Vì sao đại hội 6 lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm

Mục lục

Bối cảnhSửa đổi

Hội nghị lần thứ 8 và những cải cáchSửa đổi

Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương khóa V [ngày 10–17 tháng 6 năm 1985] – và các hội nghị lần thứ 6 [ngày 3–10 tháng 7 năm 1984] và lần thứ 7 [ngày 11–17 tháng 12 năm 1984] – đã đặt ra yêu cầu chỉ đạo đánh giá lại tổ chức, nhân sự và hiệu quả hoạt động của Đảng.[6] Theo Báo cáo Về công tác xây dựng Đảng của Ban Chấp hành Trung ương khóa IV trình tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng, "chỗ yếu kém trong cơ cấu tổ chức của Đảng và Nhà nước từ trung ương đến cơ sở nói chung hiện nay là bộ máy tổ chức cồng kềnh, nặng nề mà hiệu lực lại thấp, chế độ trách nhiệm không rõ ràng; sự phân định về chức năng, trách nhiệm, quyền hạn giữa cơ quan đảng, cơ quan nhà nước và các đoàn thể, giữa cấp trên và cấp dưới, giữa cơ quan quản lý với các đơn vị sản xuất, kinh doanh, sự nghiệp, giữa cá nhân và tập thể đều chưa thật rõ."[7] Bên cạnh đó, những biểu hiện tiêu cực đã xuất hiện ở không ít cán bộ, đảng viên, thể hiện qua tình trạng tham nhũng, sự tha hóa, cứng nhắc, thiếu trung thực, thiếu kỷ luật.[8][5]

Đảng đã đề ra ba biện pháp để đảo ngược sự suy thoái này: [1] làm cho các cán bộ đảng viên tập trung vào kinh tế kỹ thuật và trách nhiệm quản lý; [2] cán bộ phải được tổ chức đào tạo chuyên sâu về các lĩnh vực kinh tế và hành chính, trang bị cho họ các kỹ năng vận hành một nền kinh tế ngày càng phức tạp; và [3] thay đổi cán cân quyền lực trong đảng.[8] Trong số tháng 5 năm 1986 của Tạp chí Cộng sản, Lê Đức Thọ nhấn mạnh sự cần thiết phải vượt qua những khẩu hiệu chính trị và nâng cao năng lực, kỹ năng quản lý của cán bộ trong các tổ chức đảng.[8] Ông muốn thay đổi vai trò của đảng trong nền kinh tế từ vai trò thực hiện sang vai trò giám sát, quản lý.[8] Một vấn đề khác là việc thiếu các cán bộ, nhân sự trẻ.[8] Để giải quyết vấn đề này, Đảng thừa nhận sự cần thiết phải chuẩn hóa việc đào tạo nhân sự, tiêu chuẩn về thời hạn phục vụ và tuổi nghỉ hưu, cũng như sự luân chuyển định kỳ đối với cán bộ.[8]

Ngay từ đầu trong quá trình đổi mới, Đảng đã củng cố, nâng cao trình độ đội ngũ chi bộ cấp cơ sở, tiếp tục phân cấp trách nhiệm, giao thẩm quyền cho các tổ chức cấp sở, ban, ngành, tăng cường vai trò của chính quyền địa phương trong quy hoạch kinh tế, quản lý thị trường và an ninh công cộng, đồng thời cố gắng nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát của Đảng.[9] Từ đó, nâng cao hiệu quả bộ máy hành chính, song song với việc thực hiện các chính sách kinh tế mới.[10]

