai cấp công nhân, kể cả chuyên gia đầu ngành, làm cho giai cấp công nhân không ngừng tăng nhanh cả về số lượng và chất lượng. Kinh tế tri thức và kinh tế số là một trình độ mới của lực lượng sản xuất hiện đại mà vai trò của tri thức ở một số lĩnh vực sản xuất đã được khẳng định. Việc quan tâm phát triển kinh tế tri thức và kinh tế số là xu thế chung hiện nay, nhằm đổi mới cơ cấu kinh tế, phát triển lực lượng sản xuất. Giai cấp công nhân Việt Nam vẫn giữ vững vai trò lãnh đạo xã hội Việt Nam thông qua Đảng Cộng sản Việt Nam. Đảng viên của Đảng hiện nay có sự đa dạng về thành phần xã hội, gồm công nhân, nông dân, trí thức, doanh nhân, v.v. Để trở thành đảng viên, người vào Đảng phải nghiên cứu Điều lệ, giác ngộ giai cấp và tự nguyện đi theo lập trường của giai cấp công nhân, phải phấn đấu trưởng thành, tu dưỡng đạo đức cách mạng. Trong điều kiện Đảng cầm quyền, cán bộ, đảng viên khi được giao trọng trách, thực hiện nhiệm vụ lãnh đạo, quản lý, phải có bản lĩnh chính trị, lập trường, tư tưởng vững vàng, có phong cách, đạo đức tốt, phải nêu gương, có trí tuệ và tầm nhìn sâu rộng, có năng lực lãnh đạo, định hướng tầm nhìn cho quần chúng.
C.Mác và Ph.Ăngghen viết: “Trong tất cả các giai cấp hiện đang đối lập với giai cấp tư sản thì chỉ có giai cấp công nhân là giai cấp thực sự cách mạng. Tất cả các giai cấp khác đều suy tàn và tiêu vong với sự phát triển của đại công nghiệp, còn giai cấp vô sản thì trái lại, là sản phẩm của bản thân nền đại công nghiệp”[2]. Do giai cấp công nhân có mối quan hệ khách quan với phương thức sản xuất công nghiệp, nên giai cấp công nhân là lực lượng sản xuất hàng đầu, đại diện cho lực lượng sản xuất phát triển, phương thức sản xuất tiến bộ hơn phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Giai cấp công nhân nước ta có sứ mệnh lịch sử to lớn: "Là giai cấp lãnh đạo cách mạng thông qua đội tiền phong là Đảng Cộng sản Việt Nam; giai cấp đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến; giai cấp tiên phong trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh; lực lượng nòng cốt trong liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng"[3].Giai cấp công nhân nước ta không ngừng phát triển về số lượng và chất lượng. Hiện nay, giai cấp công nhân nước ta có khoảng 20,5 triệu người, có sự phát triển nhanh về số lượng và chất lượng, đa dạng về cơ cấu, lĩnh vực, ngành nghề; trình độ tay nghề, vai trò của giai cấp công nhân càng ngày được khẳng định. Giai cấp công nhân nước ta hiện chiếm tỷ lệ khoảng 14% dân số, 27% lực lượng lao động xã hội, nhưng hằng năm đã tạo ra trên 65% giá trị tổng sản phẩm xã hội và hơn 70% giá trị thu ngân sách Nhà nước. Theo Tổng cục Thống kê:“ dịch Covid-19 lần thứ tư với biến chủng mới diễn biến phức tạp, ảnh hưởng tiêu cực đến sản xuất công nghiệp...nên chỉ số sản xuất công nghiệp tháng 7/2021 chỉ tăng 1,8% so với tháng trước và tăng 2,2% so với cùng kỳ năm trước, tính chung 7 tháng năm 2021, chỉ số sản xuất công nghiệp tăng 7,9% so với 7 tháng năm 2020 [4].
Điều đó chứng tỏ giai cấp công nhân nước ta không hề suy yếu, ngược lại giai cấp công nhân Việt Nam đã phát huy mạnh mẽ vai trò của giai cấp lãnh đạo xã hội, trở thành nền tảng chính trị đảm bảo cho sự lãnh đạo của Đảng và tăng cường sức mạnh Nhà nước.
Qua hơn 35 năm đổi mới, sự biến đổi của giai cấp công nhân là do tác động từ nhiều yếu tố, nhất là các cuộc cách mạng công nghiệp có chu kỳ ngày càng ngắn, yêu cầu phát triển ngày càng cao. Công nghiệp hóa diễn ra theo kiểu rút ngắn, nhảy vọt, dựa trên cơ sở tận dụng lợi thế so sánh của quốc gia gắn với việc ứng dụng công nghệ, đổi mới, sáng tạo, phát triển kinh tế tri thức và kinh tế số nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển nhanh và bền vững về: xã hội, môi trường, nguồn nhân lực, hội nhập quốc tế nhanh hơn. Cho dù sự biến đổi kinh tế, xã hội đến đâu, khoa học, công nghệ có phát triển tới mức nào, thì một thực tế không thể phủ nhận đó là: giai cấp công nhân Việt Nam vẫn giữ nguyên sứ mệnh lịch sử lãnh đạo xã hội, lãnh đạo chính quyền, lãnh đạo hệ thống chính trị thông qua Đảng Cộng sản Việt Nam.
Do vậy, quan điểm cho rằng, trước sự phát triển của kinh tế tri thức và kinh tế số giai cấp công nhân đã bị phân hóa, bị suy giảm về nhiều mặt không còn vai trò lãnh đạo xã hội, vai trò lãnh đạo ấy đã chuyển sang trí thức, là quan điểm sai trái, thiếu cơ sở lý luận và thực tiễn, đó là chủ ý thổi phồng vai trò của trí thức, kích động đội ngũ trí thức, khơi dậy tham vọng quyền lực, nhằm phủ nhận vai trò lãnh đạo xã hội của giai cấp công nhân thông qua Đảng Cộng sản Việt Nam./.
Tài liệu tham khảo:
[1].V.I.Lênin:Toàn tập, tập 1 [1893-1894], Nxb, Chính trị quốc gia, H,2005, tr.552.
[2]. C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H,1995, t.19, tr.38.
[3]. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6, khóa X, Nxb, Chính trị quốc gia, H,2008. tr.15
[4]. Tổng Cục Thống Kê, Chỉ số sản xuất công nghiệp tháng 7 năm 2021

Tác giả bài viết: Vũ Hữu Hải

Nguồn tin: Trường Chính trị tỉnh Bình Phước

Công nhân trí thức và chủ trương trí thức hóa công nhân của Đảng

Ngày đăng: 13/07/2021 09:30
Mặc định Cỡ chữ
Trong những thập kỷ gần đây, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của cách mạng khoa học - công nghệ, giai cấp công nhân đã có những chuyển biến sâu sắc, dẫn tới sự hình thành ngày càng đông đảo đội ngũ công nhân trí thức. Làm rõ tính tất yếu sự xuất hiện của đội ngũ công nhân trí thức cũng như chủ trương trí thức hóa công nhân của Đảng ta là những bổ sung kịp thời trong nhận định về giai cấp công nhân. Điều đó vừa khẳng định tính khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin về giai cấp công nhân và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, vừa khẳng định sự kiên định và vận dụng sáng tạo của Đảng ta trong thời kỳ mới.
Ảnh minh họa

Sự hình thành và phát triển của công nhân trí thức - từ dự báo khoa học đến hiện thực

Năm 1848, trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, C.Mác và Ph.Ăngghen đã chỉ ra nguồn gốc kinh tế - xã hội của giai cấp công nhân [GCCN]. Theo các ông, về nguồn gốc kinh tế “Giai cấp công nhân ra đời gắn với nền đại công nghiệp và phát triển cùng với sự phát triển của nền công nghiệp hiện đại”[1]; về nguồn gốc xã hội “Giai cấp vô sản được tuyển mộ trong tất cả các giai cấp của dân cư”[2].

