Tại sao Việt Nam gia nhập ASEAN vừa là cơ hội vừa là thách thức

Vì sao nói gia nhập asean vừa là thời cơ vừa là thách thức

601

Cơ hộitạo ra điều kiện cho việc trở nên tân tiến tân tiến,hạn chế được khoảng cách giữa những nước trong Quanh Vùng,Hàng hoá gồm cơ hội đột nhập thị trường khu vực đông nam á và bên trên thế giới,tất cả điều kiện tiếp nhận kỹ thuật kĩ thuật và cách cai quản lí

Thách thứcNếu ko đuổi theo kịp được với các nước vào Khu Vực sẽ có được nguy cơ tiềm ẩn bị tụt hậu so với những nước khác.Có điều kiện hoà nhập với thế giới về hầu như mặt mà lại dễ bị hoà tung còn nếu như không duy trì được bạn dạng sắc đẹp văn uống hoá của dân tộc


Bạn đang xem: Vì sao nói gia nhập asean vừa là thời cơ vừa là thách thức

star

starstarstarstarstarstarstarstarstarstarstarstarstarstarstarstarstarstarstarstarstarstarstarstarstarstarstarstarstar


cả nước gia nhập ASEAN vừa là thời cơ, vừa là thử thách bởi :

-Thời cơ

+VN bao gồm thời cơ nhằm hội nhập lệ nền tài chính Khu Vực với nỗ lực giới

+toàn quốc bao gồm ĐK để gặp mặt, học hỏi tay nghề thiết kế, quản ngại lí đất nước, gợi cảm nguồn chi phí đầu tư chi tiêu nước ngoài

+thu nạp phần nhiều hiện đại khoa học - technology tiên tiến

->Từ kia tạo cho nền kinh tế của việt nam rút ít dần khoảng cách cùng với những nước trong khu vực với nắm giới

-Thách thức

+Trình độ tài chính và trình độ dân trí thấp, lúc hội nhập lại Chịu đựng sự tuyên chiến đối đầu quyết liệt của Thị Trường. Vì vậy cần tất cả bước đi chính xác, phù hợp ;còn nếu không có khả năng sẽ bị tụt hậu

+Khi hội nhập nếu như không giữ gìn bản nhan sắc văn hóa truyền thống dân tộc thì sẽ bị "hòa tan"

#good_luck


Hãy giúp các người biết câu vấn đáp này cụ nào?


star

starstarstarstarstarstarstarstarstarstarstarstarstarstarstarstarstarstarstarstarstarstarstarstarstarstarstarstarstar
5
starstarstarstarstar
2 vote
GửiHủy


Chưa bao gồm nhómTrả lời2779

Điểm

36568

Cám ơn

3288


sáng thui à


Chưa bao gồm nhómTrả lời

1168

Điểm

13085

Cám ơn

1568


ukcả sáng máy 4 thiết bị 5 nha


Chưa có nhómTrả lời

2779

Điểm

36568

Cám ơn

3288


giờ chiều onl luôn ko bản thân quên đấy nhed


Chưa tất cả nhómTrả lời

1168

Điểm

13085

Cám ơn

1568


ukm


Xem thêm: " Freak Me Out Là Gì - 10 Câu Văn Nói Hay Thấy Trong Phim

Chưa có nhómTrả lời

1168

Điểm

13085

Cám ơn

1568


thôi mink làm 1-1 thương độc mã đây


Chưa tất cả nhómTrả lời

2779

Điểm

36568

Cám ơn

3288


rứa lên hihi


Chưa có nhómTrả lời

1168

Điểm

13085

Cám ơn

1568


ukmbye nhaChắc mai nên tập vậy cờ yêu cầu thời gian lâu hơn 11 giờ mứi vè


Chưa gồm nhómTrả lời

2779

Điểm

36568

Cám ơn

3288


mi tuu


Đăng nhập nhằm hỏi chi tiết

Sub đăng ký kênh góp Ad nhé!


XEM GIẢI BÀI TẬP. SGK SỬ 9 - TẠI ĐÂY

Bạn hy vọng hỏi điều gì?

Đặt câu hỏi

Sự kiện


Đáp án tìm hiểu thêm cuộc thi Đại sứ văn uống hoá hiểu 2021

quý khách hàng ao ước hỏi điều gì?

Đặt câu hỏi

Lý vị report vi phạm?