Trong quý đầu tiên của năm 1986, Đảng tiếp tục thực hiện các kế hoạch của Hội nghị lần thứ 8. Tuy nhiên, các kế hoạch ban đầu được đưa ra đã bị thất bại và yêu cầu điều chỉnh khẩn cấp. Các báo cáo cho thấy các cải cách năm 1985 dẫn đến lạm phát tràn lan, và Hội nghị lần thứ 9 [giữa tháng 12 năm 1985] buộc ban lãnh đạo trung ương phải áp dụng lại chính sách phân chia khẩu phần vào để giảm bớt khó khăn cho người nghèo. Vào tháng 3, chính phủ cũng đã hợp pháp hóa các doanh nghiệp tư nhân có quy mô nhỏ, hạn chế trong lĩnh vực thủ công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp, để hỗ trợ kiểm soát lạm phát.[10] Đảng đã cố gắng đưa các quy luật thị trường vào nền kinh tế kế hoạch, đồng thời nhấn mạnh sự cần thiết phải kiểm soát thị trường.[11] Ở giai đoạn đầu này, Đảng bắt đầu thảo luận về mức độ kiểm soát của nhà nước và hoạch định nền kinh tế.[11] Ngày 8 tháng 4, Bộ Chính trị khóa V ban hành dự thảo nghị quyết về bảo đảm quyền tự chủ sản xuất, kinh doanh của các đơn vị kinh tế cơ sở.[12] Nghị quyết đã cố gắng giải quyết vấn đề còn tồn tại bằng cách tinh giản bộ máy hành chính để hoạt động hiệu quả hơn.[12] Tuy nhiên, trong khi ủng hộ việc tự chủ của các doanh nghiệp quốc doanh, Đảng vẫn tìm cách xóa bỏ thương mại cá thể.[12] Ở giai đoạn này, các nhà chức trách không tìm cách thay đổi nhiệm vụ và trách nhiệm của các cơ quan Đảng và Nhà nước ở trung ương.[13]

Chuẩn bịSửa đổi

Việc lập kế hoạch cho Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI được bắt đầu từ Hội nghị lần thứ 10 Ban Chấp hành Trung ương khóa V kéo dài 19 ngày [từ ngày 19 tháng 5 đến ngày 9 tháng 6 năm 1986].[13] Tổng Bí thư Lê Duẩn đọc diễn văn khai mạc, tại đây ông tái khẳng định cam kết cải cách của lãnh đạo Trung ương Đảng.[13] Hội nghị Trung ương 10 nhất trí thông qua dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội toàn quốc lần thứ VI.[13] Công tác chuẩn bị cho Đại hội bắt đầu bằng đại hội Đảng cấp cơ sở và trên cơ sở.[13]

Công tác chuẩn bị cho Đại hội bắt đầu chậm chạp.[14] Trong một hội nghị của Ban Tổ chức Trung ương, việc thiếu sự chuẩn bị được chỉ ra là do một số chi bộ cơ sở Đảng chưa thể chuẩn bị nhân sự cho Đại hội. Bên cạnh đó, các cơ quan cấp trên đã cung cấp hướng dẫn không đầy đủ cho các tổ chức cơ sở về các nhiệm vụ soạn thảo báo cáo khác nhau.[14] Ban Bí thư khóa V thông báo về việc triển khai công tác tự phê bình và phê bình vào ngày 11 tháng 3 trong tất cả các cấp ủy Đảng để chuẩn bị cho Đại hội.[14] Các mục tiêu chính là tăng cường kỷ luật tại các cấp ủy Đảng, củng cố tổ chức cơ sở Đảng; đánh giá kết quả hoạt động của Đảng với trọng tâm là về kinh tế và quản lý kể từ sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V; góp phần vào sắp xếp, bố trí lại nhân sử trong tương lai; tạo điều kiện thuận lợi cho việc soạn thảo các nghị quyết và chương trình nghị sự cho Đại hội và bổ nhiệm các cấp ủy địa phương mới.[15] Ban Bí thư khóa V cũng đã công bố hướng dẫn cho việc bổ nhiệm, lựa chọn thành viên Ủy ban Nhân dân và Đảng bộ các cấp vào giữa tháng 3 năm 1986.[16]

Đại hội Đảng cấp địa phươngSửa đổi

Đại hội cấp địa phương trước Đại hội toàn quốc lần thứ VI được tổ chức quy củ hơn so với các kỳ trước.[17] Khác với các kỳ Đại hội trước, ban lãnh đạo trung ương của đảng đã ban hành các chỉ thị và chương trình đào tạo cho cán bộ Đảng viên về cách tổ chức đại hội.[17] Một số cán bộ Đảng viên được giao trách nhiệm hướng dẫn cấp dưới về dự thảo Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương.[17] Ủy ban Nhân dân các địa phương bắt đầu triệu tập hội nghị vào đầu tháng 8 để nghiên cứu dự thảo báo cáo.[17] Các hội nghị này có vai trò như tiền thân của đại hội Đảng bộ cấp cơ sở và trên cơ sở, tại tỉnh, thành phố và các doanh nghiệp quốc doanh, bắt đầu được triệu tập vào giữa tháng 8.[17] Tuy nhiên, có một số một số tổ chức Đảng cấp cơ sở đã tổ chức bầu cử sớm đại biểu dự Đại hội đại biểu cấp cao hơn.[17]