Nền sản xuất công nghiệp hiện đại đòi hỏi GCCN phải không ngừng nâng cao trình độ học vấn, trình độ chuyên môn, tay nghề, kỹ năng nghề nghiệp... Đồng thời, tạo cơ chế sàng lọc khắc nghiệt đối với GCCN, ai đáp ứng được yêu cầu kỹ thuật của nền công nghiệp hiện đại thì mới trụ được trong guồng máy, nếu không sẽ bị loại bỏ. Với ý nghĩa đó, GCCN hiện đại phải là những người thực sự có trình độ chuyên môn và năng lực trí tuệ cao, bộ phận ưu tú và là lực lượng tiên phong nhất so với các giai cấp và các tầng lớp khác của xã hội. Điều này đã được Ph.Ănghen khẳng định từ thế kỷ XIX, ngay khi nền công nghiệp còn ở trình độ cơ khí. Ông cho rằng, những người lao động trong nền sản xuất hiện đại thì cần phải có năng lực phát triển toàn diện, đủ sức tinh thông toàn bộ hệ thống sản xuất. Đến lượt mình, nền sản xuất đó sẽ tạo nên những con người mới, làm cho những thành viên trong xã hội có khả năng sử dụng một cách toàn diện năng lực phát triển của mình. Vì vậy, Ph.Ăngghen nhấn mạnh: “Giai cấp công nhân không chỉ cần sự khéo léo của đôi bàn tay vàng, mà còn cần sự sáng tạo của khối óc. Chính giai cấp công nhân bằng bàn tay, khối óc mà quá trình lao động của họ đã tạo ra sự vĩ đại của nước Anh”[3].

Đặc trưng cơ bản của nền sản xuất công nghiệp hiện đại là một nền sản xuất bằng máy móc với kỹ thuật cao thường xuyên được cách mạng hóa bởi sự phát triển của cách mạng khoa học và sự vận dụng ngày càng nhanh những thành tựu khoa học vào sản xuất. Tương ứng với nền sản xuất công nghiệp ngày càng hiện đại là một GCCN hiện đại ngày càng có trình độ cao. Do đó, GCCN hiện đại từng bước hình thành với đặc trưng cơ bản là lao động trí óc được tuyển chọn chủ yếu từ hàng ngũ sinh viên, đúng như Ph.Ăngghen đã viết trong Thư gửi Đại hội Quốc tế các sinh viên xã hội chủ nghĩa: “Các bạn hãy cố gắng làm cho thanh niên ý thức được rằng giai cấp vô sản lao động trí óc phải được hình thành từ hàng ngũ sinh viên, giai cấp đó có sứ mệnh phải kề vai sát cánh và cùng đứng trong một đội ngũ những người anh em của họ, những người công nhân lao động chân tay, đóng vai trò quan trọng trong cuộc cách mạng sắp tới đây”[4].

Quá trình công nghiệp hóa có bước phát triển tuần tự từ cơ khí hóa [biểu tượng máy hơi nước] vào giữa thế kỷ XVIII, điện khí hóa vào giữa thế kỷ XIX đến điện tử hóa [biểu tượng máy tính điện tử] vào giữa thế kỷ XX, hợp thành chỉnh thể của nền sản xuất tự động hóa [biểu tượng người máy]. Sự phát triển này là do tác động của khoa học kỹ thuật và công nghệ, do đó, khoa học ngày càng trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp và kinh tế tri thức đã ra đời. Đó là nền kinh tế trong đó sự sản sinh ra, phổ cập và sử dụng tri thức giữ vai trò quyết định nhất đối với sự phát triển kinh tế, tạo ra của cải, nâng cao chất lượng cuộc sống [định nghĩa do các nước thuộc tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế OECD đưa ra năm 1996 và được sử dụng khá phổ biến hiện nay]. Cùng với quá trình phát triển của nền sản xuất công nghiệp hiện đại, GCCN hiện đại từng bước phát triển thành “giai cấp vô sản lao động trí óc”, mà C.Mác và Ph.Ăngghen dự báo trước đây, ngày nay gọi với cái tên mới là công nhân trí thức. Công nhân trí thức vừa là sản phẩm vừa là chủ thể của kinh tế tri thức.

Trong kinh tế tri thức, tri thức là yếu tố chủ yếu để tạo ra sự phát triển nhanh chóng. Để đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế tri thức, bản thân người công nhân và GCCN hiện đại không ngừng tự đào tạo, được đào tạo, bồi dưỡng nhằm nâng cao trình độ mọi mặt, nhất là trình độ khoa học - công nghệ, tạo thành xu hướng trí thức hóa công nhân trong nền công nghiệp hiện đại, kinh tế tri thức. Cùng với đó, việc rút ngắn khoảng cách giữa nghiên cứu khoa học vào sản xuất trong nền công nghiệp hiện đại, kinh tế tri thức đã dẫn đến một thực tế là, các nhà nghiên cứu, sáng chế, các kỹ sư, kỹ thuật viên cao cấp... gia nhập vào hàng ngũ GCCN hiện đại ngày càng đông, tạo thành xu hướng công nhân hóa trí thức. Hai xu hướng này cùng đồng thời diễn ra trong kinh tế tri thức, nhất là xu hướng trí thức hóa công nhân, đã dẫn đến sự hình thành và phát triển công nhân trí thức.

Trong GCCN hiện đại vẫn có cả đội ngũ công nhân truyền thống [những công nhân lao động giản đơn, có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ thấp] song tỷ lệ ngày càng giảm và xuất hiện ngày càng nhiều công nhân trí thức. Công nhân trí thức sẽ là bộ phận chủ đạo, nòng cốt trong GCCN hiện đại. Điều này không nằm ngoài dự báo của C.Mác và Ph.Ăngghen. Sự phát triển từ công nhân lao động giản đơn sang công nhân trí thức đã trở thành xu thế chung của sự phát triển và tiến bộ xã hội. Trong điều kiệnthông tin, khoa học công nghệ đã chiếm vị trí hàng đầu trong sản xuất, công nhân trí thức trở thành bộ phận tiên tiến nhất của GCCN hiện đại. Chiến lược phát triển kinh tế tri thức cùng với phát triển đội ngũ công nhân trí thức đã trở thành xu thế chung của các quốc gia hiện nay.

Ở nước ta,quá độ lên chủ nghĩa xã hội [CNXH], cho nên ngay từ những năm đầu của công cuộc xây dựng CNXH ở miền Bắc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội thì nhất định phải có học thức”[5]. Do đó, Người luôn quan tâm tới việc nâng cao trình độ học vấn, tay nghề, ý thức giai cấp... đối với GCCN, để sao cho trong GCCN xuất hiện ngày càng đông đảo bộ phận công nhân có trình độ tri thức cao, xứng đáng với vai trò lịch sử của mình. Nói chuyện với công nhân nhà máy Cơ khí Vinh, Người xác định, GCCN là giai cấp lãnh đạo, phải làm thế nào xứng đáng là giai cấp lãnh đạo để người ta tin cậy. Công nhân là người lao động làm chủ nước nhà, muốn làm chủ tốt, phải có năng lực làm chủ. Vì vậy, công nhân phải cố gắng học tập để có đủ năng lực làm chủ, có đủ năng lực tổ chức đời sống mới, trước hết là tổ chức nền sản xuất mới. Người yêu cầu: “Cần phải có kế hoạch bồi dưỡng cho cán bộ và công nhân có trình độ văn hóa và kỹ thuật khá”, thậm chí “phải có trình độ không kém gì kỹ sư”[6].

