Tên hiệu của nguyễn công trứ là gì

Họ Nguyễn chúng ta vô cùng tự hào vì đã sinh ra một người con kiệt xuất cho đất nước. Đó là Nguyễn Công Trứ. Ông là người văn võ song toàn, không những giỏi về quân sự, ông còn nổi tiếng về mặt kinh tế, mà tiếng thơm còn lưu mãi muôn đời, đặc biệt ông còn là một nhà thơ có vị trí đáng kể trong văn học Việt Nam.

Khái quát về cuộc đời và sự nghiệp [ 1]

Nguyễn Công Trứ tên tục là Củng, tự là Tồn Chất, hiệu là Ngộ Trai, biệt hiệu là Hy Văn, sinh ngày 01 tháng 11 năm Mậu Tuất, niên hiệu Cảnh Hưng thứ 39, tức ngày 19 tháng 12 năm 1778; người làng Uy Viễn, nay là xã Xuân Giang, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh.

Cha là Nguyễn Công Tấn, đậu cử nhân năm hai mươi bốn tuổi, làm giáo thụ phủ Anh Sơn, Nghệ An, sau thăng làm tri huyện Quỳnh Côi, rồi tri phủ Tiên Hưng, Thái Bình. Khi quân đội Tây Sơn ra Bắc chiếm Thăng Long, Nguyễn Công Tấn xướng nghĩa cần vương chống lại, không thành, ông đưa gia đình về quê mở trường dạy học. Nguyễn Huệ mấy lần mời ra làm quan, ông đều từ chối.

 

Mẹ Nguyễn Công Trứ là con gái quan quản Nội thị Cảnh Nhạc bá, họ Nguyễn, người xã Phụng Dực, huyện Thượng Phúc, tỉnh Sơn Nam [nay thuộc Hà Nội]. Gia đình Nguyễn Công Trứ có sáu anh em, ba trai, ba gái, có một bà rất thông minh, giỏi thơ văn, người đương thời gọi là Năng văn nữ sĩ. Năm mười chín tuổi, chồng chết, bà nhất định không chịu tái giá, bỏ nhà đi tu, được Minh Mệnh ban cho danh hiệu “Trinh tiết khả phong”.

Nguyễn Công Trứ từ bé đã sống trong cảnh nghèo khổ. Khi nhà Nguyễn đang tích cực củng cố địa vị thống trị của mình, xã hội có vẻ ổn định, Nguyễn Công trứ hăm hở đi học đi thi. Năm 1819, ông thi đậu Giải nguyên và được bổ đi làm quan. Bấy giờ ông đã bốn mươi mốt tuổi. [Giải nguyên là người đỗ đầu kỳ thi hương, nghĩa là lúc đó Nguyễn Công Trứ thi đậu Hương Cống và từ năm 1828 trở đi Hương Cống đổi tên gọi là Cử Nhân].

Năm 1820 Nguyễn Công Trứ giữ chức Hành tẩu ở Quốc sử quán. Sau đó ông liên tiếp giữ các chức Tri huyện Đường Hào, Hải Dương [1823], Tư nghiệp Quốc tử Giám [năm 1824], Phủ thừa phủ Thừa Thiên [1825], Tham tán quân vụ, rồi thăng Thị lang Bộ hình [năm 1826]. Năm 1828, ông được thăng Hữu tham tri Bộ hình, sung chức Dinh điền sứ, chuyên coi việc khai khẩn đất hoang. Năm 1832, ông được bổ chức Bố Chánh sứ Hải Dương, cùng năm thăng Tham tri Bộ binh, giữ chức Tổng đốc tỉnh Hải An... Sau nhiều thăng giáng, năm 1845 Nguyễn Công Trứ làm Chủ sự Bộ hình, năm sau làm quyền Án sát Quảng Ngãi, rồi đổi ra làm Phủ thừa Phủ Thừa thiên, rồi năm 1847 ông thăng làm Phủ doãn phủ ấy. Cũng năm này, ông tròn bảy mươi tuổi ta, Nguyễn Công Trứ xin về hưu, nhưng Thiệu Trị không cho. Năm 1848, Tự Đức nguyên niên, ông được về hưu hẳn.

