Thực dân Pháp huy động lực lượng tấn công lên Việt Bắc gồm máy mũi

08:03, 02/10/2017

Đại tá Nguyễn Đăng Bảo

Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Chỉ huy trưởng Bộ CHQS tỉnh

Là tỉnh vùng cao nằm ở trung tâm căn cứ địa Việt Bắc, nhân dân các dân tộc Bắc Kạn có truyền thống đoàn kết, kiên cường trong lao động sản xuất và đấu tranh chống giặc ngoại xâm. Từ khi có Đảng lãnh đạo, nhân dân các dân tộc Bắc Kạn một lòng theo Đảng, cùng nhân dân cả nước đánh đổ ách đô hộ của thực dân Pháp để giải phóng quê hương...

Ngược dòng lịch sử, ngày 07/10/1947, đội quân viễn chinh Pháp mở một cuộc tấn công với quy mô lớn lên căn cứ địa kháng chiến Việt Bắc. Địch tập trung sức mạnh với 12.000 quân gồm 5 trung đoàn bộ binh hỗn hợp, 3 tiểu đoàn dù, 2 tiểu đoàn pháo binh, 2 tiểu đoàn công binh, 3 đại đội cơ giới khoảng 800 xe, hàng chục máy bay, 40 tàu ca nô các loại và một số đơn vị lính thủy đánh bộ mở một cuộc tấn công táo bạo và chớp nhoáng lên căn cứ địa Việt Bắc.

Nắm rõ tình hình địch, từ chỉ thị của Trung ương Đảng, ngày 09/10/1947, Ban Thường vụ Tỉnh ủy Bắc Kạn họp tại Bản Áng, xã Đôn Phong [Bạch Thông]. Ngoài các quyết định tại hội nghị, căn cứ Chỉ thị “Phát động du kích chiến tranh”, Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã đề ra những việc cần thực hiện gấp rút như: Tổ chức liên lạc với Khu, bảo vệ và giúp dân gặt lúa, vận động nhân dân làm vườn không, nhà trống, triệt để thực hiện khẩu hiệu: không làm việc, không tiếp tế, không dẫn đường cho địch, tổ chức phá hoại giao thông. Do thực hiện  tốt các chỉ thị của Trung ương Đảng, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Ban Thường vụ Tỉnh ủy, quân dân Bắc Kạn đã lập được nhiều chiến công. 

Bộ đội chủ lực, du kích, dân quân tự vệ Bắc Kạn đã chiến đấu dũng cảm, tiêu diệt và giam chân địch ở những nơi chúng đóng quân. Từ chỗ bị động ban đầu, quân và dân Bắc Kạn đã nhanh chóng tiến lên giành thế chủ động chiến trường, tích cực phá hoại giao thông, tổ chức nhiều trận tập kích, phục kích tiêu hao sinh lực địch, vận động đồng bào trong vùng bị địch chiếm tản cư ra vùng tự do.

Tại thị xã Bắc Kạn và huyện Bạch Thông, 800 quân Pháp nhảy dù xuống chưa kịp củng cố đội hình đã bị đoàn cảnh vệ Bắc Kạn, tiểu đội, đại đội độc lập huyện Bạch Thông, du kích xã Thanh Mai, Thanh Vận đánh du kích tiêu diệt nhiều tên.

Ngày 9/10/1947, địch huy động hàng trăm quân đến phá các kho hàng, công xưởng của ta ở Yên Đĩnh [Bạch Thông]. Hai tiểu đội du kích xã Yên Đĩnh và thị trấn Chợ Mới chặn đánh địch ở cánh đồng Yên Đĩnh, diệt 5 tên, làm bị thương 6 tên, buộc chúng phải rút chạy.

Ngày 14/7/1947, hai đại đội du kích chia làm hai cánh tiến từ Chợ Mới lên Bắc Kạn. Du kích xã Cao Kỳ, Hòa Mục do đại đội trưởng Nguyễn Văn Xù chỉ huy đã tổ chức phục kích tại khu núi Khau Chừn [đoạn km23 Bắc Kạn - Chợ Mới]. Lợi dụng địa hình hiểm trở tại nơi mai phục, du kích ta đã khôn khéo nghi binh lừa địch khiến cho chúng tự bắn vào nhau. Kết quả 15 tên địch bị chết, một số bị thương, quân ta đảm bảo an toàn.