Gửi thử dùng Hủy


Cơ quan tiền công ty quản: shop Cổ phần Công nghệ Giáo dục Thành Phát


Tải ứng dụng


Trụ sở: Tầng 7, Tòa đơn vị Intracom, Trần Thái Tông, CG cầu giấy, Hà Nội.
Giấy phép thiết lập cấu hình mạng xã hội trên mạng số 331/GP-BTTTT bởi vì Bộ Thông tin với Truyền thông.

Answers [ ]

  1. Việt Nam gia nhập ASEAN vừa là thời cơ, vừa là thách thức vì :

    -Thời cơ

    +Việt Nam có cơ hội để hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới

    +Việt Nam có điều kiện để giao lưu, học hỏi kinh nghiệm xây dựng, quản lí đất nước, thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài

    +tiếp thu những tiến bộ khoa học – công nghệ tiên tiến

    ->Từ đó làm cho nền kinh tế của nước ta rút dần khoảng cách với các nước trong khu vực và thế giới

    -Thách thức

    +Trình độ kinh tế và trình độ dân trí thấp, khi hội nhập lại chịu sự cạnh tranh quyết liệt của thị trường. Vì vậy phải có bước đi đúng đắn, thích hợp ;nếu không sẽ bị tụt hậu

    +Khi hội nhập nếu không giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc thì sẽ bị “hòa tan”

Cộng đồng Kinh tế ASEAN - Cơ hội và thách thức

[ĐCSVN] - Nhân dịp kỷ niệm 54 năm thành lập Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á [ASEAN] [8/8/1967 - 8/8/2021] và 26 năm Việt Nam tham gia ASEAN [1995 - 2021], Bộ trưởng Bộ Công thương Nguyễn Hồng Diên có bài viết về Cộng đồng Kinh tế ASEAN. Dưới đây là nội dung bài viết:
Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên

Tình hình xây dựng Cộng đồng Kinh tế ASEAN

Từ năm 1992, ASEAN đã thúc đẩy tiến trình hội nhập kinh tế khu vực thông qua trọng tâm là hình thành một hiệp định thương mại tự do giữa các nước trong khối ASEAN [AFTA]. AFTA được coi là hiệp định được triển khai rất thành công giữa các nước đang phát triển, đưa ASEAN trở thành một trong những khu vực phát triển kinh tế năng động nhất trên thế giới.

Tuy nhiên, khi thuế quan nội khối dần được loại bỏ, ASEAN nhận thấy ở thời điểm đó khu vực vẫn còn nhiều thách thức cần vượt qua, cụ thể:

Dù có bước phát triển kinh tế được coi là ngoạn mục nhưng nền kinh tế của từng nước ASEAN vẫn còn ở quy mô nhỏ, chưa đủ lực để có thể cạnh tranh với các trung tâm kinh tế khác trên thế giới.

Nền kinh tế thế giới có nhiều thay đổi nhanh chóng, trong đó nổi lên là sự phát triển của cách mạng công nghiệp 4.0, sự phát triển nhanh chóng của đầu tư xuyên biên giới và thương mại dịch vụ v.v. Để có thể đón trước được làn sóng thay đổi này, ASEAN cần có những bước đi mạnh mẽ trong quá trình hội nhập kinh tế ở những lĩnh vực khác như: dịch vụ, đầu tư, thương mại điện tử v.v.

Cộng đồng Kinh tế ASEAN [AEC] được thành lập vào ngày 31 tháng 12 năm 2015 đã đáp ứng các nhu cầu của khu vực, được trông đợi sẽ giúp ASEAN vượt qua những thách thức nêu trên, từng bước xây dựng một khu vực năng động, có tính cạnh tranh cao trên thế giới.

Với mục tiêu đưa ASEAN trở thành một thị trường chung và cơ sở sản xuất thống nhất, AEC tập trung vào các biện pháp tạo thuận lợi hóa thương mại, dịch vụ, đầu tư, hoàn chỉnh các quy tắc về xuất xứ, tăng cường phát triển thị trường vốn ASEAN và tự do lưu chuyển hơn của dòng vốn, thuận lợi hóa di chuyển thể nhân..., song song với việc củng cố mạng lưới sản xuất khu vực thông qua đẩy mạnh kết nối về cơ sở hạ tầng, đặc biệt là trong các lĩnh vực năng lượng, giao thông vận tải, công nghệ thông tin và viễn thông,…

Các biện pháp nói trên đều đã và đang được các nước thành viên ASEAN triển khai cụ thể thông qua các thỏa thuận và hiệp định quan trọng như Hiệp định Khu vực Mậu dịch Tự do ASEAN [AFTA] và Hiệp định Thương mại Hàng hóa ASEAN [ATIGA], Hiệp định khung ASEAN về dịch vụ [AFAS], Hiệp định khung về Khu vực Đầu tư ASEAN [AIA] và Hiệp định Đầu tư Toàn diện ASEAN [ACIA], Hiệp định khung về Thỏa thuận thừa nhận lẫn nhau [MRA], v.v… gồm các nguyên tắc điều chỉnh thương mại nội khối dựa trên cơ sở các quy định của WTO và mức độ mở cửa thị trường rất cao.