Trong một câu đối làm khoảng cuối đời, Nguyễn Công Trứ tổng kết cuộc đời mình: “Cũng may thay công đăng hoả có là bao, theo đòi nhờ phận lại nhờ duyên, quan trong năm bảy thứ, quan ngoài tám hoa gươm bạc, nào võng tía dù xanh, mặt tài tình trong hội kiếm cung, khắp trời Nam bể Bắc cũng tung hoành, mùi thế trải qua ngần ấy đủ; Thôi quyết hẳn cuộc phong trần chi nữa tá, ngất ngưởng chẳng tiên mà chẳng tục, hầu gái một vài cô, hầu trai năm bảy cậu, này cờ này kiệu, này rượu này thơ, này đàn ngọt hát hay, này chè chuyên chén mẫu, tay thao lược ngoài vòng cương toả, lấy gió

mát trăng trong làm tri thức, tuổi trời ít nữa ấy là hơn”.

Cuộc đời Nguyễn Công Trứ là cuộc đời của một người say mê hoạt động. Lúc nào trong tâm khảm nhà thơ cũng hằn lên một câu hỏi lớn:

“Đã mang tiếng ở trong trời đất, Phải có danh gì với núi sông”.

Năm 1803, khi còn là thư sinh, Nguyễn Công Trứ đã dâng lên nhà vua Gia Long bản

“Thái Bình thập sách”, một cương lĩnh trị nước:

“Giữ lòng trung ái, Chăm đạo dâu con, Phát triển nông trang, Trừ bỏ dị đoan,

 

Sửa đổi phong tục, Thanh thải tham tàn, Tiến cử tài đức,

Giữ nghiêm luật lệ”.

Về sau, khi đỗ đạt, ra làm quan, “đem quách cả sở tồn làm sở dụng”, Nguyễn Công

Trứ lao vào công việc một cách hăng say, không hề quản ngại gian lao, vất vả.

Về mặt quân sự

Nguyễn Công Trứ là một quan văn. Chính trong thời kỳ đó, ông đã bộc lộ tài cầm quân làm tướng của mình. Như ta biết, dưới triều vua Gia Long và Minh Mạng, người nông dân phải chịu đựng nhiều chính sách hà khắc của nhà Nguyễn. Vì vậy, các phong trào khởi nghĩa của nông dân đã nổi lên nhiều nơi. Tuân lệnh của nhà vua, Nguyễn Công Trứ đã cầm quân đi dẹp các cuộc khởi nghĩa. Tài năng quân sự của ông được thể hiện như là một sự bẩm sinh, đánh đâu thắng đó. Năm 1827 dẹp khởi nghĩa Phan Bá Vành ở Nam Định, năm 1833 dẹp khởi nghĩa Nông Văn Vân ở Tuyên Quang, của Lê Duy Phương ở Thanh Hóa; năm 1835, dẹp giặc Khách ở Quảng Yên…Trong cuộc chiến tranh Việt-Xiêm [1841-1845], ông cũng là người trực tiếp đóng góp nhiều công sức. Năm tám mươi tuổi [1858], khi nghe tin Pháp đánh Đà Nẵng, ông đã dâng sớ lên vua, tha thiết được tòng quân đánh giặc. Ông viết: “Dù tôi như cái màn, cái lọng rách, cũng không nỡ tự nản chí. Còn chút hơi thở nào xin lên đường ngay”. Tấm long yêu nước và việc làm của ông thật cảm động. Ông là tấm gương trong sang tuyệt trần để con cháu mãi mãi noi theo,