Chính vì vậy, Người chủ trương “Công nông hóa trí thức, trí thức hóa công nông. Nghĩa là công nông cần học tập văn hóa và nâng cao trình độ trí thức của mình, trí thức cần gần gũi công nông và học tập tinh thần, nghị lực, sáng kiến và kinh nghiệm của công nông”[7]. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, nâng cao trình độ của công nhân, hoàn thiện người trí thức là hai mặt của một quá trình thống nhất biện chứng. Người viết: “Do sáng kiến và kinh nghiệm trong thi đua mà lao động chân tay nâng cao trình độ kỹ thuật của mình. Do thi đua mà lao động trí óc gần gũi, giúp đỡ, công tác và học hỏi những người lao động chân tay, và trở nên những người trí thức hoàn toàn. Thế là phong trào thi đua đã làm cho công nông binh trí thức hóa, và trí thức thì lao động hóa”[8].

Chủ trương trí thức hóa công nhân của Đảng

Quán triệt quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, ngay từ những năm đầu của công cuộc đổi mới đất nước theo định hướng XHCN, để đáp ứng yêu cầu của thời kỳ mới, Đảng ta đã chú ý đến việc thực hiện trí thức hóa công nhân. Trong bài nói chuyện tại Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam [năm 1991], đồng chí Đỗ Mười - Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng, lưu ý rằng, muốn xây dựng GCCN vững mạnh “Phải coi trọng việc trí thức hóa đội ngũ công nhân. Trong khung cảnh thế giới đã bước vào thời kỳ mới, việc trí thức hóa giai cấp công nhân là một đòi hỏi khách quan. Phải đầu tư chiều sâu, tạo ra đội ngũ công nhân vững mạnh cả về lý thuyết lẫn tay nghề, nắm vững công nghệ hiện đại”[9].

Tại Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VII, ngày 25/7/1994, Tổng Bí thư Đỗ Mười đã đưa ra dự báo về xu hướng vận động, phát triển của GCCN Việt Nam trong giai đoạn mới: “Ngày nay, đội ngũ công nhân không chỉ là những người lao động sản xuất và dịch vụ công nghiệp thuộc doanh nghiệp nhà nước và hợp tác xã, mà còn bao gồm những công nhân thuộc khu vực tư nhân, cá thể, hợp tác liên doanh với nước ngoài [...]; đã, đang và sẽ xuất hiện những ngành nghề, lĩnh vực mới do tiến bộ khoa học - công nghệ và đòi hỏi khách quan của xã hội, của việc quốc tế hóa sản xuất và đời sống. Xu hướng trí thức hóa công nhân, giảm bớt lao động chân tay nặng nhọc, tăng cường yếu tố trí tuệ và lao động trí óc ngay trong dây chuyền công nghiệp đang tăng lên”[10].

Chủ trương thực hiện trí thức hóa công nhân được định hình ngày càng rõ nét trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa [CNH, HĐH] bắt đầu từ Đại hội VIII của Đảng [năm 1996], Đảng ta đã chỉ ra cần phải xây dựng GCCN lớn mạnh về mọi mặt, phát triển về số lượng, giác ngộ về giai cấp, nâng cao trình độ học vấn và tay nghề, có năng lực ứng dụng và sáng tạo công nghệ mới, có tác phong công nghiệp và ý thức tổ chức kỷ luật, lao động đạt năng suất chất lượng và hiệu quả ngày càng cao[11]... Đây chính là tinh thần về nội dung trí thức hóa công nhân trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước.

Chủ trương trí thức hóa công nhân được chính thức đặt ra tại Đại hội IX của Đảng [năm 2001]. Lần đầu tiên Đảng ta sử dụng khái niệm kinh tế tri thức và nêu rõ: “Thế kỷ XXI sẽ tiếp tục có nhiều bước biến đổi. Khoa học và công nghệ sẽ có bước nhảy vọt. Kinh tế tri thức có vai trò ngày càng nổi bật trong quá trình phát triển lực lượng sản xuất”[12]. Vì vậy, con đường CNH, HĐH ở Việt Nam cần và có thể “rút ngắn” đồng thời với “từng bước phát triển kinh tế tri thức”. Như vậy, mặc dù Việt Nam vẫn chưa giải quyết xong bước chuyển từ nền kinh tế nông nghiệp sang nền kinh tế công nghiệp nhưng bối cảnh trong nước và quốc tế đã tạo ra những điều kiện, cơ hội để Việt Nam có thể thực hiện một bước chuyển kép từ nền kinh tế nông nghiệp sang nền kinh tế công nghiệp và từ nền kinh tế công nghiệp sang kinh tế tri thức. Điều kiện kinh tế đó đã tạo tiền đề, môi trường và động lực thúc đẩy xu hướng công nhân hóa người lao động cùng với xu hướng trí thức hóa công nhân, hình thành và phát triển đội ngũ công nhân trí thức ở nước ta. Do đó, để đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh CNH, HĐH cùng với phát triển kinh tế tri thức, đối với GCCN, Đảng ta khẳng định cần phải: “Coi trọng phát triển về số lượng lẫn chất lượng, nâng cao giác ngộ và bản lĩnh chính trị, trình độ học vấn và nghề nghiệp, thực hiện “trí thức hóa công nhân”[13].

Chủ trương phát triển kinh tế tri thức cùng với thực hiện trí thức hóa công nhân được Đảng ta thể hiện nhất quán trong đường lối phát triển kinh tế - xã hội của Đảng. Đại hội X [năm 2006] xác định một trong những phương hướng lớn để phát triển đất nước là: Tranh thủ cơ hội thuận lợi do bối cảnh quốc tế tạo ra và tiềm năng, lợi thế của nước ta để rút ngắn quá trình CNH, HĐH đất nước theo định hướng XHCN gắn với phát triển kinh tế tri thức, coi kinh tế tri thức là yếu tố quan trọng của nền kinh tế và CNH, HĐH. Phát triển mạnh các ngành và sản phẩm kinh tế có giá trị gia tăng cao dựa nhiều vào tri thức; kết hợp việc sử dụng nguồn vốn tri thức của con người Việt Nam với tri thức mới nhất của nhân loại. Từ phương hướng này, đối với GCCN, Đảng ta yêu cầu phải “phát triển về số lượng, chất lượng và tổ chức; nâng cao giác ngộ và bản lĩnh chính trị, trình độ học vấn và nghề nghiệp, xứng đáng là lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”[14].

Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 khóa X [năm 2008], lần đầu tiên Đảng ta sử dụng khái niệm công nhân trí thức, đánh dấu một xu hướng phát triển mới, trình độ mới của GCCN Việt Nam. Nghị quyết khẳng định: “Qua hơn 20 năm đổi mới, cùng với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, giai cấp công nhân nước ta đã có những chuyển biến quan trọng, tăng nhanh về số lượng, đa dạng về cơ cấu, chất lượng được nâng lên, đã hình thành ngày càng đông đảo bộ phận công nhân trí thức;...”[15].

