Tình trạng thông tin bất cân xứng là gì

Nguồn: “What is information asymmetry?“, The Economist, 04/09/2016

Biên dịch: Thu Hương

Khi mua sắm, chúng ta không thể biết được ngay sản phẩm đó có chất lượng như thế nào. Ví dụ, một chiếc tivi nhìn sẽ rất đẹp đẽ và có vẻ bền khi trưng bày ngoài cửa hàng nhưng điều đó sẽ kéo dài trong bao lâu? Chính sách bảo hành là một cách để làm tăng niềm tin của người tiêu dùng. Mua hàng của những thương hiệu lớn giúp chúng ta an tâm hơn, nhưng hàng hóa đảm bảo tiêu chuẩn lại là chuyện khác. Một tiệm cà phê có đồ uống tuyệt hảo, nhưng cửa hàng Starbucks bên cạnh sẽ không mạo hiểm để bạn tìm thấy tiệm cà phê ấy.

Vấn đề trong các ví dụ kể trên vẫn luôn xảy ra xung quanh chúng ta, nhưng phải đến những năm 1970 các nhà kinh tế học mới bắt đầu suy nghĩ đến chuyện “thông tin bất cân xứng” [information asymmetry].

George Akerlof là người đi tiên phong trong nỗ lực tìm hiểu vấn đề này. Trong bài báo viết năm 1970 có tựa đề “The Market Lemons” [tạm dịch: Những quả chanh trên thị trường], ông đặt ra câu hỏi điều gì sẽ xảy ra với thị trường xe cũ nếu người mua không thể phân biệt được đâu là chiếc xe còn tốt. Giả sử người mua sẵn sàng trả 1.000 USD cho một chiếc xe tốt [mà Akerlof gọi là quả đào] và 500 USD cho một chiếc xe hay gặp trục trặc [quả chanh].

Nếu xe cũ và xe mới khác nhau một trời một vực như chanh và đào, đó là trạng thái thị trường minh bạch và không ai chịu thiệt. Nhưng nếu không thể phân biệt đâu là chanh đâu là đào, người mua sẽ hành động khác. Họ trả 750 USD cho một chiếc xe mà họ không biết là chanh hay đào. Vấn đề nằm ở chỗ người bán biết chắc chắn chiếc xe đó là gì, và sẽ từ chối không bán với giá 750 USD. Người mua thông minh sẽ suy diễn ngược lại: nếu người bán chấp nhận mức giá 750 USD thì chiếc xe đó chắc chắn chỉ là chanh, do đó lại giảm giá xuống còn 500 USD.

Cuối cùng chiếc xe cũng được bán với mức giá đúng thực tế, nhưng tình trạng bất cân xứng thông tin khiến chẳng có quả đào nào được bán ra. Đây là tình trạng lựa chọn bất lợi [adverse selection].

Các nghiên cứu chỉ ra có hai giải pháp cho vấn đề này. Nhà kinh tế học Peter Spence tập trung vào những dấu hiệu. Ông đưa ra ví dụ trên thị trường lao động, nơi mà các ông chủ sẽ không thể biết ngay đâu là ứng viên phù hợp nhất. Do đó người dự thi tuyển sẽ phải thể hiện mình có tài năng gì thông qua các cuộc phỏng vấn hay các văn bằng chứng chỉ. Nhưng rõ ràng cách này chỉ hiệu quả nếu như các dấu hiệu đó là chính xác. Tương tự, các chính sách bảo hành và thương hiệu chính là những dấu hiệu mà các nhà sản xuất muốn đem đến cho người mua.

Giải pháp thứ hai là “sàng lọc”, đưa những sản phẩm đặc biệt đến từng loại khách hàng vì những chủ thể kinh tế khác nhau quan tâm tới những đối tượng khác nhau và thông tin của họ khi về cùng một đối tượng sẽ khác nhau. Joseph Stigliz và Micheal Rothschild đã áp dụng điều này trên thị trường bảo hiểm, cho rằng nên có các sản phẩm đa dạng khác biệt phù hợp với từng loại khách hàng có thái độ ưa thích rủi ro khác nhau.