Về kinh tế

Ngày nay, huyện Tiền Hải thuộc tỉnh Thái Bình,   rộng 226 km2, có diện tích đứng hàng thứ hai trong tỉnh, dân số 209.000 người; huyện Kim Sơn thuộc tỉnh Ninh Bình rộng 207 km2, có diện tích đứng hang đầu trong tỉnh, dân số 172.400 người. Nơi đây, đất đai màu mỡ phì nhiêu, dân cư đông đúc, đời sống người dân bình yên  no đủ sung túc. Hai khu vực ven biển này đã được UNESCO công nhận là khu dự trữ sinh quyển thế giới. Có lẽ bất cứ người dân nào nơi đây và đa số người dân trong cả nước đều biết và không thể quên được công lao vô cùng to lớn ban đầu thuộc về Nguyễn Công Trứ người đã có công lập nên hai huyện Tiền Hải  và huyện Kim Sơn ngày nay.. Thời gian đi dẹp các cuộc khởi nghĩa, ông có dịp gần thực tế và hiểu ra rằng: Một trong những nguyên nhân chính nổ ra các cuộc khởi nghĩa của nông dân là vì đời sống của họ quá nghèo khổ và không có ruộng cày. Trong khi đó, vùng đất bãi bồi ven biển mênh mông hàng trăm nghìn mẫu do hai con sông Hồng và sông Trà Lý bồi đắp nên, lại bỏ hoang hóa, chỉ có lau sậy và sú vẹt mọc. Chính đây là nơi qua lại của đám hải tặc và là căn cứ của cuộc khởi nghĩa nông dân Phan Bá Vành. Khai khẩn vùng đất này thành đất trồng trọt và xây dựng các làng ấp dân cư, là một mũi tên trúng nhiều đích, giải quyết cơ bản người cày có ruộng làm yên lòng dân, và do đó giải quyết tận gốc rễ các cuộc khởi nghĩa của nông dân, giúp triều đình ổn định tình hình chính trị đất nước vùng châu thổ sông Hồng. Đó là ý tưởng lớn vừa mang tính thực tiễn vừa mang tầm chiến lược của Nguyễn Công Trứ. Tìm hiểu, ông biết rằng, người dân nơi đây không đủ điều kiện về

 

sức lực và tiền của để khai khẩn vùng đất này. Nguyễn Công Trứ đã dâng bản điều trần có tên “Khẩn ruộng hoang để yên nghiệp dân nghèo” lên vua Minh Mạng. Với những lập luận có sức thuyết phục cao, vua Minh Mạng đã chuẩn y sáng kiến của ông và quyết định phong chức mới cho Tả Thị lang Hình bộ Nguyễn Công Trứ là Dinh điền sứ để thực thi công việc quan trọng đó. Với lực lượng ban đầu triều đình cấp cho ông: một viên Tư vụ, 10 người bát cửu phẩm và một vị nhập lưu thư lại đi theo để sai phái cùng với 7.000 quan tiền, 500 phương gạo, hỗ trợ luồng tre để làm nhà. Với một lực lượng con người và tiền của ít ỏi như vậy, nếu không có đầu óc tổ chức và chỉ huy tuyệt vời của Nguyễn Công Trứ thì dự án khai hoang đắp đê lấn biển khó mà trở thành hiện thực. Ngay trong dự án và trên thực tế, ông đã nhìn thấy và sử dụng một lưc lượng lao động đa dạng bao gồm: Những người địa phương giàu có, những người đồng hương với ông [Nghệ-Tĩnh], những thầy đồ uy tín; nông dân vùng châu thổ sông Hồng không có ruộng đất; đặc biệt là mạnh dạn quyết đoán sử dụng dân du đãng và những người tham gia khởi nghĩa của Phan Bá Vành. Ngẫm kỹ ta mới thấy, ông là con người có tính nhân đạo cao cả, có sức thuyết phục cao và nhìn thấy bản chất tốt đẹp vốn có của người nông dân dù họ bị xã hội xô đẩy thành dân du đảng hay tham gia các cuộc khởi nghĩa chống lại triều đình. Các chính sách khai hoang được ông đưa ra áp dung phù hợp và khuyến khích người lao động: “Mộ được 50 người thì lập làm một lý, cho làm lý trưởng, mộ được 30 người thì lập làm một ấp, cho làm ấp trưởng đều tính chia đất cho. Cấp cho tiền công để làm nhà cửa, mua trâu, bò, nông cụ, lại cấp cho tiền gạo, lương tháng, hạn trong 6 tháng. Ngoài hạn ấy thì làm lấy mà ăn, ba năm thành ruộng, đều chiếu lệ tư điền mà đánh thuế…” Số vốn triều đình cấp không đủ, ông đã có sang kiến huy động thêm nguồn vốn đóng góp của lực lượng chiêu mộ. Nhận thấy lợi ích lâu dài và có hiệu quả, những lực lượng chiêu mộ này đã nghe theo lời kêu gọi của ông, sẵn sàng đóng góp tiền của, sức lực, chiêu mộ thêm nông dân tới đây khai hoang. Ngẫm kỹ mới thấy tầm nhìn và cách làm của ông thời ấy thật hiện đại. Ngày nay, ta vẫn gọi cách làm đó là Nhà nước và Nhân dân cùng làm. Điều mà Nguyễn Công Trứ  đã làm trước hàng thế kỷ.Với đầu óc tổ chức chỉ huy quản lý của một doanh điền tài năng, với việc tập họp thu hút một lực lượng đông đảo và đa dạng, với chính sách phù hợp khuyến khích người lao động, công cuộc khẩn hoang, đắp đê lấn biển, thau chua, ngăn mặn, đào sông, kênh rạch được triển khai nhanh chóng và đạt được kết quả mỹ mãn ngoài cả sự mong đợi.