Đêm 15/10/1947, du kích xã Yên Đĩnh, thị trấn Chợ Mới lại phối hợp cùng tiểu đoàn 19 bộ đội chủ lực [từ Cù Vân lên] tấn công thị trấn Chợ Mới. Đây là vị trí tiền tiêu của địch ở phía Nam của tỉnh, án ngữ trục đường giao thông chính từ Thái Nguyên lên Bắc Kạn.

Ngày 19/10/1947, du kích Cao Kỳ đánh một trận giòn giã ngay tại địa bàn xã. Lợi dụng địa hình hiểm trở, một bên là vực sâu, một bên là dốc dựng đứng, du kích đã dùng địa lôi phá hủy 3 xe, diệt hơn 50 tên địch, trong đó có tên thiếu tá Phơ-tơ-ni.

Tại Chợ Đồn, ngày 10/10/1947, trung đội du kích Chợ Đồn phối hợp với học viên Trường võ bị Trần Quốc Tuấn [đang trên đường chuyển quân vào Chợ Chu] phục kích đánh địch ở Kéo Phay, khi chúng càn quét vào Bản Thi. Đêm 13/10/1947, trung đội du kích xã Bằng Viễn do chính trị viên Nông Văn Chinh chỉ huy, tập kích quấy rối địch ở châu lỵ huyện Chợ Đồn. Ngày 17/10/1947, một đơn vị địch hành quân từ Bắc Kạn sang Chợ Đồn, khi đến Nà Khao đã bị du kích xã Yên Nhuận và trung đội bộ đội chủ lực thuộc Tiểu đoàn 102 phục kích ném lựu đạn, diệt 8 tên.

Tại Chợ Rã, cuối tháng 10/1947, quân Pháp mở cuộc tiến công lớn với lực lượng gần 300 tên vào khu vực Đài Phát thanh tiếng nói Việt Nam ở Khang Ninh, đồng thời nhằm chi viện cho đồng bọn ở mặt trận sông Lô, phía Tây. Quân dân Chợ Rã đã anh dũng chiến đấu, khiến chúng không thực hiện được ý đồ đề ra, buộc phải rút lui.

Tại Ngân Sơn, do nằm trên quốc lộ số 3 nên địch tập trung quân ở Ngân Sơn khá đông. Khi chiếm châu lỵ Ngân Sơn, địch đã huy động hàng trăm xe tải chở lính từ thị xã Cao Bằng [Cao Bằng] xuống. Với tinh thần chiến đấu cao, quân dân Ngân Sơn đã liên tục bao vây, quấy rối nơi địch đóng quân. Trong đó, đáng chú ý là đêm 13/11/1947, du kích Ngân Sơn do đồng chí Nguyễn Công Cẩm chỉ huy, phục kích ở đèo Khau Khang, phá hủy một xe vận tải, diệt 7 tên địch. Sau đó, du kích xã Lãng Ngâm tổ chức phục kích đoàn xe tiếp tế của địch tại khu vực đèo Giàng [trên quốc lộ 3], diệt 5 tên địch, phá 1 xe tăng.

Ngày 30/11/1947, 2 trung đội bộ đội chủ lực thuộc Trung đoàn 72 [Bắc Kạn] cùng trung đội du kích thị xã Bắc Kạn, tiểu đội du kích xã Vi Hương tập kích đồn Phủ Thông. Qua chiến đấu, ta diệt 50 tên địch, thu 2 súng máy, 1 súng trường. Đặc biệt, trận đánh diễn ra ở đèo Giàng [km187 - 188] trên quốc lộ 3 ngày 15/12/1947 đã đi vào lịch sử. Đây là một trong những chiến công oanh liệt nhất trong chiến dịch phản công Việt Bắc Thu - Đông năm 1947. Trong trận này ta phá hủy 17 xe cơ giới các loại, diệt 60 tên địch, trong đó có 2 trung úy, thu một số quân trang và 2 triệu đồng Đông Dương.

