Thế nào là truyện dân gian Bình Phước

Từ lâu đời, núi Bà Rá nằm trên địa bàn thị xã Phước Long không chỉ là danh lam thắng cảnh nổi tiếng mà còn là một ngọn núi linh thiêng, liên quan đến tâm linh, cội nguồn lịch sử, văn hóa của người S’tiêng. Yếu tố văn hóa, tâm linh, huyền thoại được gắn liền với các sự kiện đã hình thành nên quần thể văn hóa - tâm linh liên quan đến ngọn núi nổi tiếng này trong dân gian. Vì vậy, núi Bà Rá đã gắn liền với đời sống văn hóa tinh thần, trung tâm câu chuyện huyền thoại về vị thần đã có công trong việc hình thành và bảo vệ núi Bà Rá.

Từ năm 1998 đến nay, tôi đã viết khá nhiều bài về truyền thuyết núi Bà Rá. Gần đây nhất vào năm 2018, tôi có bài viết "Ai là nhân vật liên quan đến quần thể văn hóa - tâm linh núi Bà Rá?", đăng trên Tạp chí Khoa học thời đại tỉnh Bình Phước, ISSN 1859-3747, số 41, ngày 6-2-2018, tr.70-71. Trong bài viết đã nhắc đến vị thần khổng lồ [Yau Nhưt] và hai người em gái của vị thần [Mi Jiêng và Mi Lơm] sinh hoạt trên núi Bà Rá. Vấn đề cần trao đổi, ai là [nữ thần] nhân vật đang được thờ trong miếu Bà hiện nay.

Theo tác giả Lưu Ty, ngày xưa có một ông tiên tên là Giang [viết theo chữ S’tiêng là Yang đúng hơn] trấn thủ vùng này từ vùng rừng núi Tây Ninh đến Phước Long, chạy sát biên giới Miên. Vị tiên này có hai người em gái, người chị tên là Lơm và người em là Giêng [viết Jiêng đúng hơn]. Mỗi người có một sở thích và cá tính khác nhau. Bà Lơm thích tu hành, thích lập chùa để cúng bái. Bà Giêng thích ở một mình nơi thanh vắng. Trước hai sở thích ấy, người anh đã chiều và đắp cho mỗi người một quả núi để ở. Bà Lơm là chị thích tu hành và nơi đông người nên ở tại núi Bà Đen [Tây Ninh]. Còn Bà Giêng thì ở núi Bà Rá, Phước Long [Lưu Ty, 1972, tr. 42-43].


Địa bàn cư trú của người S’tiêng theo truyền thuyết vào đầu thế kỷ XX [theo tác giả Barthélémy M.D trong "Au pay Mois" Paris Plon-Noutit 1904] - nguồn: Mạc Đường, 1985, Vấn đề dân tộc ở Sông Bé, tr.15

Tác giả Cửu Long và Toan Ánh [Cao Nguyên Miền Thượng, 1974, tr.553] cũng cho rằng ông Giang có hai người em gái tên là Lơm và Giêng. Hai chị em có nếp sống khác nhau. Bà Lơm mê tu hành, lập chùa chiền cúng vái, bà Giêng thích một mình ở nơi thanh tịnh vắng vẻ. Trước hai sở thích đó, ông tiên mới đắp cho mỗi người một trái núi ở hai nơi cách xa. Bà Lơm là chị ở núi Bà Đen [Tây Ninh], con bà Giêng là em ở núi Bà Rá [Phước Long].

Mạc Đường [Vấn đề dân tộc ở Sông Bé, 1985, tr.15] cho rằng: "Vị tổ người S’tiêng có hai người em gái, ông ta đắp núi Bà Đen và Bà Rá cho hai em ở. Cô gái đầu làm chủ vùng núi Bà Đen, cô em gái thứ hai làm chủ núi Bà Rá". Như vậy, theo các tác giả này thì cô em [Giêng] là nữ thần ngự trị trên núi Bà Rá và đang được thờ trong miếu Bà.