Nhằm mở rộng hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu, ASEAN đã và đang đẩy mạnh triển khai các Hiệp định Thương mại tự do [FTA] với các nước đối tác bao gồm FTA ASEAN - Trung Quốc, FTA ASEAN - Nhật Bản, FTA ASEAN - Hàn Quốc, FTA ASEAN - Ấn Độ, FTA ASEAN - Ốtx-trây-lia - Niu Di-lân, FTA ASEAN – Hồng Kông [Trung Quốc].

ASEAN với mục tiêu mở rộng liên kết khu vực, sau 8 năm, đã kết thúc đàm phán và thành công ký kết Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực [RCEP] với 5 nước đối tác: Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc, Ốtx-trây-lia và Niu Di-lân vào ngày 15 tháng 11 năm 2020 bên lề Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ 37 do Việt Nam làm Chủ tịch, thể hiện vai trò trung tâm của ASEAN trong quá trình hội nhập sâu rộng hơn trong khu vực. Hiệp định RCEP, một hiệp định hiện đại, toàn diện, chất lượng cao và cân bằng về lợi ích, khi được 15 nước thực thi, sẽ tạo nên khu vực thương mại tự do lớn nhất thế giới với quy mô 2,2 tỉ người tiêu dùng, chiếm 30% dân số thế giới và GDP 26,2 nghìn tỉ USD.

Hiện nay, ASEAN đang tiến hành đàm phán nâng cấp 03 FTA với các đối tác ngoại khối bao gồm: FTA ASEAN – Trung Quốc, FTA ASEAN – Hàn Quốc và FTA ASEAN - Ốtx-trây-lia - Niu Di-lân. Ngoài ra, ASEAN cũng đang cân nhắc về khả năng đàm phán FTA ASEAN – Ca-na-đa và FTA ASEAN – Liên minh châu Âu [EU].

Trước tình hình vai trò của hệ thống thương mại đa phương trong thương mại quốc tế đang bị lung lay, chiến tranh thương mại kéo dài, kinh tế thế giới bị suy giảm nghiêm trọng do tác động của đại dịch Covid-19, các nước ASEAN đang đối mặt với những thách thức mới trong hợp tác kinh tế

Sự suy yếu của Tổ chức Thương mại Thế giới [WTO] dẫn đến khó khăn trong việc phát triển khuôn khổ hợp tác kinh tế đa phương minh bạch, bình đẳng, dựa theo luật lệ. Các nền kinh tế nhỏ, đang phát triển phải chịu sức ép từ chủ nghĩa bảo hộ ở các nước lớn. Việc gián đoạn chuỗi cung ứng khu vực do tác động của đại dịch Covid-19 cho thấy việc phụ thuộc vào một nguồn cung ứng nguyên vật liệu trong thời gian dài là một trở ngại mà ASEAN cần khắc phục.

Trong bối cảnh này, ASEAN càng cần tăng cường hợp tác, củng cố liên kết, xác định định hướng phát triển đúng đắn để cùng nhau vượt qua khó khăn, duy trì tăng trưởng kinh tế.

Thành tựu về kinh tế của Việt Nam sau khi gia nhập ASEAN

Gia nhập ASEAN là bước hội nhập kinh tế quốc tế đầu tiên của Việt Nam và là cơ sở để Việt Nam thúc đẩy chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế trong toàn bộ giai đoạn 26 năm qua. Song song với tiến trình tham gia ASEAN, mối quan hệ kinh tế của ta với với các đối tác cũng không ngừng được mở rộng, tạo cơ sở để Việt Nam hội nhập cả về kinh tế và chính trị ở các cấp độ khác từ đa phương, khu vực đến song phương với dấu ấn là việc tham gia các hiệp định thương mại tự do [FTA] thế hệ mới với tiêu chuẩn cao nhất như Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương [CPTPP] hay Hiệp định Việt Nam - EU [EVFTA].