Chỉ trong thời gian sau 7 tháng, ông đã thành lập một huyện mới là huyện Tiền

Hải vào năm 1828, có số dân đinh hơn 2.350 người, với số ruộng khai hoang được hơn

18.970 mẫu.

Tháng 3 năm Kỷ Sửu [1829], sau 5 tháng khẩn hoang, Nguyễn Công Trứ đã lập huyện Kim Sơn với hơn 1.260 dân đinh và diện tích khẩn hoang hơn 14,260 mẫu. Với đầu óc khoa học của một nhà quy hoạch, không những ông đã tổ chức, sắp xếp các ấp, các lý, các tổng một cách hợp lý, ổn định dân cư, mà còn cho xây dựng các nhà học [trường học], xã thương [chợ] ở các vùng nông thôn này, cũng như các vùng nông thôn khác, nhằm nâng cao dân trí và lưu thong háng hóa. Thành tựu khai hoang lấn biển không chỉ góp phần làm tăng diện tích canh tác của đất nước, mà còn góp phần không nhỏ vào việc

 

ổn định tình hình chính trị nông thôn vùng châu thổ sông Hồng. Phải là người có tư tưởng lớn, có tầm nhìn chiến lược, tài tổ chức và sức thu hút vận động nông dân, mới thực hiên được công cuộc vĩ đại đó. Công lao ấy, trước hết thuộc về Nguyễn Công Trứ, không những được triều Nguyễn công nhận, mà quan trọng hơn hết là  hình ảnh và công lao của ông sống mãi trong lòng dân. Vì vậy, tại Tiền Hải, Kim Sơn, nhân dân đã lập đền thờ ông ngay khi ông còn sống. Trong đền kỷ niệm công cuộc dinh điền ở làng Đông Quách, huyện Tiền Hải, Thái Bình, có câu đối về công lao của ông rất cảm động:

“Đặc địa sinh từ, Đông Ấp nhất bách niên kỷ niệm, Kình thiên trụ thạch, Hồng Sơn thiên vạn cổ tề cao” Nghĩa là:

Trên đất dựng sinh từ, làng Đông Ấp trăm năm kỷ niệm, Giữa trời trơ cột đá, ngọn Hồng Sơn muôn thủa sánh cao

Tại Ninh Bình, lễ hội đền Nguyễn Công Trứ là lễ hội lớn nhất của cư dân huyện mới ven biển Kim Sơn  để ghi nhớ công ơn của Doanh điền Nguyễn Công Trứ - người đã chiêu dân khai hoang lấn biển lập ra huyện kim Sơn [núi vàng] của Ninh Bình và Tiền Hải [biển bạc] của Thái Bình . Lễ hội diễn ra từ ngày 14 tháng 11 đến 16 tháng 11 âm lịch hàng năm để tưởng niệm ngày mất của ông.