Sau hai tháng chiến đấu, quân dân Bắc Kạn đã loại khỏi vòng chiến đấu gần 1.000 tên địch, phá hủy hàng chục xe quân sự, trong đó có xe tăng, thu nhiều vũ khí đạn dược, quân trang, quân dụng. Riêng du kích Bạch Thông đã đánh 25 trận, diệt gần 300 địch... Mặt khác, do thực hiện tốt chủ trương tiêu thổ kháng chiến, những nơi địch chiếm đóng nhân dân đều thực hiện vườn không nhà trống, khiến cho chúng không thể tận dụng được nguồn lương thực, thực phẩm tại chỗ. Đường giao thông bị chặt phá từng đoạn làm cho sự cơ động chiến đấu, việc liên lạc, tiếp tế giữa các cứ điểm của địch bị hạn chế. Trong thời gian diễn ra chiến dịch Việt Bắc Thu - Đông năm 1947, quân dân Bắc Kạn đã góp trên 50.000 ngày công, đào gần 100.000 hố cản tăng với khối lượng trên 200.000m3 đất đá. Đến giữa tháng 11/1947, quân Pháp buộc phải rút bỏ các cứ điểm lẻ ở các châu, huyện xa như Chợ Đồn, Chợ Rã.

Bị tiến công trên khắp các chiến trường, bị thiệt hại và khốn đốn về nhiều mặt, từ đầu tháng 12/1947, địch phải lần lượt rút quân, chấp nhận thất bại chiến dịch tấn công lên Việt Bắc.

Lực lượng quân viễn chinh Pháp ném vào chiến dịch tiến công Việt Bắc đã bị quân dân ta đánh cho tơi bời, nhất là binh đoàn dù của trung tá Xô-va-nhác. Đạo quân tinh nhuệ của địch bị quân dân Bắc Kạn bao vây, quấy rối, tiêu diệt từng bộ phận nên không phát huy được vai trò điểm tựa cho 2 gọng kìm Đông - Tây của kế hoạch bước 1 [Lê-a] cũng như bước 2 của chiến dịch [Xanh-tuya] là càn quét địa bàn 3 tỉnh Bắc Kạn, Thái Nguyên, Tuyên Quang. Âm mưu bao vây Việt Bắc bằng hai gọng kìm phía Đông và phía Tây, thả quân dù tinh nhuệ sâu trong lòng Việt Bắc, kết hợp trong đánh ra, ngoài đánh vào, rồi hợp quân để bắt gọn cơ quan đầu não kháng chiến, tiêu diệt bộ đội chủ lực của ta, phá hủy khu căn cứ cách mạng, của địch đã bị thất bại hoàn toàn.

Chiến thắng Việt Bắc Thu - Đông năm 1947 đã làm phá sản hoàn toàn chủ trương chiến lược đánh nhanh, thắng nhanh của địch. Đồng thời, tạo đà cho những chiến thắng tiếp theo của quân và dân Bắc Kạn sau này. Ngày 09/8/1949, quân địch phải rút khỏi thị xã Bắc Kạn.

Hơn nửa thế kỷ trôi qua, chiến thắng Việt Bắc Thu - Đông 1947 vẫn mãi là chiến công oanh liệt, mãi mãi là mốc son lịch sử đáng tự hào. Năm tháng sẽ trôi qua, nhưng chiến thắng Việt Bắc Thu - Đông 1947 và những bài học quý báu đó vẫn luôn được các thế hệ tiếp nối, phát huy. Bài học trên dưới đồng tâm, nhất trí, biết giành chủ động trong các tình huống khó khăn, kiên quyết vượt lên phía trước để giành thắng lợi là một nét đặc sắc trong chỉ đạo chiến lược, truyền thống cách mạng của Đảng, của dân ta./.