Đại hội cấp trên cơ sở được triệu tập ở một số tỉnh vào cuối tháng 8, trong khi các tỉnh khác bắt đầu triệu tập vào cuối tháng 9.[18] Các đại biểu từ các tổ chức đảng cấp cơ sở đã đưa ra nhiều ý kiến cụ thể về sự cần thiết phải cải cách trong các lĩnh vực tập trung cung ứng vật tư nông nghiệp, định giá hàng hóa nông nghiệp, thống nhất phương thức bao thầu sản phẩm và thống nhất quản lý thu mua hàng hóa nông nghiệp. Phần lớn các báo cáo truyền thông về các đại hội cấp huyện ghi nhận hầu hết có sự nhất trí về các mục tiêu kinh tế cơ bản, đi cùng với thảo luận và đề xuất sửa đổi dự thảo Báo cáo Chính trị, tiếp theo là một số đề xuất sửa đổi trong dự thảo Báo cáo Chính trị.[18] Trong khi một số hội nghị chỉ trích dự thảo Báo cáo Chính trị, một số khác bày tỏ sự nhiệt tình hoặc nhất trí ủng hộ.[18] Do Quốc hội không ban hành được dự thảo Kế hoạch 5 năm lần thứ 4, các hội nghị cấp huyện buộc phải thảo luận về các mục tiêu kinh tế địa phương chủ yếu vì thiếu dữ liệu kinh tế quốc gia.[18]

Tổng Bí thư Trường Chinh trong bài phát biểu trước Ban Tổ chức Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh đã thừa nhận những khuyết điểm và sai lầm nghiêm trọng của các lãnh đạo trung ương Đảng trong lãnh đạo kinh tế, đồng thời phê phán việc áp đặt kiến trúc thượng tầng trong điều kiện Việt Nam hiện nay.[19] Trường Chinh tán thành chương trình của Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương khóa V và các khái niệm kinh tế mới, nhưng nói với những người tham dự rằng Bộ Chính trị khóa V đã thực hiện đánh giá một cách có hệ thống các chính sách kinh tế, trong đó có sự tiếp tục của nền kinh tế hỗn hợp, chấp nhận quyền sở hữu tư nhân trong tương lai gần, sự cần thiết phải chấm dứt chế độ tập trung quan liêu, cũng như phân cấp, phân quyền trong việc ra quyết định kinh tế.[20] Trong bài phát biểu trước Đại hội lần thứ 4 của Tổ chức Đảng Thành phố Hồ Chí Minh, Nguyễn Văn Linh, Ủy viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư khóa V, tán thành các cương lĩnh của các Hội nghị lần thứ 6, 7 và 8 của Ban Chấp hành Trung ương khóa V, đồng thời ủng hộ kết luận tại Hội nghị lần thứ 10 Ban Chấp hành Trung ương khóa V.[21] Ông nhấn mạnh một số chỉ thị của Bộ Chính trị.[21] Phạm Hùng, Bộ trưởng Bộ Nội vụ, trong bài phát biểu trước Đại hội tỉnh Cửu Long cho rằng việc áp dụng kinh tế thị trường và đổi mới chấp nhận sở hữu tư nhân sẽ không làm tổn hại đến quá trình chuyển đổi xã hội chủ nghĩa của Việt Nam.[21] Hội nghị lần thứ 11 [ngày 17–25 tháng 11 năm 1986], phiên họp cuối cùng trước Đại hội VI, đã thông qua cương lĩnh của đại hội.[6]

Quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị [phần 1]

Ngày phát hành: 11/07/2019 Lượt xem 20831

Từ khi tiến hành đổi mới đất nước [1986] đến nay, việc nhận thức và giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị trở thành một nội dung cốt lõi trong các quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng; là khâu đột phá trong tư duy và thực tiễn lãnh đạo sự nghiệp đổi mới của Đảng.