Đại hội XI của Đảng [năm 2011] khẳng định: “Toàn cầu hóa và cách mạng khoa học - công nghệ phát triển mạnh mẽ, thúc đẩy quá trình hình thành xã hội thông tin và kinh tế tri thức”[16]. Do đó, nước ta cần phải: “Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng, coi chất lượng, năng suất, hiệu quả, sức cạnh tranh là ưu tiên hàng đầu, chú trọng phát triển theo chiều sâu, phát triển kinh tế tri thức”[17]. Muốn vậy, đối với GCCN, Đảng ta yêu cầu cần phải: “Quan tâm giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng, phát triển giai cấp công nhân cả về số lượng và chất lượng; nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ học vấn, chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp, tác phong công nghiệp, kỷ luật lao động, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế”[18].

Trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng và Cách mạng công nghiệp lần thứ tưđang trở thành xu thế phát triển chủ đạo hiện nay, để tăng trưởng kinh tế theo chiều sâu cần phải dựa vào khoa học và công nghệ, vào nguồn nhân lực chất lượng cao. Do đó, chủ trương nhất quán về trí thức hóa công nhân của Đảng được nêu trong các kỳ Đại hội trước tiếp tục được khẳng định tại Đại hội XII[19].

Những dự báo khoa học của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin, Hồ Chí Minh và của Đảng ta về sự hình thành và phát triển của bộ phận công nhân có trình độ cao [công nhân trí thức] cùng với sự phát triển của nền công nghiệp hiện đại mà ở đó khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp [kinh tế tri thức] đã được hiện thực hóa. Ngày nay, kinh tế tri thức đã phát triển mạnh mẽ ở các nước công nghiệp phát triển [Mỹ, Anh, Pháp, Đức, Nhật, Canada...], kể cả các nước công nghiệp mới [Hàn Quốc, Singapore...] và bắt đầu định hình ngày càng rõ nét ở các nước đang phát triển [Trung Quốc, Ấn Độ, Brazil...]. Theo tiêu chí về nền kinh tế tri thức mà nhiều nước chấp nhận, được gói gọn trong con số 70%. Đó là: trên 70% GDP là do các ngành sản xuất và dịch vụ ứng dụng công nghệ cao mang lại [mà công nghệ cao là do công nhân trí thức đảm nhiệm]; trên 70% trong cơ cấu giá trị gia tăng là kết quả của lao động trí óc; trên 70% là công nhân lao động trí óc [công nhân trí thức]; trên 70% vốn là vốn con người[20]. Ở Bắc Mỹ và một số nước Tây Âu hiện nay, kinh tế tri thức đã chiếm đến 45% - 70% GDP[21].

Cùng với sự phát triển của kinh tế tri thức, của hai xu hướng trí thức hóa công nhân và công nhân hóa trí thức, thực tiễn các nước trên thế giới ngày nay cho thấy đã xuất hiện và phát triển ngày càng nhiều công nhân trí thức, trong khi lực lượng công nhân truyền thống ngày càng giảm dần. Tính đến năm 2000, không còn một nước TBCN phát triển nào có lượng công nhân truyền thống làm việc trong lĩnh vực sản xuất và vận chuyển sản phẩm chiếm đến hơn 1/6 hoặc 1/8 tổng số công nhân lao động của nước đó.

Ở nước ta, chủ trương thực hiện trí thức hóa công nhân và công nhân hóa trí thức của Đảng thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức đã tạo điều kiện, tiền đề, động lực để GCCN Việt Nam không ngừng lớn mạnh. GCCN nước ta hiện nay chiếm khoảng 13% dân số và 24% lao động xã hội[22]. Trình độ học vấn và chuyên môn không ngừng được nâng cao. Kết quả thống kê cho thấy: về trình độ học vấn, 70,2% tổng số công nhân có trình độ trung học phổ thông, 26,8% có trình độ trung học cơ sở, 3,1% có trình độ tiểu học, 17,9% có trình độ trung cấp, 6,6% có trình độ cao đẳng, 17,4% có trình độ đại học; về trình độ chuyên môn, hiện có 48% công nhân được đào tạo tại doanh nghiệp[23]. Nếu phân theo ngành nghề, tỷ lệ công nhân được đào tạo chuyên môn trong lĩnh vực khai khoáng là 50,4%; lĩnh vực công nghiệp chế biến là 18,5% năm 2016; lĩnh vực xây dựng tăng là 14,0%; lĩnh vực dịch vụ vận tải là 55,2% năm; lĩnh vực dịch vụ tài chính, ngân hàng và bảo hiểm là 83,1%[24].

Hiện nay, nước ta đang cố gắng “đi tắt, đón đầu”, tiến vào giai đoạn công nghiệp hiện đại và tiếp cận công nghệ thông tin, bước đầu xây dựng và phát triển kinh tế tri thức. Những thành tựu của công nghệ thông tinhiện đang xâm nhập ngày càng sâu rộng vào hầu hết các lĩnh vực kinh tế, nhất là các lĩnh vực bưu chính - viễn thông, ngân hàng, hàng không, nông nghiệp, dịch vụ. Công nghệ thông tin đang trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, có tốc độ tăng trưởng hàng năm vào loại cao nhất và đóng góp ngày càng nhiều vào GDP cả nước. Năm 2019, các doanh nghiệp công nghệ thông tin đã nộp ngân sách nhà nước trên 53.000 tỷ đồng. Hai mặt hàng công nghiệp công nghệ thông tin [máy vi tính và linh kiện điện tử] giữ vị trí thứ 3 trong 10 sản phẩm xuất khẩu chủ lực của Việt Nam. Trong giai đoạn 2014-2019, tổng doanh thu ngành công nghiệp công nghệ thông tin đạt 110 tỷ USD, với mức độ tăng trưởng trung bình 31,1% năm, hình thành đội ngũ lao động công nghệ số với hơn 1 triệu người[25]. Điều đó cho thấy xu hướng trí thức hóa công nhân ở nước ta đang ngày càng rõ hơn.

Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020 mà Đại hội XI của Đảng thông qua cũng đã xác định mục tiêu: “Phấn đấu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại”[26]. Khi đó, “tỷ trọng các ngành công nghiệp và dịch vụ chiếm khoảng 85% trong GDP. Giá trị sản phẩm công nghệ cao và sản phẩm ứng dụng công nghệ cao đạt khoảng 45% trong tổng GDP. Giá trị sản phẩm công nghiệp chế tạo chiếm khoảng 40% trong tổng giá trị sản xuất công nghiệp”[27]. Muốn vậy, Đảng ta xác định cần phải: “Phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất với trình độ khoa học, công nghệ ngày càng cao”[28], “Phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao; gắn kết chặt chẽ phát triển nguồn nhân lực với phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ”[29], “Đặc biệt coi trọng phát triển đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý giỏi, đội ngũ chuyên gia, quản trị doanh nghiệp giỏi, lao động lành nghề và cán bộ khoa học, công nghệ đầu đàn”[30], tạo tiền đề và môi trường để công nhân trí thức nước ta tiếp tục phát triển trong thời gian tới.

Những chủ trương của Đảng về trí thức hóa công nhân gắn liền với phát triển kinh tế tri thức đã khẳng định tính khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về giai cấp công nhân và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Đồng thời, điều đó còn thể hiện sự nhận thức và vận dụng một cách sáng tạo của Đảng ta về những nguyên lý của chủ nghĩa xã hội khoa học trong thời đại mới./.