QPTD -Thứ Năm, 01/12/2011, 22:23 [GMT+7]

Thế trận chiến tranh toàn dân trong Chiến dịch Việt Bắc - Thu Đông 1947

Trong kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược [1945-1954], để đánh thắng một đế quốc có tiềm lực kinh tế, quân sự hơn hẳn, có đạo quân viễn chinh xâm lược nhà nghề, được tổ chức tốt, trang bị hiện đại, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lãnh đạo quân, dân ta tiến hành cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện, thực hiện khẩu hiệu: “Toàn dân đoàn kết. Quân dân một lòng. Kháng chiến khắp nơi. Triệt để dùng chiến thuật du kích. Mỗi phố là một mặt trận. Mỗi làng là một pháo đài”, hình thành thế trận chiến tranh toàn dân trên từng khu vực, chiến trường và trên địa bàn cả nước, thực hiện đánh bại từng bước chiến tranh xâm lược của địch, tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn. Chiến dịch Việt Bắc- Thu Đông 1947 không chỉ là chiến dịch phản công đầu tiên của quân dân ta trong 30 năm tiến hành chiến tranh giải phóng chống Pháp và Mỹ xâm lược. mà còn đánh dấu sự hình thành và phát triển nghệ thuật tổ chức xây dựng và chuyển hoá thế trận chiến tranh toàn dân trong chiến dịch của nền nghệ thuật quân sự Việt Nam. Ta có thể nghiên cứu khái quát những nội dung cơ bản, diễn biến chiến dịch Việt Bắc-Thu Đông 1947 để thấy rõ vấn đề này.

Về địch, trước Thu Đông 1947, sau khi chiếm được các thành thị, phần lớn vùng đồng bằng, một phần vùng trung du và Tây Bắc, Đông Bắc Bắc Bộ, thực dân Pháp ra sức củng cố vùng đã chiếm; đồng thời, xúc tiến việc chuẩn bị một cuộc tiến công lớn lên Việt Bắc hòng tiêu diệt lực lượng chủ lực và cơ quan đầu não kháng chiến của ta bằng chiến lược “đánh nhanh, giải quyết nhanh”.

Để thực hiện kế hoạch tiến công Việt Bắc, địch sử dụng 12.000 quân tinh nhuệ [cả hải, lục, không quân] gồm 5 trung đoàn bộ binh, 3 tiểu đoàn dù, 2 tiểu đoàn pháo binh, một thuỷ đội 40 tàu và một số lính thuỷ đánh bộ, do tướng Xa-lăng [Salan], Tư lệnh chiến trường Bắc Đông Dương, chỉ huy, hình thành ba mũi tiến công chính. Hai mũi tiến công theo hướng đường số 4 và sông Lô, bao vây toàn bộ căn cứ Việt Bắc. Mũi thọc sâu nhảy dù xuống thị xã Bắc Cạn và vùng xung quanh - nơi được coi là “Thủ đô kháng chiến” - để “bắt gọn Chính phủ Hồ Chí Minh”. Sau đó, càn quét tiêu diệt lực lượng kháng chiến và chiếm đóng cả vùng Việt Bắc. Phạm vi chiến dịch đã mở rộng tới 12 tỉnh với những gọng kìm dài ba, bốn trăm ki-lô-mét, hình thành thế bao vây lớn và mũi thọc sâu bất ngờ bằng quân dù vào ngay sau lưng ta.

Sáng 7 - 10 - 1947, địch bắt đầu cho quân nhảy dù xuống Bắc Cạn. Trong hai ngày 7 và 8 tháng 10, gần 2.000 quân địch nhảy dù xuống khu vực Thị xã, Chợ Mới, Chợ Đồn. Sau đó, từ thị xã Bắc Cạn chúng kéo lên chiếm Phủ Thông rồi chiếm đóng huyện lỵ Chợ Rã. Đồng thời, binh đoàn bộ binh thuộc địa theo đường số 4, từ Lạng Sơn lên Cao Bằng, vòng xuống Bắc Cạn, bao vây Việt Bắc ở phía đông và phía bắc.

Binh đoàn hỗn hợp bộ binh thuộc địa và lính thuỷ đánh bộ từ Hà Nội ngược sông Hồng và sông Lô lên Việt Trì, Phú Thọ, Tuyên Quang, Chiêm Hoá, bao vây Việt Bắc ở phía tây.