Có người cho rằng, Bà Đen, Bà Rá và Bà Chúa Xứ [ở An Giang] là ba chị em. Theo kết quả nghiên cứu giả thiết này không có cơ sở. Về mặt không gian văn hóa và tâm linh không có liên quan. Ngọn núi ở An Giang không có mối quan hệ với ngọn núi Bà Đen và Bà Rá [các núi ở An Giang nằm trong dãy núi “Đậu Khấu” bắt nguồn từ biên giới Thái Lan].

Xuôi theo dòng truyền thuyết của người S’tiêng, địa bàn cư trú của người S’tiêng trải dài từ núi vùng Bà Rá, tỉnh Bình Phước đến núi Bà Đen thuộc tỉnh Tây Ninh. S’tiêng [Sơdiêng hay Sdiêng] Yau Nhưt [một vị thần khổng lồ] đã xây dựng nên núi Bà Rá và Bà Đen. Yau Nhưt có hai người em gái rất xinh đẹp tên là Mi Jiêng và Mi Lơm [Mi tức là cô, nàng] rất giỏi dệt thổ cẩm [tảng đá lớn giữa chân núi Bà Rá nơi có đường cáp treo đi qua chính là nơi hai em gái vị thần ngồi dệt thổ cẩm]. Yau Nhưt đã đổ 7 gùi đất [gùi cũ] để đắp nên núi Bà Rá [poh Săh Tu]. Trước khi đắp núi Bà Rá, Yau Nhưt đã đổ một gùi đất tại khu vực ở cuối thôn 7, xã Long Giang, thị xã Phước Long ngày nay, người S’tiêng gọi núi đó là Bơnâm con Brăh, nghĩa là “núi con thần” hay còn gọi là Bơnâm Săh Tu [núi gùi cũ: đất đựng trong gùi cũ; núi mọc bên suối Săh Tu].

Lý do vị thần Yau Nhưt thay đổi địa điểm [không chọn suối Săh Tu] là khi vị thần đo khoảng cách từ núi Bà Đen đến núi Bà Rá không đủ 7 cây gậy [poh toong bơr nos - cây gậy của vị thần dùng để thụt canh]. Trong đời sống tín ngưỡng dân gian của người S’tiêng, 7 là con số may mắn, con số tâm linh. Phải chăng, vì lý do đó mà vị thần khi xây dựng núi Bà Rá đã đổ hết 7 gùi đất, chọn kích thước “7 cây gậy” để làm khoảng cách từ núi Bà Đen đến núi Bà Rá.

Người S’tiêng Bu Dêh [vùng Bình Long, Hớn Quản] thì cho rằng: Ngày xưa vốn chỉ có một núi Bà Rá, nhưng do hai chị em tranh nhau lấy chồng. Người em gái xinh đẹp hơn nên được người đời quý mến hơn, người chị ghen tức và đuổi người em đi. Người em ra đi chỉ mang theo một gùi đất, dọc đường người em dừng chân tại xã Phước An, huyện Hớn Quản, đất bị rơi rớt tạo thành Bnâm Roh [Núi Gió ngày nay]. Người chị lấy cây gậy đo khoảng cách từ núi Bà Rá đến nơi ấy thấy vẫn gần, người chị lại tiếp tục đuổi em đi. Người em đi mãi đến tận Tây Ninh và dựng núi Bà Đen.