Đền thờ Nguyễn Công Trứ nằm bên quốc lộ 10, cách thị trấnPhát Diệm 2 km, thuộc xã Quang Thiện, Kim Sơn.

Đền thờ Nguyễn Công Trứ ở Ninh Bình, Thái Bình và Hà Tĩnh đều có điểm chung là được nhân dân xây dựng từ khi ông còn sống nhưng mãi tới những năm đầu thế kỷ 21 thì tượng ông mới hoàn thành và rước về 3 đền. Tất cả 3 ngôi đền đều được công nhận là di tích lịch sử cấp quốc gia.

Riêng đền thờ Nguyễn Công Trứ ở Kim Sơn được xây dựng tại xã Quang Thiện, huyện Kim Sơn tỉnh Ninh Bình. Tiền thân của ngôi đền là ngôi nhà ba gian của Nguyễn Công Trứ làm tại ấp Lạc Thiện để ông đi về và làm việc tại đây. Năm 1852, nhân dân Kim Sơn xây dựng lại thành ngôi Sinh Từ [Đền thờ sống]. Hàng năm, đến ngày sinh nhật của Nguyễn Công Trứ, nhân dân mở hội mừng thọ ông. Sau khi ông mất, năm

1882, ngôi đền được tu sửa lần thứ nhất và xây dựng tiền đường 5 gian và được đổi tên từ Sinh Từ thành Truy Tư Từ. Năm 1992, đền thờ Nguyễn Công Trứ được công nhận là Di tích lịch sử văn hoá cấp Quốc gia.

Đền thờ Nguyễn Công Trứ độc đáo ở chỗ nó được xây từ chính ngôi nhà ông từng ở đó một thời gian và xây dựng khi ông đang còn sống. Đền có kiến trúc theo kiểu chữ Đinh, tiền đường 5 gian, hậu cung 3 gian. Bên tả hữu tiền đường có 2 cột đồng trụ, bên trong có hương án, giá trống, giá chiêng và 3 bức đại tự nói lên tấm lòng thành kính và ngưỡng mộ của nhân dân huyện Kim Sơn đối với Nguyễn Công Trứ. Hậu cung 3 gian, gian giữa để bàn thờ Nguyễn Công Trứ có một bát hương men sứ trắng, cao 40 cm, miệng rộng 40 cm, hoạ tiết màu xanh thẫm vẽ hình lưỡng long chầu mặt nguyệt.

Từ khi Nguyễn Công Trứ mất, hàng năm cứ đến ngày 14 tháng 11 âm lịch, nhân dân huyện Kim Sơn đều tổ chức lễ tế tại ngôi đền trong 3 ngày. Tại những ngày lễ đó, những nghệ nhân đến đây hát với cây đàn đáy, cặp phách đơn giản và hát những bài ca trù do Nguyễn Công Trứ viết.

Sự nghiệp thi ca [2]

Nguyễn Công Trứ là nhà thơ có một vị trí đáng kể trong văn học Việt Nam. Thơ văn của ông mang màu sắc thời đại rõ rệt. Ông sang tác nhiều, nhưng ngày nay còn lưu lại khoảng 150 bài, nhiều nhất là ca trù và thơ Nôm.

Nhìn tổng quát thơ văn Nguyễn Công Trứ tập trung vào ba chủ đề chính: Về chí nam nhi,  thế thái nhân tình và triết lý hưởng lạc.

1. Chí nam nhi:

Đây chính là lý tưởng sống của nhà thơ Nguyễn Công Trứ khi còn đầu xanh tuổi trẻ. Nói về sự tồn tại của mình trong cuộc đời, Nguyễn Công Trứ viết:

“Thiên phú ngô, địa tái ngô

Thiên địa sinh ngô nguyên hữu ý”

Con người sinh ra là sự “hữu ý” của trời đất. Nguyễn Công Trứ không thể “tiêu lưng ba vạn sáu” được. Ông đặt vấn đề sống ở đời phải làm việc có ích:

“Đã mang tiếng ở trong trời đất, Phái có danh gì với núi sông”

Nguyễn Công Trứ hay nói đến công danh:

“Tang bồng hồ thỉ nam nhi trái, Cái công danh là cái nợ lần”..v.v...