Địch còn cho một lực lượng quân nhảy dù xuống Thái Nguyên để bao vây Việt Bắc từ phía nam.

Với ưu thế về binh lực và vũ khí, phương tiện chiến tranh, với một kế hoạch hoàn bị và bất ngờ, Bộ chỉ huy chiến tranh thực dân tin chắc vào thắng lợi.

Về ta, yêu cầu chiến lược đặt ra lúc này là phải kiên quyết đánh bại cuộc tiến công chiến lược của địch, bảo vệ vững chắc căn cứ địa kháng chiến của cả nước, tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực và làm thất bại chủ trương “ đánh nhanh, giải quyết nhanh” của địch, buộc chúng phải chấp nhận đánh kéo dài theo đúng ý định chiến lược của ta đưa cuộc kháng chiến của nhân dân ta sang một giai đoạn mới. Để thực hiện yêu cầu, các trận đánh riêng lẻ không thể đảm đương nổi mà tất yếu phải tổ chức chiến dịch. Nhận rõ, lực lượng vũ trang tập trung là lực lượng chủ yếu để tiến hành chiến dịch, song nếu chỉ có bộ đội chủ lực mà không có bộ đội địa phương và dân quân, du kích phát triển cân đối thì nghệ thuật chiến dịch cũng không có điều kiện phát triển và hoàn thành tốt những nhiệm vụ do chiến lược đề ra. Nếu không hình thành được thế trận chiến tranh toàn dân trong chiến dịch, không có các lực lượng vũ trang địa phương tác chiến rộng khắp để phân tán và dàn mỏng lực lượng địch, thì bộ đội chủ lực khó có thể tập trung lực lượng đánh những đòn tiêu diệt địch ở nơi và vào lúc quyết định. Chính vì thế, từ tháng 9 - 1947, Trung ương Đảng đã dự báo về hoạt động quân sự của địch và chỉ thị “Sửa soạn phá những cuộc tấn công lớn của địch". Cả Việt Bắc hình thành thế trận toàn dân rộng khắp, vững chắc. Trong đó, các đơn vị bộ đội chủ lực là lực lượng chủ yếu, phối hợp chặt chẽ cùng lực lượng dân quân, du kích làm nòng cốt cho toàn dân đánh giặc. Cụ thể được bố trí như sau: ở Mặt trận đường số 3 có Trung đoàn 121, Trung đoàn 72, Trung đoàn 165; ở Mặt trận đường số 4 có Trung đoàn 74, Trung đoàn 11; ở Mặt trận sông Lô có Trung đoàn của Khu 10 và một tiểu đoàn chủ lực của Bộ. Các địa phương thành lập Uỷ ban bảo vệ cách mạng và các tổ chức Tỉnh đội, huyện đội, xã đội dân quân. Tính đến giữa năm 1947, hầu hết các xã thuộc Bắc Cạn, Thái Nguyên, Tuyên Quang đã xây dựng được những trung đội, đại đội dân quân, trong đó có cả đại đội nữ dân quân. Có huyện trọng điểm như Bạch Thông [Bắc Cạn] có tới 6 đại đội dân quân1. Địa phương nào cũng tổ chức các đội du kích thoát ly sản xuất. Dân quân, du kích được huy động canh phòng khu căn cứ, các địa bàn trọng điểm, các điểm xung yếu. Hệ thống giao thông liên lạc được tổ chức theo cách báo động dây chuyền xã nối xã, huyện nối huyện.

Nhân dân các địa phương, cả nông thôn và đô thị, theo chỉ thị “Tiêu thổ kháng chiến" của Chính phủ đã tiến hành “vườn không nhà trống”, cất giấu, tích trữ lương thực, thực phẩm, chuẩn bị đánh địch. Tại thị xã Bắc Cạn và vùng xung quanh, đề phòng địch nhảy dù, nhân dân đã cắm chông trên các ruộng, bãi trống trải. Mặc dù đời sống còn túng đói, nhưng trước yêu cầu của cuộc kháng chiến, đồng bào các dân tộc Việt Bắc vẫn hăng hái quyên góp tiền bạc, trâu, bò, lợn, gạo đóng góp cho kháng chiến. Chị em các dân tộc còn khâu túi đựng quân trang, quân dụng ủng hộ bộ đội.