Theo câu chuyện này [tác giả đi khảo sát tại xã An Khương năm 1999] thì cô Lơm là chị ở núi Bà Rá, cô em là Jiêng ở núi Bà Đen. Dù là truyền thuyết nửa người nửa thần, dù là chị hay em đang ngự trị trên núi Bà Rá, việc xây dựng công trình miếu Bà có ý nghĩa, giá trị quan trọng về mặt lịch sử, văn hóa và tâm linh [trong đó có công của những người bị tù đày tại Bà Rá trong thời kỳ chống thực dân Pháp]. Trước khi người S’tiêng theo đạo, trong các sự kiện nghi lễ tín ngưỡng truyền thống, người S’tiêng luôn khấn mời các vị thần trong vùng như: thần Sông Bé, Thác Mơ, Thác Mẹ và không thể quên thần núi Bà Rá. Trong cuộc sống, người S’tiêng thường kể về sự giỏi giang của hai nữ thần để giáo dục con cái [hai nữ thần rất giỏi dệt vải]. Trong hôn nhân, những cô gái chảnh chọe thường bị cha mẹ mắng bằng câu "ay klanh y bêi Mi Jiêng, Mi Lơm” [con nghĩ mình đẹp như cô Jiêng, cô Lơm chắc]. Hoặc những người con trai kén vợ cũng bị cha mẹ mắng bằng câu "nar kơi may pơs sai klanh ur y bêi Mi Jiêng, Mi Lơm" [mai mốt xem con cưới vợ có đẹp như cô Jiêng, cô Lơm không?]. Có thể thấy, ngoài yếu tố tâm linh, hình ảnh hai nữ thần đã in sâu vào tiềm thức của cộng đồng người S’tiêng.

Để phát huy tốt giá trị lịch sử, văn hóa và tâm linh của núi Bà Rá nói chung và miếu Bà nói riêng, chính quyền địa phương, ngành chức năng, những người quản lý miếu Bà nên phối hợp với các nhà khoa học, trí thức, già làng người S’tiêng, sở, ngành liên quan của tỉnh Tây Ninh tổ chức hội thảo khoa học. Qua đó trao đổi, giới thiệu đầy đủ hơn về ý nghĩa lịch sử, văn hóa và tâm linh của miếu Bà [Bà Rá], mối liên hệ giữa hai nữ thần [núi Bà Đen và núi Bà Rá] để tránh những cách hiểu không thống nhất, thúc đẩy phát triển du lịch văn hóa tâm linh, góp phần phát triển kinh tế - xã hội của Bình Phước nói chung và Phước Long nói riêng.

Ăn quả nhớ kẻ trồng cây
Ăn khoai nhớ kẻ cho dây mà trồng

Huyện Sử [Thới Bình – Cà Mau], một trong những địa danh được phản ánh trong truyện dân gian về địa danh thể hiện lòng biết ơn các bậc tiền nhân.
Ảnh: Bến đò Huyện Sử. Nguồn: baoanhdatmui.vn

Hai câu ca dao quen thuộc đó nói lên truyền thống tốt đẹp và quý báu của dân tộc Việt Nam nhắc nhở tinh thần “uống nước nhớ nguồn”. Với người dân vùng châu thổ Cửu Long, tình cảm ấy lại còn đặc biệt mang đặc trưng vùng đất con người miền Tây. Một trong những biểu hiện của tình cảm cao đẹp ấy là người dân đã lấy tên các bậc tiền hiền để đặt tên xóm tên làng mà họ đã có công gầy dựng. Cách đặt địa danh như thế mang ý nghĩa nhân văn và giáo dục thật lớn lao. Bên cạnh đó, sự biết ơn còn thể hiện trong nhiều truyện dân gian lưu truyền từ đời này sang đời khác.

Trong mảng truyện dân gian có truyện về địa danh ở Đồng bằng sông Cửu Long [ĐBSCL] phản ánh tâm tư, tình cảm và cảm thức thẩm mỹ của người dân ĐBSCL về vùng đất mà họ sinh sống, phản ánh đời sống của người dân vùng đất mới. Truyện dân gian địa danh có nhiều truyện mang nội dung ca ngợi những bậc tiền nhân đã khai phá, kiến tạo quê hương. Thí dụ như trong quyển “Văn học dân gian Bạc Liêu” có 8 truyện mang nội dung ca ngợi tiền nhân đã có công gầy dựng xóm làng trong tổng số 24 truyện dân gian về địa danh. Trong quyển “Nghìn năm bia miệng” [2 tập] có 11/31 truyện địa danh ca ngợi tiền nhân. Qua đó, đủ hiểu tình cảm tri ân của người dân vùng ĐBSCL dành cho các bậc tiền hiền rất lớn lao. ĐBSCL có nhiều địa danh lấy tên nhân vật hoặc sự kiện có liên quan đến nhân vật ấy. Ví dụ: Ngã ba Ông Trạch, chợ Phó Sinh, rạch Bà Cường, quẹo Bà Muồng, rạch Mồ Thị Cư, cầu Hương Lễ,...