1. Sự phát triển nhận thức về mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị: ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân

1.1. Nội hàm đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị

- Đổi mới

Khái niệm "đổi mới" được Đảng xác định là sự thay đổi về chất trong tư duy, nhận thức và hoạt động thực tiễn của Đảng, Nhà nước, hệ thống chính trị và quần chúng nhân dân về sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đổi mới "nhằm kế thừa và phát huy những thành quả và giá trị mà chủ nghĩa xã hội đã đạt được, thay đổi, uốn nắn những quan điểm, nhận thức về chủ nghĩa xã hội chưa được xác định hoặc hiện nay không phù hợp với tình hình mới; sửa chữa những sai lầm, khuyết điểm, đồng thời xây dựng những chính sách đổi mới, những giải pháp đúng, phù hợp với cuộc sống để đưa chủ nghĩa xã hội phát triển lên một giai đoạn mới”[1].

Đổi mới bắt đầu từ tư duy. “Đổi mới tư duy không có nghĩa là phủ nhận những thành tựu lý luận đã đạt được, phủ nhận những quy luật phổ biến của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, phủ nhận đường lối đúng đắn đã được xác định, trái lại, chính là bổ sung và phát triển những thành tựu ấy”[2].

Trong quá trình đổi mới, Đảng ta không ngừng tìm tòi từ thực tiễn đất nước và thời đại, xác định ngày càng rõ và đầy đủ hơn về nội hàm và mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị.

- Nội hàm đổi mới kinh tế

Đổi mới kinh tế là quá trình chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế tập trung, bao cấp chủ yếu dựa trên chế độ sở hữu toàn dân và tập thể sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam theo định hướng xã hội chủ nghĩa; từng bước đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá; chuyển từ nền kinh tế cơ bản là “khép kín” sang nền kinh tế “mở” đối với khu vực và thế giới, nhằm kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong phát triển kinh tế.

Trên quan điểm định hướng của Đại hội VI, Đại hội lần thứ VII của Đảng tiếp tục khẳng định xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần và đổi mới kinh tế trên các mặt: sắp xếp và củng cố các đơn vị kinh tế, từng bước hình thành và mở rộng đồng bộ các thị trường, đổi mới và hoàn thiện các công cụ quản lý vĩ mô của Nhà nước. Đại hội khẳng định, sản xuất hàng hóa không đối lập với chủ nghĩa xã hội, mà là thành tựu phát triển của nền văn minh nhân loại, tồn tại khách quan, cần thiết cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Tại Đại hội IX [năm 2001], Đảng ta chính thức đưa ra khái niệm “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”, coi đó là mô hình tổng quát, là đường lối chiến lược nhất quán của Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Nhà nước quản lý nền kinh tế bằng pháp luật, chiến lược, quy hoạch, chính sách; sử dụng cơ chế thị trường để giải phóng sức sản xuất. “Mục đích của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống nhân dân”[3].

Đại hội X [2006], Đảng ta tiếp tục chủ trương hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức; nâng cao vai trò và hiệu quả quản lý kinh tế của Nhà nước theo hướng quản lý bằng pháp luật, hạn chế tối đa can thiệp hành chính vào hoạt động của thị trường và doanh nghiệp. Tiếp tục phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, với nhiều hình thức sở hữu trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Đáng chú ý là Đại hội X còn đưa ra chủ trương không xem kinh tế tư nhân gắn với chủ nghĩa tư bản, mà lãnh đạo kinh tế tư nhân phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Tại Hội nghị Trung ương 6 [khóa X -3/2008], Đảng ta đã khẳng định, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là nền kinh tế vừa tuân theo quy luật của thị trường, vừa chịu sự chi phối bởi các quy luật kinh tế của chủ nghĩa xã hội và các yếu tố bảo đảm tính định hướng xã hội chủ nghĩa. Kinh tế thị trường được Đảng, Nhà nước sử dụng như một công cụ, phương tiện, một động lực để xây dựng chủ nghĩa xã hội. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được xác định là mô hình kinh tế phù hợp với đặc điểm đất nước.