Bất cân xứng thông tin vẫn là điều khiến các nhà hoạch định chính sách phải đau đầu. Lựa chọn bất lợi gây ra những tác động tiêu cực lên đạo luật chăm sóc sức khỏe Obamacare của Mỹ. Số người khỏe mạnh đăng ký tham gia chương trình trợ cấp bảo hiểm y tế của Chính phủ thấp hơn dự đoán, khiến mức độ liên hệ giữa rủi ro và phí bảo hiểm giảm xuống. Trong khi đó các công ty bảo hiểm rơi vào tình trạng thua lỗ và lại phải tăng phí, khiến ít người tham gia và kéo theo một vòng luẩn quẩn.

Đặc biệt, trên thị trường chứng khoán, tình trạng bất cân xứng thông tin có thể gây ra những hậu quả tai hại đặc biệt là khi con người cố tình gây ra tình trạng này. Các doanh nghiệp muốn che giấu các thông tin bất lợi, thổi phồng thông tin có lợi; nhà đầu tư không được tiếp cận những thông tin giống nhau; kẻ xấu tung tin đồn thất thiệt hay hiện tượng “làm giá” cổ phiếu… Điều này dẫn đến việc các nhà đầu tư đưa ra các quyết định đầu tư không chính xác, gây cung cầu ảo, thị trường bong bóng và tiềm ẩn nguy cơ sụp đổ thị trường.