Quan niệm của ông sống trong xã hội phải chiếm lấy một địa vị để...làm việc “trí quân trạch dân”; công danh trong Nguyễn Công Trứ thường gắn liền quan niệm trung hiếu, quân thân:

“Đường trung hiếu, chữ quân thân là gánh vác”.

Trong bài thơ LUẬN KẺ SỸ ông nói rõ. “Đem quách cả sở tồn làm sở dụng, Trong lăng miếu ra tài lương đống. Ngoài biên thuỳ rạch mũi can tương,

Sĩ làm cho bách thế lưu phương, Trước là sĩ sau là khanh tướng”

Nguyễn Công Trứ đằng sau ý thức về bổn phận, vai trò cá nhân cũng được đề cao: “Cũng có lúc mưa tuôn sóng vỗ,

 

Chí những toan xẻ núi lấp sông

Làm nên đấng anh hùng đâu đấy tỏ”

Nguyễn Công Trứ cũng là một hồn thơ lạc quan, bay bổng. Sống trong hoàn cảnh nghèo khổ đến cay đắng mà ông vẫn tin tưởng:

“Còn trời, còn đất, còn non nước, Có lẽ đâu ta mãi thế này”

Đi thi nhiều lần không đậu, ông vẫn không một chút bi quan, chán nản:

“Đã từng tắm gội ơn mưa móc, Cũng phải xênh xang hội gió mây. Hãy quyết phen này xem thử đã, Song còn tuổi trẻ chịu đâu ngay”.

Ông tự tin ở mình, tự động viên: “Có tầng gian hiểm mình càng trí”. Ông viết lời châm ngôn: “Hữu chí sự cánh thành”.

Ưu điểm trong quan niệm chí nam nhi của Nguyễn Công Trứ là nó khẳng định một cách dứt khoát vai trò tích cực của con người trong xã hội. Những vần thơ đầy lạc quan tin tưởng của nhà thơ vang lên trong không khí xã hội triều Nguyễn, cho dù có hạn chế như thế nào, nó vẫn có ý nghĩa.

2. Cuộc sống nghèo khổ và thế thái nhân tình

Nguyễn Công Trứ là một người theo tinh thần Nho giáo tích cực, một ông quan thanh liêm, rất chú ý đến vấn đề nhân sinh và xã hội. Văn Thơ Nguyễn Công Trứ có ghi lại tình cảnh nghèo khổ của bản thân ông, cũng như của những nho sỹ đương thời:

“Kìa ai, bốn vách tường mo, ba gian nhà cỏ,

Đầu kèo mọt tạc vẻ sao, trước cửa nhện giăng màn gió. Phên trúc ngăn nửa bếp nửa buồng

Ống nứa đựng đầu kê đầu đỗ.

Đầu giường tre mối dũi quanh co, Góc tường đất trùn lên lố nhố,

Bóng nắng dọi trứng gà bên vách, thằng bé tri trô,

Hạt mưa soi hang chuột trong nhà, con mèo ngấp ngó, Trong cũi lợn nằm gặm máng, đói chẳng muốn kêu, Đầu giàn chuột lóc khua niêu, buồn thôi lại bỏ.

Ngày ba bữa vỗ bụng rau bình bịch, quân tử ăn chẳng cần no, Đêm năm canh an giấc ngáy kho kho,

đời thái bình cổng thường bỏ ngỏ..”.

[Hàn Nho phong vị phú] Có lúc nhiều chua chát:

“Nói phô nghe cũng giỏi trai, Vì nỗi không tiền hoá dở ngài” Hay:

“Nợ có chết ai đâu, đòi mà chi, trả mà chi, cha cóc!