Đại hội XII, đổi mới kinh tế tiếp tục được tập trung vào hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa để giải phóng sức sản xuất xã hội; chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế gắn với xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ; “bảo đảm tính công khai, minh bạch, tính dự báo được thể hiện trong xây dựng và thực thi thể chế kinh tế, tạo điều kiện ổn định, thuận lợi cho phát triển kinh tế -xã hội”[4].

- Nội hàm đổi mới chính trị

Đổi mới chính trị được xác định bao gồm đổi mới tư duy chính trị về chủ nghĩa xã hội; đổi mới cơ cấu tổ chức và cơ chế vận hành của hệ thống chính trị, trước hết là đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng; đổi mới, nâng cao hiệu quả quản lý của Nhà nước xã hội chủ nghĩa nhằm giữ vững ổn định chính trị để xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa ngày càng vững mạnh; thực hiện tốt nền dân chủ xã hội chủ nghĩa nhằm phát huy đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và phát triển kinh tế - xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Hội nghị Trung ương 6 khóa VI [1989] Đảng ta bắt đầu dùng khái niệm “hệ thống chính trị”. Khái niệm này cho thấy việc nhận thức rõ hơn về tính hệ thống, tính chỉnh thể và mối quan hệ giữa các bộ phận cấu thành, bao gồm Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và 5 đoàn thể nhân dân là thành viên của hệ thống chính trị.

Nghị quyết hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương khoá VI [8-l989] nhấn mạnh: "Chế độ chính trị của chúng ta là chế độ làm chủ của nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng; chúng ta không chấp nhận chủ nghĩa đa nguyên chính trị, không để cho các tổ chức chống đối chủ nghĩa xã hội ra đời và hoạt động, không coi việc thực hiện chính sách kinh tế nhiều thành phần là thực hiện chủ trương đa nguyên về kinh tế”[5].

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội thông qua tại Đại hội VII [1991] đã xác định rõ mục tiêu tổng quát của hệ thống chính trị: “Toàn bộ tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị nước ta trong giai đoạn mới là nhằm xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân”[6].

Trong Cương lĩnh [1991], lần đầu tiên Đảng ta nêu ra quan niệm hoàn chỉnh về phương thức lãnh đạo của Đảng, đó là: “Đảng lãnh đạo bằng cương lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính sách và chủ trương”[7], “Đảng liên hệ mật thiết với nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”[8]. Lần đầu tiên Đảng ta xác định: “Nhà nước Việt Nam thống nhất ba quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp, với sự phân công rành mạch ba quyền đó”[9].

Tại Hội nghị Đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII, lần đầu tiên Đảng ta đưa ra khái niệm “Nhà nước pháp quyền”. Đó là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, quản lý mọi mặt đời sống xã hội bằng pháp luật, đưa đất nước phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam được xây dựng trên cơ sở tăng cường, mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân, lấy liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức làm nền tảng, do Đảng lãnh đạo.

Năm 1998, tại Hội nghị Trung ương 6 [lần 2] khóa VIII, Đảng ta mở cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng; đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí; chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống. Năm 1999, tại Hội nghị Trung ương 6 [lần 2] khóa VIII, Đảng ta mở cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng; đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí; chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống.

Đến Đại hội IX, Đảng ta khẳng định nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa: quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Hiến pháp sửa đổi [năm 2001] khẳng định: Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức.

Đại hội XI của Đảng nhấn mạnh đổi mới chính trị ở ba yếu tố cơ bản, trọng yếu là đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng; xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN; mở rộng dân chủ trong Đảng và trong xã hội gắn với tăng cường kỷ luật, kỷ cương. Trong đó, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng là cấp thiết và hàng đầu.

Tiếp nối tinh thần Đại hội XI, Đại hội XII tập trung sắp xếp, kiện toàn tổ chức bộ máy các cơ quan Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội theo yêu cầu nhiệm vụ mới. Chức năng, nhiệm vụ, mối quan hệ công tác của các tổ chức trong hệ thống chính trị được phân định, điều chỉnh phù hợp hơn[10]. Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị tiếp tục được đổi mới. Vai trò, tính chủ động tích cực, sáng tạo và trách nhiệm của các tổ chức trong hệ thống chính trị nhất là vai trò của Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc được phát huy[11].