Nguồn: CafeF

1. Lựa chọn nghịch
*Khái niệm lựa chọn nghịch
Lựa chọn nghịch [hay còn gọi là lựa chọn ngược, lựa chọn trái ý, lựa chọn bất lợi] là kết quả của thông tin bị che đậy, nó xảy ra trước khi thực hiện giao dịch hay nói cách khác trước khi ký hợp đồng .
Lựa chọn bất lợi là hành động xảy ra trước khi thực hiện giao dịch mà bên có nhiều thông tin có thể gây ra tổn hại cho bên có ít thông tin hơn. Lựa chọn bất lợi là một tình trạng kinh tế có thể nảy sinh do tồn tại tình trạng thông tin bất cân xứng, người lựa chọn thứ tốt lại chọn phải thứ không tốt. Trong điều kiện thông tin đối xứng, các bên trong giao dịch nắm thông tin ngang nhau và đầy đủ về thứ được giao dịch. Khi đó, người ta có thể tìm được thứ tốt hoặc thứ tương xứng với cái giá mà họ phải bỏ ra. Nhưng trong nền kinh tế cạnh tranh không hoàn hảo, thông tin bất đối xứng thì kết quả lại hoàn toàn ngược lại. Bên không có lợi về thông tin phải gánh chiu nhiều rủi ro, nghĩa là một bên trong giao dịch có nhiều thông tin về sản phẩm giao dịch hơn bên kia, người có ưu thế về thông tin có thể cung cấp những thông tin không trung thực về sản phẩm được giao dịch cho bên kém ưu thế thông tin. Kết quả là, bên kém ưu thế về thông tin đồng ý hoàn thành giao dịch và nhận được thứ không như mình mong muốn.
Trong thực tế có rất nhiều thị trường xảy ra bất đối xứng thông tin điển hình là thị trường chứng khoán, thị trường bảo hiểm, thị trường mua bán đồ cũ…
* Lựa chọn nghịch trong thị trường chứng khoán:
Mục đích của đầu tư chứng khoán là lợi nhuận. Trong thị tường chứng khoán lợi nhuận được biểu hiện ở giá trị cổ tức mà nhà đầu tư nhận được hay sự chênh lệch giữa giá bán và giá mua cổ phiếu. Trường hợp nhà đầu tư thất bại trong mục tiêu của mình [hoạt động đầu tư không đem lại lợi nhuận hoặc thua lỗ]. Nguyên nhân  không hẳn đổ lỗi hoàn toàn cho những biến động bất ngờ trên thị trường, mà ít nhiều đã tồn tại thông tin bất cân xứng, và hệ quả của nó là chi phí lựa chọn bất lợi mà nhà đầu tư phải gánh chịu.
Thông thường trong hoạt động mua bán chứng khoán, người bán [các công ty niêm yết] là người nắm rõ thông tin về những hoạt động kinh doanh của công ty mình hay nói cách khác họ biết rất rõ giá trị thật của cổ phiếu. Tuy nhiên, thông tin về hoạt động tài chính, kinh doanh lại không được chia sẻ đầy đủ cho nhà đầu tư. Do đó dẫn đến tình trạng nhà đầu tư đánh giá không chính xác giá trị cổ phiếu. Thế nên, nếu nhà đầu tư định giá cao hơn giá trị thực của cổ phiếu thì sự bất lợi hoàn toàn thuộc về nhà đầu tư.
Một ví dụ điển hình cho việc lựa chọn nghịch trên thị trường chứng khoán: Công ty dược Viễn Đông. Sau vụ phá sản của công ty dược Viễn Đông, gần 2000 cổ đông bị mất trắng cổ phần. Lý giải nguyên nhân là do công ty này đã che dấu tình hình tài chính, sản xuất kinh doanh  đang đi xuống của mình, nhằm huy động thêm vốn. Đặc biệt, sự mờ ám thông tin cùng với những hoạt động làm giá của hội đồng quản trị đã đẩy các nhà đầu tư vào tình trạng trắng tay.
2. Tâm lý ỷ lại
* Khái niệm
Tâm lý ỷ lại [hay còn gọi là rủi ro đạo đức] là kết quả của hành vi bị che đậy và xuất hiện sau khi ký hợp đồng. Tâm lý ỷ lại là một thuật ngữ kinh tế học và tài chính được sử dụng để chỉ một loại rủi ro phát sinh khi đạo đức của chủ thể kinh tế bị suy thoái.
Tâm lý ỷ lại là một kiểu thất bại thị trường nảy sinh trong môi trường thông tin bất cân xứng. Nó còn là hình thức cơ hội chủ nghĩa sau hợp đồng, phát sinh do các hành động có tác động đến hiệu quả nhưng lại không dễ dàng quan sát được và vì thế những người thực hiện các hành động này có thể chọn theo đuổi những lợi ích cá nhân của mình trên cơ sở gây tổn hại cho người khác. Tâm lý ỷ lại nảy sinh khi bên có ưu thế thông tin hiểu được tình thế thông tin phi đối xứng giữa các bên giao dịch và tự nhiên hình thành động cơ hành động theo hướng làm lợi cho bản thân bất kể hành động đó có thể làm hại cho bên kém ưu thế thông tin.
*Tâm lý ỷ lại trong thị trường chứng khoán
Đầu tư trên thị trường chứng khoán là hình thức các nhà đầu tư góp vốn với công ty niêm yết nhằm hưởng cổ tức do lợi nhuận trong quá trình sản xuất kinh doanh của công ty mang lại. Như vậy tâm lý ỷ lại phát sinh nếu những người đại diện điều hành công ty không sử dụng nguồn vốn đúng mục đích hoặc không hiệu quả. Tâm lý ỷ lại của người đại diện sẽ gia tăng nếu như tỷ lệ cổ phần mà họ sở hữu thấp bởi vì nếu hoạt động sản xuất kinh doanh không hiệu quả thì trách nhiệm của họ không cao và sự thiệt hại trên vốn góp là thấp. Hoặc trong một số  trường hợp những người đại diện vì theo đuổi mục đích nào đó để làm lợi riêng cho bản thân mà gây tổn hại đến lợi ích của các nhà đầu tư thì các nhà đầu tư-bên kém ưu thế về thông tin sẽ là người gánh chịu những rủi ro phát sinh .

Chủ Đề