Các bậc tiền nhân - những con người đầu tiên đặt chân đến vùng đất này đã gặp và vượt biết bao khó khăn, gian khổ để cải tạo thiên nhiên để dung thân. Trong hoàn cảnh “thân cô thế cô”, giữa “rừng vây tứ hướng cọp gầm bốn phương”, cha ông ta vẫn bền bỉ, gan góc chịu đựng để đặt nền móng cuộc sống mới. Những đoàn người sau đến tiếp thu đất rộng nước trong thì luôn ghi ân trong dạ người đi trước. “Lai lịch địa danh Huyện Sử” là một điển hình. Vào khoảng những năm đầu của thế kỷ XX, vùng đất Huyện Sử [Thới Bình - Cà Mau] còn là một vùng hoang vu. Cây cỏ, rừng rậm mọc um tùm, rắn rết và cọp rằn nhiều vô số kể. Ông Lê Văn Sử, tương truyền là một quan huyện xứ Sài Gòn- Gia Định. Từ những năm 1920, nhận thấy vùng đất này có triển vọng nên ông Huyện Sử bèn đưa người, đưa tiền ra xuống đây khai hoang. Thổ nhưỡng, khí hậu ở đây rất hiền hòa, cây lúa, cây mía trồng xuống đều trúng đậm. Ông Huyện Sử chiêu mộ bà con ở trên miệt Bến Bàu, Bàu Ráng, Vịnh Chèo, Bãi Giá xuống, tiếp tục khai hoang, mở rộng diện tích lập nghiệp. Khi dân cư đã đông đúc, ông Huyện Sử bỏ tiền xây dựng chợ và nhà thờ. Đến năm 1945, ông Huyện Sử về Sài Gòn. Người ta không rõ ông mất hồi nào và yên nghỉ ở đâu, chỉ biết mộ phần của bà Trương Thị Giang [vợ ông Huyện Sử] và bà thân ông Huyện hiện đang còn tại Đất thánh nhà thờ Huyện Sử. Nhớ ơn người khai phá, bà con nơi đây đặt tên cho vùng đất này là Huyện Sử. Gắn liền đó là chợ Huyện Sử và nhà thờ Huyện Sử. Hay như “Sự tích ngã ba Ông Trạch” kể rằng: Cách đây hơn thế kỷ, vùng đất Phước Long [Bạc Liêu] còn rất hoang vu, trũng thấp. Có một đoàn người chọn vùng đất này làm điểm dừng chân. Trong đoàn di dân này có gia đình ông Nguyễn Văn Trạch, một gia đình khá giả từng tham gia phong trào nghĩa quân. Ông Trạch làm nhiều chuyện giúp ích cho bà con. Đặc biệt, “ngoài việc giết cọp dữ trừ họa cho người nhà và dân làng, ông Trạch còn săn bắt được nhiều thú rừng tạo thêm thu nhập cho gia đình. Và để tưởng nhớ công ơn khai mở vùng đất mới và diệt trừ thú dữ bảo vệ dân làng của gia đình ông Trạch, bà con nơi đây đặt tên cho một ngã ba đường trong vùng là ngã ba Ông Trạch” [Văn học dân gian Bạc Liêu, trang 14].

Nhìn chung, truyện dân gian về địa danh ở ĐBSCL thường hướng về các bậc tiền nhân đã gầy dựng ban đầu với tấm lòng tri ân sâu sắc. Lòng biết ơn ấy là biểu hiện của tinh thần “Cây cội nước nguồn”, hướng về tiên tổ và những người đã kinh qua bao gian khổ để khai phá, cải tạo môi trường sống tốt đẹp hơn cho thế hệ tiếp sau.