1.2. Nhận thức về mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị

Thời kỳ trước đổi mới, việc nhận thức và giải quyết mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị không đúng đắn, chúng ta đã nhấn mạnh quá mức vai trò của chính trị đối với kinh tế và các lĩnh vực của đời sống xã hội; vi phạm quy luật kinh tế khách quan; chưa đánh giá đúng vai trò của kinh tế trong quan hệ với chính trị; nhận thức một cách đơn giản về tác động của chính trị đối với kinh tế; chính trị can thiệp quá sâu vào các quá trình kinh tế - xã hội bằng hệ thống những mệnh lệnh hành chính, chủ quan của các cơ quan quản lý.

Đại hội VI của Đảng xác định phải đổi mới từ kinh tế đến đổi mới chính trị và các lĩnh vực khác. Về mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị, Hội nghị lần 6 Ban Chấp hành Trung ương [Khoá VI] đã chỉ rõ: "Chúng ta tập trung sức làm tốt đổi mới kinh tế, đồng thời từng bước đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của các tổ chức chính trị. Không thể tiến hành cải cách hệ thống chính trị một cách vội vã khi chưa đủ căn cứ, mở rộng dân chủ không có giới hạn, không có mục tiêu cụ thể và không đi đôi với tập trung thì dẫn đến sự mất ổn định về chính trị, gây thiệt hại cho sự nghiệp đổi mới"[12].

Đại hội VII tiếp tục thực hiện chủ trương đổi mới kinh tế đồng thời từng bước đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị. Chủ trương này tiếp tục được các Đại hội Đảng thực hiện. Tuy nhiên, từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII Đảng ta đưa ra chủ trương: "Kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, đồng thời từng bước đổi mới chính trị”[13], với tinh thần phải “đổi mới toàn diện, đồng bộ, có kế thừa, có bước đi, hình thức và cách làm phù hợp. Phải đổi mới từ nhận thức, tư duy đến hoạt động thực tiễn; từ kinh tế, chính trị, văn hóa, đối ngoại đến tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội; từ hoạt động lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước đến hoạt động cụ thể trong từng bộ phận của hệ thống chính trị”[14]. Đại hội XI nhấn mạnh: “Đổi mới chính trị phải đồng bộ với đổi mới kinh tế theo lộ trình thích hợp, trọng tâm là hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, mở rộng dân chủ trong Đảng và trong xã hội gắn với tăng cường kỷ luật, kỷ cương”[15].

Tổng kết 30 năm đổi mới, nhất là tổng kết 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội XI, Đại hội XII của Đảng chỉ rõ, “Nhìn tổng thể, qua 30 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử”[16], trong đó có thành tựu về giải quyết quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị. Tuy nhiên, Đại hội XII cũng thẳng thắn chỉ ra hạn chế: “Đổi mới chính trị chưa đồng bộ với đổi mới kinh tế, năng lực và hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị chưa ngang tầm nhiệm vụ”[17]. Trên tinh thần đó, Đại hội XII đề mục tiêu chung “đổi mới mạnh mẽ, toàn diện và đồng bộ, có bước đi phù hợp trên các lĩnh vực, nhất là giữa kinh tế và chính trị”[18]. Đại hội XII xác định trong điều kiện hiện nay cần tập trung đổi mới thể chế kinh tế và đổi mới thể chế chính trị.

Về đổi mới thể chế kinh tế, tập trung vào đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao chất lượng tăng trưởng của nền kinh tế; thực hiện có hiệu quả tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế; hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; tiếp tục cơ cấu lại, đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước; phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

Về đổi mới thể chế chính trị, tập trung vào xây dựng Đảng về đạo đức và khắc phục một số hạn chế của công tác cán bộ: tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; đổi mới bộ máy đảng và hệ thống chính trị theo hướng tinh gọn, nâng cao hiệu lực, hiệu quả, lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành.