Trời để tao sống mãi, tiền cũng có, bạc cũng có, mẹ bò”

 

Trong cái nhìn khỏe khoắn, Nguyễn Công Trứ không muốn nói nhiều đến cái xấu, cái tiêu cực. Ông giải thích “người giỏi thường nghèo” hay “vốn hễ anh hùng mới có nghèo”. Nhưng thiện chí của nhà thơ không được bù đắp lại, cuộc sống tàn bạo của xã hội vẫn liên tiếp tấn công ông, và phải mất một thời gian, nhà thơ mới nhìn ra được cái “thế thái nhân tình” của thời buổi ấy. Cảm xúc của nhà thơ về chủ đề này thấm đượm cái sâu sắc của một con người từng trải. Ông thấm thía tình cảnh của những người lép vế trong xã hội:

“Ăn ở sao cho trải sự đời

Vừa lòng cũng khó há rằng chơi. Nghe như chọc ruột tai làm điếc, Giận đã căm gan miệng mỉm cười”

Ông thấy rõ đạo đức của bọn giàu có. “Khôn khéo chẳng qua thằng có của, Yêu vì đâu đến đứa không nhà”...

Quan lại trong triều cũng bất tài, hại người:

“Tuổi tác càng già càng xốp xáp, Ruột gan chẳng có có gai chông”.

Ông nhận thức thế thái nhân tình qua nhận thức về vai trò của đồng tiền, nó là thước đo mọi giá trị tình cảm, quan hệ, đánh đổ cả nhân nghĩa:

“Tiền tài hai chữ son khuyên ngược, Nhân nghĩa đôi đường nước chảy xuôi”.

Trong bài VỊNH TIỀN, nhà thơ hình dung ra đồng tiền như tóm thâu cả trời đất:

“Đủ vuông tròn tượng đất tượng trời, Khẳm hoạ phúc nguy yên tử hoạt” Tác hại của đồng tiền ghê gớm:

“... Đương om sòm chớp giật sấm ran, Nghe xóc xách lại gió hoà mưa ngọt..”.

Tiếng thơ của Nguyễn Công Trứ về đề tài này có yếu tố nhân dân.

Thơ Nguyễn Công Trứ đi cùng sự nghiệp kinh bang tế thế của ông. Nhà thơ có nói:

“Dở dang với rượu khôn từ chén

Trót nợ cùng thơ phải chuốt lời”

Nhưng thực thì thơ Nguyễn Công Trứ nhiều câu đến mộc mạc, nôm na mà vẫn gây xúc động ...“Trong thơ văn Nguyễn Công Trứ có một cái gì chưa từng có trong văn chương Việt Nam - một nguồn cảm hứng mau lẹ, quả quyết như một đội cảm tử. Cái thể ca trù nhờ phép thần của Nguyễn Công Trứ đã trở nên một thể cách hoàn toàn Việt Nam, rất thích hợp với những sự diễn xuất hùng mạnh... Tôi nhớ như có lần ông Huỳnh Thúc Kháng ví cái điệu thơ ấy với thuỷ triều, thật không phải là một lời nói vu vơ...”. [Nhà thơ Lưu Trọng Lư].

Trong lịch sử văn học dân tộc, hiếm có một nhà thơ nào như Nguyễn Công Trứ vừa viết được những câu hát nói hào hùng:

“Vòng trời đất dọc ngang, ngang dọc,

 

Nợ tang bồng vay trả trả vay. Chí làm trai nam bắc đông tây

Cho phỉ sức vẫy vùng trong bốn bể”

Đồng thời cũng viết được những câu hết sức khoan thai, có âm hưởng réo rắt:

“Người ỷ ca réo rắt khúc cung thương, Tiếng tiêu lẫn tiếng ca vang đáy nước.

Sực nhớ kẻ quày ngọn giáo vịnh câu thơ thuở trước, Nghĩ sự đời mà cám nỗi phù du”.

Nhiều bài thơ của ông dường như được cấu tạo bằng thành nhữ, tục ngữ, và nhà thơ cũng tư duy theo cách tư duy của thành ngữ, tục ngữ:

“Một lưng, một vốc, kém chi mô, Mới biết chanh chua khế cũng chua; Đã chắc bữa trưa chừa bữa tối,

Mà tham con diếc tiếc con rô..”.