------------------------------------

[1], [2], [3] C.Mác - Ph.Ăngghen: Toàn tập, t.4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.610, 604, 604.

[4] C.Mác - Ph.Ăngghen: Toàn tập, t.22, sđd, tr.613.

[5] Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.10, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr.306.

[6] Hồ Chí Minh [2000]: Toàn tập, t.8, sđd, tr.224.

[7], [8] Hồ Chí Minh [2000]: Toàn tập, t.6, sđd, tr.204, 475.

[9] Đỗ Mười: Xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Bài nói chuyện tại Hội nghị lần thứ VI Ban Chấp hành Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, ngày 23/8/1991, Hà Nội.

[10], [11] ĐCSVN: Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa VII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994, tr.31, 67-68.

[12], [13] ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr.13, 64, 91.

[14] ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.118.

[15] ĐCSVN: Văn kiện Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương khóa X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2008, tr.44.

[16], [17], [18] ĐCSVN: Văn kiện Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương khóa XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.183, 98, 22.

[19] ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2016, tr.160.

[20] Phạm Ngọc Dũng: Trí thức hóa công nhân Việt Nam, Tạp chí Khoa học xã hội, số 12, 2006, tr.13-20.

[21], Nguyễn Thị Quế, Nguyễn Hoàng Giáp: Giai cấp công nhân ở các nước tư bản phát triển từ sau chiến tranh lạnh đến nay - Thực trạng và triển vọng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010, tr.195.

[22] Lê Ngân: Giai cấp công nhân Việt Nam thực sự là lực lượng tiên phong trong sự nghiệp công nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, //vungtau.baria-vungtau.gov.vn/web/guest/tin-tuc//brvt/extAssetPublisher/content/7527450/giai-cap-cong-nhan-viet-nam-thuc-su-la-luc-luong-tien-phong-trong-su-nghiep-cong-nghiep-hoa-hien-dai-hoa-dat-nuoc.

[23] Vũ Quang Thọ: Xây dựng lối sống văn hóa của công nhân Việt Nam - Lý luận và thực tiễn, Nxb Lao động, Hà Nội, 2015, tr.61-62.

[24] Phạm Văn Giang: Sự biến đổi giai cấp công nhân Việt Nam dưới tác động của hội nhập quốc tế, //tuyengiao.vn/nghien-cuu/ly-luan/su-bien-doi-giai-cap-cong-nhan-viet-nam-duoi-tac-dong-cua-hoi-nhap-quoc-te-112378.

[25] Ngọc Bích: Công nghiệp công nghệ thông tin Việt Nam tăng trưởng hơn 30% doanh thu, //bnews.vn/cong-nghiep-cong-nghe-thong-tin-viet-nam-tang-truong-hon-30-doanh-thu/142925.html.

[26], [27], [28], [29], [30] ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.103, 103-104, 30, 106, 130.

TS Trần Thị Như Quỳnh,Học viện Chính trị khu vực II

Theo: lyluanchinhtri.vn

Về trang trước
Gửi email In trang

Chủ nghĩa Mác - Lênin về liên minh giai cấp, tầng lớp trong cách mạng XHCN - Giá trị và những nội dung cần bổ sung, phát triển

Tác giả

Chủ nhật, 03/02/2019 09:25 0 Bình luận
[Mặt trận] - Lý luận về liên minh giai cấp và tầng lớp trong cách mạng xã hội chủ nghĩa là một trong những vấn đề cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, gắn liền với xây dựng chế độ chính trị xã hội chủ nghĩa. Trong giai đoạn cách mạng hiện nay, hệ lý luận về liên minh giai cấp và các tầng lớp trong xã hội được Đảng ta kiên định thực hiện và bổ sung, phát triển, xây dựng nền tảng khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Một số giải pháp nâng cao chất lượng phản biện xã hội của MTTQ Việt Nam

Xuất bản cuốn sách của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng về quyết tâm ngăn chặn và đẩy lùi tham nhũng

Giá trị bền vững của ‘Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương’

Quan niệm chủ nghĩa Mác - Lênin về liên minh giai cấp, tầng lớp

Quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen về liên minh công - nông

C.Mác và Ph.Ăngghen đã luận bàn đến liên minh công - nông và đi đến kết luận rằng, những cuộc cách mạng sắp tới chỉ có thể thu được những thắng lợi nếu giai cấp nông dân ủng hộ những cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản, nếu không thì bài “đơn ca” cách mạng của giai cấp vô sản sẽ trở thành bài “ai điếu”.

Trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, C.Mác và Ph.Ăngghen đã nói đến khả năng và sự cần thiết phải đoàn kết giai cấp vô sản với các tầng lớp trung gian. Sau cách mạng 1848 - 1852 ở Tây Âu, các ông thấy rõ, vấn đề liên minh giữa giai cấp công nhân và các tầng lớp lao động khác trong xã hội, nhất là giai cấp nông dân trở thành vấn đề có tính sống còn đối với cuộc đấu tranh cách mạng của giai cấp công nhân. Một trong những nguyên nhân dẫn đến thất bại của Công xã Pa-ri [năm 1871] cũng là do giai cấp công nhân không liên minh được với giai cấp nông dân. Từ thực tiễn lịch sử sinh động của Công xã Pa-ri, C.Mác đã bổ sung cho lý luận của mình về liên minh công - nông: đó là vai trò hết sức quan trọng của giai cấp nông dân không chỉ trong việc giành chính quyền mà còn cả trong việc giữ chính quyền.

Tuy nhiên, sự cần thiết của liên minh công - nông không chỉ từ phía giai cấp công nhân, mà còn từ phía giai cấp nông dân. Giai cấp nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác cũng không thể thoát khỏi ách áp bức bóc lột của giai cấp tư sản, không thể được giải phóng một cách thực sự và triệt để nếu không liên minh với giai cấp công nhân, không trở thành người bạn đồng minh của giai cấp công nhân. C.Mác khẳng định: “Đứng trước giai cấp tư sản phản cách mạng đã liên minh lại thì dĩ nhiên là những phần tử đã được cách mạng hóa của giai cấp tiểu tư sản và của nông dân, phải liên minh với người đại biểu chủ yếu cho những lợi ích cách mạng, tức là giai cấp vô sản cách mạng”1. Vì “... người nông dân thấy rằng giai cấp vô sản thành thị, giai cấp có sứ mệnh lật đổ chế độ tư sản là người bạn đồng minh, người lãnh đạo tự nhiên của mình”2. Tuy vậy, để có thể liên minh được với giai cấp nông dân, cần phải thấy rõ đặc điểm, vai trò của giai cấp nông dân trong tiến trình cách mạng.

Trong giai cấp nông dân, có một bộ phận cốt lõi là tiểu nông. Về kinh tế, mỗi gia đình nông dân là một đơn vị kinh tế gần như tự túc hoàn toàn, cho thấy tính liên kết giữa họ rất ít. Về xã hội, quan hệ xã hội của họ có tính chất dòng họ, địa phương, làng xã, khiến tầm nhìn, suy nghĩ của người nông dân rất hạn chế. Về văn hóa - tư tưởng, sống trong những điều kiện kinh tế - xã hội như vậy, nên trình độ học vấn của nông dân rất thấp kém, tư tưởng bảo thủ và họ không có hệ tư tưởng riêng. Chính đặc điểm kinh tế - xã hội, văn hóa - tư tưởng đã quy định vị trí, vai trò của giai cấp nông dân trong xã hội tư bản là tầng lớp trung gian, họ có thể ngả theo giai cấp công nhân và cũng có thể ngả theo giai cấp tư sản. Vấn đề là, trên thực tế ai đem lại và bảo vệ lợi ích cho họ.