Sáng 7 tháng 10, binh đoàn đổ bộ đường không do Sô-va-nhắc [Sauvagnac] chỉ huy nhảy dù xuống Bắc Cạn. Tối hôm đó, Thường vụ Trung ương Đảng đã điện ra lệnh cho các Khu uỷ, Quân khu uỷ chỉ huy bộ đội đánh mạnh để chia cắt lực lượng địch và phá kế hoạch của chúng. Ngày 8 tháng 10, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư kêu gọi toàn thể đồng bào đoàn kết kháng chiến, ra sức giết giặc. Người phân tích, địch đánh ta tạo ra hai gọng kìm bao vây và hội quân ở Bắc Cạn, tạo cái ô cụp lấy Việt Bắc. Nhưng địch chỉ mạnh ở hai gọng kìm, gọng kìm mà gẫy thì cái ô cụp xuống sẽ thành cái ô rách ...

Ngày 15 - 10 - 1947, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra chỉ thị “Phải phá tan cuộc tấn công mùa đông của giặc Pháp". Chỉ thị nêu rõ: Cuộc tiến công này của địch không tỏ ra chúng mạnh, mà tỏ ra chúng yếu, chỉ ồ ạt lúc đầu. Chúng ta không sợ địch nhưng cũng không được khinh địch. Chỉ thị đề ra nhiệm vụ quân sự cho các chiến trường toàn quốc, trong đó nhấn mạnh phát động chiến tranh du kích ở đồng bằng Bắc Bộ và Trung Bộ, giam chân, bao vây và đột kích các cứ điểm địch, khiến cho địch không thể tập trung quân đánh Việt Bắc; chặt đứt giao thông liên lạc, không cho chúng tiếp ứng và tiếp tế cho nhau; ra sức chế tạo vũ khí thô sơ cấp cho dân quân và các làng chiến đấu; củng cố các căn cứ địa về mọi mặt.

Để thực hiện thắng lợi những nhiệm vụ trên, bản Chỉ thị đặt ra một yêu cầu quan trọng là xây dựng tình đoàn kết giúp đỡ và phối hợp đánh giặc giữa bộ đội, dân quân du kích với nhân dân. Thực hiện lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Chỉ thị của Trung ương Đảng và quyết tâm chiến dịch của Bộ Tổng chỉ huy, quân dân Việt Bắc với khí thế và ý chí quyết chiến, quyết thắng đã đồng loạt đánh địch trên tất cả các hướng tiến công của chúng.

Ở Bắc Cạn, ta có phần bị bất ngờ về chiến thuật của địch, nên gặp một số tổn thất, nhưng khi địch vừa nhảy dù, bộ đội và dân quân du kích đã đổ ra đánh địch. Đoàn cảnh vệ Bắc Cạn, đại đội độc lập huyện Bạch Thông, dân quân du kích Thanh Mai, Yên Đĩnh, Cao Hoà, tự vệ chiến đấu các công binh xưởng C4, C6 toả đi chặn đánh các toán quân địch đi lùng sục, diệt những tên nhảy dù bị lạc, quấy rối các nơi giặc chốt lại. Trung đoàn Vệ quốc quân Cao Bằng bắn rơi tại chỗ máy bay địch, diệt quan năm Lăm-be [Lambert] cùng cơ quan tham mưu chiến dịch của địch. Toàn bộ bản kế hoạch tiến công của giặc Pháp rơi vào tay ta. Quân Pháp tuy chiếm được thị xã và một số huyện lỵ ở Bắc Cạn nhưng không đạt được mục tiêu “bắt gọn” Chính phủ Hồ Chí Minh, diệt quân chủ lực Việt Minh, lại bị tiêu hao nặng nề và bị bao vây, cô lập giữa núi rừng trùng điệp trong khu căn cứ kháng chiến.