Sự đồng bộ trong đổi mới thể chế kinh tế và thể chế chính trị nhằm tạo ra sự nhịp nhàng, ăn khớp, làm điều kiện, tiền đề cho nhau, thúc đẩy nhau cùng phát triển. Đây là điểm nhận thức mới sâu sắc trong quan niệm của Đại hội XII của Đảng Cộng sản Việt Nam về đổi mới thể chế kinh tế và đổi mới thể chế chính trị.

1.3 Những nhận thức đã rõ về mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị

- Nội hàm của đổi mới kinh tế, đổi mới chính trị và mối quan hệ biện chứng giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ngày càng được nhận thức đầy đủ, sâu sắc hơn. Không còn tư duy tuyệt đối hóa, xơ cứng, máy móc và siêu hình, nhấn mạnh một chiều về vai trò của đổi mới về kinh tế hoặc chính trị.

- Tư duy, nhận thức về mối quan hệ biện chứng giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ngày càng đầy đủ hơn, phù hợp với thực tiễn sống động của đời sống kinh tế và đời sống xã hội, mang “hơi thở” của cuộc sống.

1.4. Những nhận thức chưa rõ về mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị

- Quá trình nhận thức mối quan hệ biện chứng giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị còn chậm, thậm chí còn có biểu hiện của sự trì trệ ở một số lĩnh vực, khía cạnh, dẫn đến hạn chế sự phát triển đột phá.

- Tính sáng tạo trong việc nhận thức quan hệ biện chứng giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị chưa cao.

- Vẫn còn những biểu hiện thiếu quan điểm khách quan, toàn diện, lịch sử - cụ thể trong việc nhận thức quan hệ biện chứng giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị. Đôi khi còn có biểu hiện chính trị hóa một số vấn đề kinh tế cụ thể.

1.5. Nguyên nhân những nhận thức đã rõ, những nhận thức chưa rõ trong nhận thức về mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị

- Nguyên nhân của những nhận thức đã rõ: Nhân tố có ý nghĩa quyết định cho những thành công trong sự nghiệp đổi mới nói chung, và nhận thức về mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị chính là vai trò lãnh đạo của Đảng. Với bản lĩnh, trí tuệ và hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân, Đảng ta đã tự đổi mới, tự xây dựng và nâng cao năng lực lãnh đạo của mình trong sự nghiệp cách mạng. Ngoài ra, sự thay đổi của tình hình kinh tế, chính trị trong nước và thế giới là nguyên nhân khách quan cơ bản cho những thành công trong nhận thức về quan hệ biện chứng giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở nước ta qua hơn 30 năm đổi mới.

- Nguyên nhân của những nhận thức chưa rõ: tình trạng tha hóa về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” là nguyên nhân căn bản dẫn đến những hạn chế về nhận thức và giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị. Bên cạnh đó, sự chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch đang gây nhiễu, cản trở việc nhận thức và giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị, hòng mưu toan thay đổi chế độ kinh tế, lật đổ chế độ chính trị ở nước ta; trình độ dân trí còn nhiều hạn chế nên khó thay đổi căn bản tư duy, nhận thức của con người, nhất là các chủ thể chính trị; sự ảnh hưởng ở mức độ nhất định của tư duy truyền thống với nhiều đặc trưng riêng nên quá trình nhận thức về quan hệ biện chứng giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị còn chậm.

[Còn tiếp]

PGS.TSKH Nguyễn Văn Đặng

PGS. TS Đặng Quang Định


[1] Đảng Cộng sản Việt Nam: Nghị quyết Hội nghị lần 7 Ban Chấp hành Trung ương, khoá VI. Nxb. Sự Thật, Hà Nội 1986, tr.12.

[2] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập [VI, VII, VIII, IX], Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2005, tr.133.

[3] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội 2001, tr.25.

[4] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội 2016, tr.104.

[5] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy, Ban Chấp hành Trung ương, khóa VI, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1989, tr.17.

[6] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội 2005, tr.327.

[7] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội 2005, tr.229, 229.

[8] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội 2005, tr.229, 230.

[9] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội 2005, tr.328.

[10] Xem: Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương, Hà Nội 2016, tr.187.

[11] Xem: Đảng Cộng sản Việt Nam,Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương, Hà Nội 2016, tr.190.