Mảng thứ hai trong nội dung ca ngợi công đức của các bậc tiền nhân thời mở đất là truyện vinh danh những người đã đem công sức, của cải thậm chí là mạng sống của mình để bảo vệ sự bình yên cho đồng bào, làng xóm. Các truyện này có bối cảnh là các xóm làng gặp tai ương, bất trắc... Khi đó, xuất hiện những con người hào hiệp dám xả thân bảo vệ bà con. Tiêu biểu cho mảng nội dung này có các truyện: Sự tích rạch Cái Rắn, Rạch Mồ Thị Cư, Sự tích miếu Ông Cù, Cầu Hương Lễ,... Nhân vật chính vị nghĩa vong thân, sống tình nghĩa nên nhân dân mãi nhắc nhớ về họ bằng cách đặt tên họ cho xóm, cho quê của mình. Đó là một ông Hương Lễ hay làm phước: thấy cây cầu gập ghềnh, chật hẹp là ông liền bỏ tiền xây cầu mới; thấy con đường làng sình lầy ông cho đắp con đường mới, mua đá xanh lót từng phiến dài; phía trong sở ruộng của ông, ông đào một cái ao rộng hơn nửa mẫu chứa nước ngọt cho dân chúng dùng,... Trước khi qua đời, ông căn dặn người nhà không được ma chay linh đình, lấy tiền mà làm việc thiện. Người ta đặt cho một trong những chiếc cầu mà ông xây dựng là cầu Hương Lễ [“Cầu Hương Lễ”]. Hay chuyện một bà thầy thuốc hết lòng vì người bệnh: dẫu có xa xôi, tối tăm đến mấy bà cũng sẵn lòng đi chữa, tuyệt nhiên không lấy một đồng nào. Khi bà mất người ta gọi cái đìa cạnh nhà bà là đìa Bà Thầy để nhớ người thầy thuốc hết lòng [“Sự tích đìa Bà Thầy”]. Mảng nội dung này còn có những câu chuyện thật bi tráng: nghe tin dân làng Phú Nhuận [Cai Lậy- Tiền Giang] bị nạn rắn dữ hoành hành một ông thầy rắn phương xa đã lặn lội về ra tay cứu giúp và chết vì rắn cắn. Lòng nghĩa khí ấy mãi được nhân dân làng Phú Nhuận khắc ghi bằng tên con rạch Cái Rắn [“Sự tích rạch Cái Rắn”]; hay cô Cư - một cô gái đang tuổi xuân xanh - đã can trường đấu với chúa cọp để đổi lấy sự bình yên cho gia đình và làng xóm. Sau trận tử chiến đó cô đã hy sinh [“Sự tích rạch Mồ Thị Cư”]... Mảng nội dung này còn đánh dấu một bước ngoặt trong quá trình khai hoang lập ấp ở ĐBSCL của các bậc tiền nhân: đó là quá trình khắc phục và chế ngự thiên nhiên để tìm cuộc sống bình yên.

Ngày nay, các địa danh này có nơi không trở thành địa danh hành chính, nhưng nó mãi được nhân dân sử dụng như một thói quen thể hiện tấm lòng thơm thảo với tiền nhân.

Đặng Duy Khôi

Sách tham khảo và trích dẫn:

1. Văn học dân gian Bạc Liêu, Chu Xuân Diên [chủ biên], NXB Văn nghệ thành phố Hồ Chí Minh, 2005 2. Giai thoại dân gian Đồng Tháp Mười, Nguyễn Hữu Hiếu, NXB Đồng Tháp, 1988. 3. Nam kì cố sự, Nguyễn Hữu Hiếu, NXB Đồng Tháp, 1997. 4. Nghìn năm bia miệng [2 tập], Huỳnh Ngọc Trảng, Trương Ngọc Tường, NXB TP Hồ Chí Minh, 1999.

Video liên quan

Chủ Đề