Trên Mặt trận đường số 4, binh đoàn bộ binh thuộc địa do Bô-phơ-rê [Beaufré] chỉ huy từ Lạng Sơn tiến lên Cao Bằng, đã bị các đơn vị bộ đội chủ lực phối hợp cùng dân quân du kích địa phương phục kích, tập kích đánh địch trên suốt đường hành quân của chúng, diệt hàng trăm tên, phá huỷ nhiều xe quân sự. Đường số 4 trở thành “con đường máu” của giặc Pháp.

Trên Mặt trận Sông Lô, binh đoàn hỗn hợp bộ binh thuộc địa và lính thuỷ đánh bộ do Com-muy-nan [Commuynan] chỉ huy, ngược sông Hồng, sông Lô tiến quân cũng bị bộ đội cùng dân quân, du kích phục kích, gây cho chúng thất bại nặng nề. Ta bắn chìm tàu chiến địchở bến Bình Ca, Đoan Hùng, Khe Lau và đánh bộ binh địch trên bờ, cắt đứt đường tiếp tế của địch từ Hà Nội lên. Gọng kìm Sông Lô của chúng bị bẻ gãy.

Trên trục đường số 3, các đơn vị chủ lực đã phối hợp với tự vệ quân giới và dân quân địa phương tập kích nhiều vị trí đóng quân của địch, diệt hàng trăm tên. Đường tiếp viện của địch từ Cao Bằng xuống Bắc Cạn bị cắt đứt.

Chiến dịch Việt Bắc- Thu Đông 1947 diễn ra và giành thắng lợi trong thời gian tương đối ngắn trong cuộc kháng chiến trường kỳ, đã khẳng định đường lối chiến tranh nhân dân đúng đắn, cùng nghệ thuật quân sự đặc sắc của Đảng ta, trong đó nổi bật là nghệ thuật xây dựng, tạo lập thế trận toàn dân đánh giặc rộng khắp, vững chắc ngay từ đầu và suốt quá trình chiến tranh. Thế trận đó, đã tạo điều kiện có lợi cho các mặt trận và các lực lượng: cả bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân, du kích đều phát huy cao nhất khả năng tác chiến, phối hợp chặt chẽ với nhau để đánh địch, hoàn thành mục tiêu, nhiệm vụ chiến dịch. Chiến dịch cũng đã khơi dậy vai trò to lớn của nhân dân. Nhân dân không chỉ trực tiếp đánh giặc mà còn phục vụ chiến đấu hiệu quả, góp hàng chục vạn ngày công phá đường, dựng vật chướng ngại ngăn cản bước tiến công của địch. Kết quả, trong chiến dịch, ta đã diệt, làm bị thương và bắt trên 7000 tên , bắn chìm 38 ca nô, 16 tàu chiến, hạ nhiều máy bay địch. Việt Bắc trở thành “mồ chôn giặc Pháp”.

Chiến dịch Việt Bắc Thu - Đông 1947 là chiến dịch phản công lớn đầu tiên của quân và dân ta trong kháng chiến chống Pháp, giành thắng lợi to lớn. Đây là mốc khởi đầu sự thay đổi trong tương quan lực lượng giữa ta và địch, làm phá sản hoàn toàn chiến lược “đánh nhanh, giải quyết nhanh” của thực dân Pháp, đưa cuộc kháng chiến của nhân dân ta bước sang giai đoạn mới. Có được thắng lợi to lớn đó [trong điều kiện tương quan lực lượng quân sự bất lợi cho ta], điều căn bản là do Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lãnh đạo quân và dân ta xây dựng được thế trận toàn dân đánh giặc trên nền tảng vững chắc của cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện, để triệt phá thế trận áp đảo về quân sự của địch. Đây cũng là một bài học thắng lợi được vận dụng trong suốt hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ xâm lược, giành lại độc lập, tự do cho đất nước. Kỷ niệm 60 năm chiến thắng Việt Bắc- Thu Đông 1947, bài học về xây dựng thế trận chiến tranh toàn dân vẫn tiếp tục soi sáng sự nghiệp xây dựng, củng cố nền quốc phòng toàn dân, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN hiện nay.

Đại tá, PGS , TS. Vũ Như Khôi

Viện Khoa học Xã hội và Nhân văn quân sự

Video liên quan

Chủ Đề