Về nội dung của liên minh công - nông, không chỉ dừng ở sự liên minh về chính trị, C.Mác và Ph.Ăngghen còn chỉ rõ sự liên minh về kinh tế giữa giai cấp công nhân và giai cấp nông dân. Trong giai đoạn xây dựng chủ nghĩa xã hội thì liên minh về kinh tế là liên minh cơ bản, thường xuyên và lâu dài, là cơ sở cho liên minh trên các lĩnh vực khác.

Theo Ph.Ăngghen, nhiệm vụ chủ yếu của chính đảng vô sản là phải không ngừng giải thích cho nông dân thấy rằng, chừng nào chủ nghĩa tư bản đang còn nắm chính quyền thì tình cảnh của họ vẫn là tuyệt vọng mà thôi, tuyệt đối chắc chắn là nền sản xuất tư bản chủ nghĩa quy mô lớn sẽ đè bẹp sản xuất quy mô nhỏ, bất lực và lỗi thời của họ. Chỉ cần cho nông dân thấy lợi ích chân chính của họ là phải chuyển ruộng đất của họ thành tài sản của hợp tác xã, tức là đưa nông dân đi vào sản xuất hợp tác: “Dù sao thì điều chủ yếu cũng là phải làm cho nông dân hiểu rằng chúng ta chỉ có thể cứu vãn và bảo tồn được tài sản của họ bằng cách biến tài sản đó thành tài sản hợp tác xã và thành những doanh nghiệp hợp tác xã”3. Ph.Ăngghen cũng cho rằng, đó là khâu trung gian trong việc chuyển nền sản xuất cá thể của nông dân quá độ lên chủ nghĩa xã hội, không qua phát triển tư bản chủ nghĩa.

C.Mác và Ph.Ăngghen cũng chỉ rõ nguyên tắc cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nông nghiệp và nông dân. Nguyên tắc thứ nhất là, không được dùng bạo lực đối với nông dân, “... mà là bằng những tấm gương và bằng sự giúp đỡ của xã hội”4. Nguyên tắc thứ hai là, tự nguyện, không được gò ép, bắt buộc đối với nông dân: “Chúng ta kiên quyết đứng về phía người tiểu nông... để cho họ có thời gian suy nghĩ với tư cách là người sở hữu mảnh đất của họ nếu họ chưa có thể quyết định như thế”5. Nguyên tắc thứ ba là, tiến dần từ thấp đến cao: phải phát triển các hợp tác xã từ bậc thấp đến bậc cao, từ quy mô từng xã đến quy mô liên xã. Các ông cho rằng, để nông dân đi lên chủ nghĩa xã hội một cách thuận lợi, nhà nước phải có nhiệm vụ giúp đỡ nông dân trong cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa. Trong sách lược đối với nông dân, theo Ph.Ăngghen, trong điều kiện của chủ nghĩa tư bản không thể coi nông dân là một khối thống nhất, vì họ không ngừng phân hóa, do đó, sách lược của các đảng xã hội chủ nghĩa cần phải khác nhau đối với các thành phần nông dân khác nhau.

Không chỉ dừng lại ở việc luận giải tính tất yếu, nội dung, và nguyên tắc của liên minh công - nông, C.Mác phê phán quan điểm của phái Látxan cho rằng: “Ngoài giai cấp vô sản ra, hết thảy mọi giai cấp khác chỉ là một khối phản động”. C.Mác đã nhắc lại “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” có ghi: “Trong tất cả các giai cấp hiện đang đối lập với giai cấp tư sản, thì chỉ có giai cấp vô sản là giai cấp thực sự cách mạng. Tất cả các giai cấp khác đều suy tàn và tiêu vong với sự phát triển của đại công nghiệp, còn giai cấp vô sản thì trái lại, là sản phẩm của bản thân nền đại công nghiệp”6.

C.Mác khẳng định: “Látxan thuộc làu cuốn “Tuyên ngôn cộng sản”, cũng như các tiến đồ của ông ta thuộc những thánh thư do ông ta viết ra. Sở dĩ ông ta xuyên tạc cuốn “Tuyên ngôn” một cách thô bỉ như thế vì đó chỉ là để biện hộ cho sự liên minh của ông ta với những kẻ thù chuyên chế và phong kiến chống giai cấp tư sản”7. C.Mác lý giải phái Látxan cho rằng: “Việc giải phóng lao động phải là sự nghiệp của giai cấp công nhân, đối với giai cấp công nhân tất cả các giai cấp khác chỉ gộp thành một khối phản động”8 thì đó là một điều phi lý. Thực chất quan điểm Látxan đòi phủ định khả năng tham gia cách mạng của giai cấp nông dân và tiểu tư sản; phủ nhận một vấn đề chiến lược của cách mạng vô sản là vấn đề bạn đồng minh tạm thời và lâu dài của giai cấp vô sản, đã đẩy giai cấp vô sản vào thế bị cô lập, điều đó chỉ có lợi cho giai cấp bóc lột.

C.Mác phê phán phái Látxan đưa ra yêu sách: Tổ chức những “Hợp tác xã sản xuất” của công nhân do nhà nước giúp đỡ. C.Mác cho rằng: Đề ra yêu sách này mục đích làm cho phong trào công nhân quay về hoạt động bè phái, thay thế đấu tranh giai cấp bằng những hoạt động bè phái, làm cho phong trào công nhân đi vào thế cô lập trước mặt kẻ thù giai cấp. Theo C.Mác, nói rằng những người lao động muốn xây dựng những điều kiện sản xuất tập thể theo quy mô xã hội và trước hết theo quy mô dân tộc, điều đó chỉ có nghĩa là: họ cố gắng tìm cách lật đổ những điều kiện sản xuất hiện nay và việc đó không liên quan gì tới việc thành lập những hợp tác xã do nhà nước giúp đỡ. Lập luận của Látxan và quan điểm phủ định liên minh công - nông của bọn cơ hội chủ nghĩa trong Quốc tế II có mối liên hệ tư tưởng rất rõ ràng, cho nên phê phán của C.Mác đối với chủ nghĩa Látxan trên vấn đề này đã vạch ra đường lối cơ bản cho việc phê phán chủ nghĩa cơ hội sau này trong phong trào cộng sản quốc tế.

Quan điểm của V.I.Lênin về liên minh công - nông

Kế thừa, bổ sung và phát triển quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen về vị trí, vai trò của liên minh công - nông, V.I.Lênin cho rằng, liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp công nhân và tầng lớp trí thức là nguyên tắc tối cao của chuyên chính vô sản.

V.I.Lênin chỉ rõ: “Chuyên chính vô sản là một hình thức đặc biệt của liên minh giai cấp giữa giai cấp vô sản, đội tiên phong của những người lao động, với đông đảo những tầng lớp lao động không phải vô sản [tiểu tư sản, tiểu chủ, nông dân, trí thức, v.v.] hoặc với phần lớn những tầng lớp đó; liên minh nhằm chống lại tư bản, liên minh nhằm lật đổ hoàn toàn tư bản, tiêu diệt hoàn toàn sự chống cự của giai cấp tư sản và những mưu toan khôi phục của giai cấp ấy, nhằm thiết lập và củng cố vĩnh viễn chủ nghĩa xã hội”9.