Đặc biệt trong bài Hàn Nho Phong vị Phú, những yếu tố ngôn ngữ nhân dân được nhà thơ sử dụng một cách tổng hợp hết sức linh hoạt.

Về tính cách

Nguyễn Công Trứ là một con người  có tính cách đặc biệt. Ông sống thanh bần, thích tự do, phóng túng và thái độ thì rất ngang tàng, ngạo nghễ ở đời. Lúc về hưu, ông là con người “ngất ngưỡng” thể hiện trong sự kiện Nguyễn Công Trứ cưỡi bò từ Kinh đô về quê. Bài thơ

“Đạc ngựa bò vàng” của ông đã nói lên điều đó. Vũ trụ nội mạc phi phận sự

Ông Hy Văn tài bộ đã vào lồng

Khi Thủ khoa, khi Tham tán, khi Thống đốc đông

Gồm thao lược đã nên tay ngất ngưỡng. Lúc bình tây cờ đại tướng,

Có khi về Phủ doãn Thừa Thiên, Đô môn giải tổ chi niên,

Đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưỡng…

Bài thơ là bản tổng kết cuộc đời của Nguyễn Công Trứ, thể hiện rõ tâm lý, tính cách của ông. Đặc biệt hai câu cuối của bài thơ:

Đồ môn giải tổ chi niên,

Đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưỡng

Nghĩa là: Vào năm / vào lúc cởi dây ấn từ quan ở Kinh đô, thì ta cưỡi con bò vàng đeo lục lạc ngựa ngất ngưỡng đi ra.

Hành động ấy là một sự thách thức đối với hệ thống quan lại bất tài, thối nát vì tham nhũng của triều Nguyễn lúc bấy giờ, Hành động ấy cũng khẳng định Nguyễn Công Trứ không còn luyến tiếc gì hư vinh mà triều đình đem lại, Làm quan xong, ông không cưỡi ngựa nữa, vì con ngựa là con vật của “công vụ” của triều đình, đi ngựa là biểu tượng của quyền lực hay quyền quý cao sang. Nay về nghỉ, ông cưỡi bò, con vật bình thường

 

của làng quê, như một lão nông, như một người chăn bò chính hiệu. Hành động ấy của ông, cho đến nay, vẫn là một bài học còn nguyên tính thời sự.

Thái độ ngang tàng, ngạo nghễ, thích phóng túng, tự do của Nguyễn Công Trứ, còn lưu truyền trong dân gian nhiều giai thoại về ông. Đến nay, người ta đã thu thập được

81 giai thoại và Nhà xuất bản Nghệ An đã chọn lọc và in ấn phát hành 36 giai thoại tiêu biểu của ông. Xin trích dẫn một đoạn trong giai thoại: Làm cây thông đứng giữa trời: “Tương truyền, vào phút lâm chung, Nguyễn Công Trứ còn dặn con cháu trước mộ mình chỉ trồng một cây thông mà thôi. Và bài thơ sau đây cũng có thể coi là lời di chúc của Nguyễn Công Trứ với đới:

“Ngồi buồn mà trách ông xanh,

Khi vui muốn khóc, buồn tênh lại cười. Kiếp sau xin chớ làm người.

Làm cây thông đứng giữa trời mà reo”.

Với tấm lòng tôn kính biết ơn và tự hào, chúng ta có thể khẳng định rằng: Nguyễn Công Trứ là một văn quan minh trí, một võ tướng thao lược, một nhà doanh điền tài năng, một nhà thơ xuất chúng, đặc biệt ông là con người phóng túng, thích tự do. Vì vậy, Nguyễn Công Trứ là nhân vật kiệt xuất của Việt Nam thời kỳ cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX.  Điều gì đã làm nên sự kỳ diệu trong cuộc đời của ông? Thật đơn giản mà cũng thật sâu sắc, bởi vì Nguyễn Công Trứ đã sống một cuộc đời trọn vẹn vì dân, vì nước:

Chủ Đề