[12] Đảng Cộng sản Việt Nam: Nghị quyết số 06-NQ/HNTW Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng [khoá VI] Kiểm điểm hai năm thực hiện Nghị quyết Đại hội VI và phương hướng, nhiệm vụ ba năm tới, ngày 29-3-1989.

[13] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb CTQG,H.1996, tr.14.

[14] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG,H.2006, tr.70.

[15] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, NxbCTQG,H.2011; tr.99-100.

[16] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng,H.2016; tr.65.

[17] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng,H.2016; tr.68.

[18] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng,H.2016; tr.75.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng: Đại hội đổi mới toàn diện đất nước

Đại hội [ĐH] đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng họp tại Hà Nội từ ngày 15 đến 18-12-1986. Dự ĐH có 1.129 đại biểu chính thức thay mặt cho gần 1,9 triệu đảng viên trong cả nước.

ĐH lần thứ VI của Đảng là ĐH đổi mới toàn diện đất nước, hoạch định đường lối đổi mới toàn diện, sâu sắc và triệt để. Với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật, ĐH đã khẳng định những thành tựu quan trọng trong 5 năm [1981-1985] trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, đặc biệt trên mặt trận sản xuất nông nghiệp và mặt trận bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ quốc gia, làm nghĩa vụ quốc tế với Lào, Campuchia. Đồng thời nghiêm khắc chỉ ra những khuyết điểm, sai lầm trong nhận thức cũng như trong tổ chức thực hiện đường lối và nguyên tắc của Đảng.

ĐH đã rút ra 4 bài học kinh nghiệm lớn, có ý nghĩa quan trọng đối với hoạt động chỉ đạo của Đảng. Một là trong toàn bộ hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng "lấy dân làm gốc", chăm lo xây dựng, phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động. Hai là Đảng phải luôn luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan. Ba là phải biết kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong điều kiện mới. Bốn là chăm lo xây dựng Đảng ngang tầm với một đảng cầm quyền lãnh đạo nhân dân tiến hành cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa.

Đồng thời, đề ra đường lối đổi mới xây dựng chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ quá độ ở nước ta với các nội dung cơ bản: Nhiệm vụ bao trùm, mục tiêu tổng quát của những năm còn lại của chặng đường đầu tiên là ổn định mọi mặt tình hình kinh tế - xã hội, tiếp tục xây dựng những tiền đề cần thiết cho việc đẩy mạnh công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa trong chặng đường tiếp theo. ĐH cũng đưa ra hệ thống các giải pháp cơ bản về đổi mới cơ cấu kinh tế, cơ chế quản lý kinh tế, chính sách xã hội, chính sách đối ngoại để thực hiện các nhiệm vụ, mục tiêu nêu trên. Trong đó, đặc biệt nhấn mạnh đổi mới sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước và vai trò làm chủ của nhân dân, phát huy mạnh mẽ quyền làm chủ của nhân dân, tăng cường hiệu lực quản lý của Nhà nước, nâng cao năng lực và sức chiến đấu của Đảng.

ĐH đã bầu Ban Chấp hành TƯ Đảng khóa VI gồm 124 ủy viên chính thức và 49 ủy viên dự khuyết. Bộ Chính trị gồm 13 ủy viên chính thức và 1 ủy viên dự khuyết. Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành TƯ đã bầu đồng chí Nguyễn Văn Linh làm Tổng Bí thư. Các đồng chí Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Lê Đức Thọ được giao trách nhiệm là Cố vấn Ban Chấp hành TƯ Đảng.

ĐH VI của Đảng có ý nghĩa lịch sử trọng đại, đánh dấu bước ngoặt trong sự nghiệp quá độ lên chủ nghĩa xã hội của nước ta. ĐH thể hiện sự kết tinh trí tuệ của toàn Đảng, toàn dân và cũng thể hiện tinh thần trách nhiệm cao của Đảng trước đất nước và trước dân tộc. Sau ĐH, Đảng đã lãnh đạo triển khai thực hiện đường lối đổi mới toàn diện, từng bước tổng kết thực tiễn, bổ sung, phát triển, đưa cách mạng nước ta từng bước đạt được những thành tựu rất quan trọng.

Video liên quan

Chủ Đề