Theo luận điểm này, V.I.Lênin chỉ ra: Xét về nguyên tắc tập hợp lực lượng cách mạng của chuyên chính vô sản thì khối liên minh này đã tập hợp được những giai cấp và tầng lớp xã hội đông đảo và mạnh nhất trong các giai tầng xã hội, trong đó giai cấp công nhân là tiên tiến nhất. Xét về nguyên tắc lãnh đạo xã hội, thì người lãnh đạo cao nhất và duy nhất chỉ là giai cấp công nhân thông qua đội tiền phong của nó là Đảng Cộng sản. Tuy nhiên, vai trò đó chỉ được giữ vững khi đảng tổ chức và lãnh đạo được khối liên minh. Xét về lợi ích cơ bản thì nguyên tắc cao nhất và mục tiêu của chuyên chính vô sản là vì lợi ích toàn thể nhân dân lao động. Như vậy, sức mạnh và độ bền vững của khối liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức là thể hiện sức mạnh của Đảng, Nhà nước và tính hiện thực quyền làm chủ xã hội của nhân dân lao động, đó là những yếu tố cơ bản của chuyên chính vô sản.

V.I.Lênin đặc biệt nhấn mạnh khi chuyển từ giai đoạn giành quyền sang giai đoạn “chuyên chính vô sản”, chính trị đã chuyển sang chính trị trong lĩnh vực kinh tế, liên minh muốn được phát huy và củng cố hơn phải lấy kinh tế làm cơ sở. Phải xuất phát từ yêu cầu khách quan về kinh tế - kỹ thuật của một nước nông nghiệp lạc hậu đi lên chủ nghĩa xã hội. Do đó, phải gắn công nghiệp với nông nghiệp và khoa học công nghệ hiện đại. Về tất yếu kinh tế - kỹ thuật, Lênin chỉ rõ: nếu không có kinh tế nông nghiệp làm cơ sở, thì một nước nông nghiệp không thể xây dựng được nền công nghiệp.

V.I.Lênin nêu nhiều luận điểm về liên minh công - nông - trí thức. Trong đó có luận điểm: “Chuyên chính vô sản là một hình thức đặc biệt của liên minh giai cấp giữa giai cấp vô sản, đội tiên phong của những người lao động, với đông đảo những tầng lớp không phải vô sản [tiểu tư sản, tiểu chủ, nông dân, trí thức]”10. Người còn khẳng định: “Trước sự liên minh của các đại biểu khoa học, giai cấp vô sản và giữa kỹ thuật, không một thế lực đen tối nào đứng vững được”11.

Trong tác phẩm “Những người bạn dân” là thế nào và họ đấu tranh chống những người dân chủ - xã hội ra sao?”, V.I.Lênin phê phán quan điểm phi lịch sử của phái “dân tuý” cho rằng nông dân là lực lượng chủ yếu của cách mạng. Đồng thời, khẳng định vai trò, sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân và cho rằng, đã có chủ nghĩa tư bản thì có đấu tranh giai cấp giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản. Người chỉ rõ: “Chủ nghĩa tư bản đã tạo ra những điều kiện vật chất cho chế độ mới, và đồng thời cũng tạo ra một lực lượng xã hội mới: Giai cấp công nhân công xưởng - nhà máy, giai cấp vô sản thành thị. Tuy phải chịu cùng một sự bóc lột tư sản, mà xét theo thực chất kinh tế của nó thì sự bóc lột toàn thể nhân dân lao động ở Nga cũng là một sự bóc lột như thế, nhưng giai cấp đó lại được đặt trong những điều kiện đặc biệt có lợi cho sự giải phóng của nó: chẳng có cái gì gắn bó nó với cái xã hội cũ hoàn toàn xây dựng trên sự bóc lột; chính bản thân những điều kiện lao động của nó và hoàn cảnh sinh sống của nó đã tổ chức nó lại, buộc nó phải suy nghĩ, làm cho nó có khả năng bước lên vũ đài đấu tranh chính trị”12.

Theo V.I.Lênin, đấu tranh giai cấp của giai cấp công nhân chống giai cấp tư sản, là một tất yếu và đó là cuộc đấu tranh mạnh mẽ nhất, tập trung nhất và quyết liệt nhất, trong cuộc đấu tranh đó giai cấp công nhân phải liên minh với nông dân, vì nông dân là lực lượng của cách mạng. Ông đề cập tư tưởng liên minh công - nông và cho rằng, đường lối thì của một giai cấp, còn lợi ích thì của sự liên minh giai cấp. Giai cấp công nhân lãnh đạo cách mạng, nhưng không chỉ đem lại lợi ích cho giai cấp công nhân mà cho cả giai cấp nông dân và các tầng lớp lao động.

Về thái độ đối với nông dân và tư tưởng liên minh công - nông do giai cấp công nhân lãnh đạo, trong tác phẩm “Những người bạn dân” là thế nào và họ đấu tranh chống những người dân chủ - xã hội ra sao?”, V.I.Lênin cho rằng, do quan niệm không đúng, nên Plêkhanốp đã đoạn tuyệt với nông dân, V.I.Lênin đã luận chứng vai trò của nông dân, đưa ra tư tưởng liên minh công - nông và yêu cầu cần phải ủng hộ yêu sách của họ. Người chỉ rõ: Phải có thái độ đúng với nông dân, tuyên truyền giác ngộ họ, cần phải đoạn tuyệt với tư tưởng nông dân, nhưng không đoạn tuyệt với nông dân, mà phải có sách lược với họ. Và cho rằng, những người dân chủ - xã hội có nhiệm vụ thành lập một đảng công nhân mácxít và đề ra tư tưởng liên minh cách mạng giữa giai cấp công nhân và nông dân, coi đó là phương sách chủ yếu để lật đổ chế độ Nga hoàng, bọn địa chủ và giai cấp tư sản.

Một nguyên tắc trong liên minh giai cấp, tầng lớp theo quan điểm của V.I.Lênin đó là vấn đề thỏa hiệp cả với giai cấp tư sản. Trong tác phẩm “Bệnh ấu trĩ “tả khuynh” trong phong trào cộng sản”, V.I.Lênin đã phê phán: “Những người cộng sản Đức đã gạt bỏ việc tham gia nghị viện phản động tư sản và việc tham gia các công đoàn phản động”13. V.I.Lênin còn khẳng định: Đấu tranh cách mạng có lúc phải thoả hiệp. Bởi vì, tiến hành cách mạng không phải hoàn toàn thuận lợi và dễ dàng, mà còn có những lúc cách mạng gặp khó khăn. Trong những hoàn cảnh khó khăn phức tạp đòi hỏi người cách mạng phải biết lựa chiều, liên minh, thoả hiệp để tránh tổn thất cho cách mạng. Cách mạng không phải chỉ biết có tiến công, khoa học tiến công phải được bổ sung bằng khoa học rút lui khi cần thiết, rút lui là để chuẩn bị tiến công những thắng lợi lớn hơn. Vì vậy, V.I.Lênin đòi hỏi: Những người cộng sản có nhiệm vụ phải tìm kiếm và tìm ra một hình thức thoả hiệp thích đáng để có thể, một mặt làm dễ dàng và xúc tiến việc thống nhất hoàn toàn và cần thiết với cách ấy, mặt khác, không làm trở ngại gì đến cuộc đấu tranh tư tưởng và chính trị của những người cộng sản. Người nhấn mạnh nguyên tắc: “Không bao giờ được thoả hiệp, không bao giờ được lựa chiều chỉ làm hại cho sự mở rộng ảnh hưởng của giai cấp vô sản”14.

Như vậy, theo quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin, liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức không chỉ là nhu cầu nội tại của cách mạng xã hội chủ nghĩa, mà nó còn xuất phát từ những cơ sở khách quan khác, cụ thể: Thứ nhất, liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức là điều kiện đảm bảo vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân, là điều kiện quyết định thắng lợi trong cuộc đấu tranh giành chính quyền và công cuộc cải tạo và xây dựng xã hội mới. Thứ hai, liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức là mối liên hệ tự nhiên gắn bó và sự thống nhất lợi ích cơ bản của tất cả các giai cấp, tầng lớp. Thứ ba, liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức là do sự gắn bó thống nhất giữa sản xuất công nghiệp, nông nghiệp với khoa học kỹ thuật. Nếu không có sự liên minh chặt chẽ của cả 3 lực lượng này thì các ngành kinh tế sẽ khó phát triển. Đúng như V.I. Lênin đã khẳng định: “… thực hiện liên minh công nông là một việc khó, nhưng vô luận thế nào đó cũng là khối liên minh vô địch duy nhất để chống lại bọn tư bản”15.

Hầu hết những luận điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về liên minh giai cấp, tầng lớp trong cách mạng xã hội chủ nghĩa như đã trình bày cho đến nay vẫn còn nguyên giá trị. Tuy nhiên, có những luận điểm đã bị lịch sử vượt qua, chẳng hạn luận điểm “liên minh công - nông là nguyên tắc tối cao của chuyên chính vô sản”. Bởi vì hiện nay, cơ cấu xã hội - giai cấp ở nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam đã thay đổi. Nhiều nước tỷ lệ dân cư là nông dân đã giảm xuống tuyệt đối; hơn nữa, quá trình trí thức hóa công nhân, công nhân hóa nông dân cũng đang diễn ra mạnh mẽ. Vậy, phải căn cứ vào điều kiện lịch sử - cụ thể của từng quốc gia, dân tộc để xác định liên minh giai cấp và các tầng lớp cho đúng…

Mặt khác, hiện nay trên thế giới, nhất là ở các nước xã hội chủ nghĩa không dùng thuật ngữ “chuyên chính vô sản”, thay vào đó sử dụng thuật ngữ có cùng bản chất là “hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa”. Một trong những đặc điểm của của hệ thống chính trị đó là một hệ thống tổ chức, hệ thống chuyên chính của giai cấp thống trị, do giai cấp công nhân thống trị lãnh đạo nhằm thực hiện và bảo đảm thực hiện quyền lực của giai cấp công nhân; là sự liên minh giai cấp trong đấu tranh giành, giữ, củng cố và sử dụng quyền lực chính trị và trên bề mặt xã hội, nó đại diện cho toàn xã hội.

Trước những biến đổi của cơ cấu xã hội - giai cấp, dưới sự tác động của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại, đặc biệt là cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, trong điều kiện chủ nghĩa tư bản đang điều chỉnh để thích nghi, nhằm kéo dài sự tồn tại của chúng… thì những nội dung cần bổ sung, phát triển quanđiểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về liên minh giai cấp, tầng lớp trong cách mạng xã hội chủ nghĩa tập trung cần quan tâm, đó là: một là, vị trí, vai trò của các giai cấp, tầng lớp trong khối liên minh; hai là, nội dung thực chất của liên minh; ba là, nguyên tắc của liên minh, nhất là nguyên tắc bảo đảm về lợi ích; bốn là, phương thức tập hợp lực lượng…

2. Ý nghĩa của nghiên cứu quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về liên minh giai cấp, tầng lớp trong cách mạng xã hội chủ nghĩa đối với Việt Nam hiện nay

* Quá trình nhận thức của Đảng ta về liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức

Trung thành, vận dụng và phát triển sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về liên minh giai cấp, tầng lớp trong cách mạng xã hội chủ nghĩa,tư tưởng Hồ Chí Minh về liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức vào điều kiện cụ thể cách mạng Việt Nam, ngay từ văn kiện Đại hội lần thứ II của Đảng Lao động Việt Nam năm 1951, Đảng ta đã chỉ rõ: “Chính quyền của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa là chính quyền dân chủ của nhân dân… Lấy liên minh công nhân, nông dân và lao động trí thức làm nền tảng do giai cấp công nhân lãnh đạo”16.

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam năm 1991, Đảng ta xác định: xây dựng khối liên minh công - nông - trí làm nền tảng cho khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

Đại hội IX của Đảng chỉ rõ: “Động lực chủ yếu để phát triển đất nước là khối đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và trí thức do Đảng lãnh đạo”17.

Tổng kết thành tựu của 25 năm đổi mới, trong văn kiện Đại hội XI, Đảng ta đã chỉ một trong năm bài học kinh nghiệm lớn là: “Sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Chính nhân dân là người làm nên những thắng lợi của lịch sử”18.

Hiện nay, vấn đề liên minh công - nông đã được mở rộng thành liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân, đội ngũ trí thức và trở thành nòng cốt của khối đại đoàn kết dân tộc. Đại hội XII của Đảng tiếp tục khẳng định, phải “tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức do Đảng lãnh đạo”19, để lực lượng này thực sự trở thành nền tảng của khối đại đoàn kết dân tộc, vì mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

Nguyễn Thị Tuyết* - Hà Sơn Thái**

* Tiến sĩ, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

** Tiến sĩ, Học viện Chính trị, Bộ Quốc phòng

Chú thích:

1. C.Mác và Ph.Ăngghen,Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004, t. 7, tr. 84 - 85.

2. C.Mác và Ph. Ăng-ghen, Toàn tập, Sđd, t. 8, tr. 269.

3. C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, Sđd, t. 22, tr. 737 - 738.

4. C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, Sđd, t. 22, tr. 736.

5. C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, Sđd, t. 22, tr. 738.

6. C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, Sđd, t. 4, tr. 613.

7. C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, Nxb. CTQG, Hà Nội, 1995, t. 19, tr. 39.

8. C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, Nxb. CTQG, Hà Nội, 1995, t. 19, tr. 37.

9. V.I.Lênin, Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, 1977, t. 38, tr 452.

10. V.I.Lênin, Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, 1977, t. 38, tr 452.

11. V.I.Lênin, Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, 1977, t. 40, tr 218.

12. V.I. Lênin, Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, 1974, t. 1, tr.234 -235.

13. V.I. Lênin, Toàn tập, Nxb. Tiến bộ Mátxcơva, 1978, t. 41, tr.72.

14. V.I. Lênin, Toàn tập, Nxb. Tiến bộ Mátxcơva, 1978, t. 41, tr.74.

15. V.I. Lênin, Toàn tập, [Tiếng Việt], Nxb. Tiến bộ Mátxcơva, 1978, t. 39, tr. 340.

16. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t. 12, tr.437.

17. Đảng Cộng sản Việt Nam,Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr.86.

18. Đảng Cộng sản Việt Nam,Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.66.

19. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2016, tr. 158.

Tags

​Chủ nghĩa Mác - Lênin liên minh giai cấp tầng lớp cách mạng xã hội chủ nghĩa

Một số giải pháp nâng cao chất lượng phản biện xã hội của MTTQ Việt Nam

22/04/2019

Xuất bản cuốn sách của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng về quyết tâm ngăn chặn và đẩy lùi tham nhũng

16/04/2019

Giá trị bền vững của ‘Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương’

11/04/2019

Báo chí với công tác tuyên truyền hình ảnh Việt Nam ra thế giới

27/03/2019

Video liên quan

Chủ Đề