Sau 26 năm gia nhập ASEAN, kinh tế Việt Nam đã có những thay đổi vượt bậc về mọi mặt. Nếu như năm 1995, GDP bình quân đầu người của Việt Nam đạt 289 USD thì đến năm 2020 con số này đã là 3.520 USD, tăng hơn 12 lần so với năm 1995. Quy mô nền kinh tế tăng gần 17 lần từ 20,8 tỷ USD vào năm 1995 lên khoảng 343 tỷ USD vào năm 2020, đứng thứ tư trong khu vực ASEAN [chỉ sau In-đô-nê-xia, Thái Lan và Phi-líp-pin].

Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam tăng từ 5,2 tỷ USD vào năm 1995 lên 283 tỷ USD vào năm 2020. Cùng với hội nhập kinh tế quốc tế và tham gia vào các tổ chức trong khu vực và trên thế giới, nguồn vốn nước ngoài đầu tư [FDI] vào Việt Nam tăng mạnh qua các năm, đạt 29 tỷ USD vào năm 2020. Năm 2020, với việc Việt Nam là Chủ tịch ASEAN và đảm nhiệm vai trò thúc đẩy việc hình thành Cộng đồng Kinh tế ASEAN, ta đã cùng các nước thành viên phát huy đúng tinh thần “Gắn kết và Chủ động thích ứng” với hàng trăm cuộc họp được tổ chức thành công theo hình thức trực tuyến đồng thời đề xuất nhiều sáng kiến nhằm tạo điều kiện củng cố chuỗi cung ứng khu vực, khắc phục hậu quả tiêu cực do đại dịch Covid-19 gây ra đối với nền kinh tế tiêu biểu như Kế hoạch phục hồi tổng thể ASEAN, Kế hoạch hành động Hà Nội nhằm tăng cường hợp tác kinh tế ASEAN và kết nối chuỗi cung ứng. Việt Nam cũng đóng vai trò tích cực trong việc dung hòa các quan điểm trong đàm phán Hiệp định RCEP nhằm xử lý các vấn đề vướng mắc, từ đó thúc đẩy kết thúc đàm phán và ký kết thành công Hiệp định RCEP trong năm 2020. Thành tựu này đã một lần nữa khẳng định vị trí và vai trò của Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế đa phương, khu vực và thế giới.

Cơ hội và thách thức

Cộng đồng kinh tế ASEAN đã và đang tạo ra những cơ hội và cả thách thức đối với nền kinh tế, doanh nghiệp và người dân nước ta.

Gia nhập AEC cũng như tham gia các hiệp định thương mại tự do giữa ASEAN với các đối tác, một mặt giúp Việt Nam thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, mặt khác cũng là cầu nối để Việt Nam tiếp cận các thị trường tiềm năng trong và ngoài khu vực. Việc thực hiện các cam kết trong ASEAN đã và đang tạo nền tảng để Việt Nam tiếp tục mở rộng và tăng cường quan hệ với các đối tác ngoài ASEAN, nhất là các nước lớn, qua đó góp phần nâng cao vai trò và vị thế quốc tế của Việt Nam. Có thể nói, hội nhập ASEAN cho đến nay vẫn được coi là “điểm tựa” quan trọng cho quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam.

Tất nhiên, bên cạnh cơ hội là những thách thức chúng ta cũng sẽ phải đối mặt và vượt qua. Một trong những thách thức lớn nhất của Việt Nam khi tham gia vào AEC là sự chênh lệch về trình độ phát triển so với 06 nước thành viên ban đầu của ASEAN [ASEAN-6]. Tuy nhiên, trong thời gian 26 năm qua, khoảng cách giữa chúng ta với nhóm 6 nước ASEAN đã được thu hẹp một cách đáng kể. Thậm chí ở nhiều tiêu chí, trong đó quan trọng nhất là chỉ số phát triển con người [HDI] [chỉ số HDI năm 2019 của Việt Nam là 0,704, thuộc nhóm phát triển con người cao] và thu nhập bình quân đầu người [đạt 2.660 USD vào năm 2020], chúng ta đã có bước tiến tiệm cận các nước ASEAN đi trước. Riêng về kim ngạch xuất khẩu và thu hút vốn đầu tư nước ngoài, chúng ta thậm chí đã vượt nhiều nước ASEAN-6 khác.

Định hướng tham gia AEC trong thời gian tới

Nghị quyết Đại hội lần thứ XII của Đảng đã xác định chủ trương “chủ động tham gia và phát huy vai trò tại các cơ chế đa phương đặc biệt là ASEAN và Liên hợp quốc”. Tiếp theo đó, Chỉ thị số 25-CT/TW ngày 08 tháng 8 năm 2018 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về đẩy mạnh và nâng tầm đối ngoại đa phương đến năm 2030 cũng đã xác định phương châm “nỗ lực vươn lên đóng vai trò nòng cốt, dẫn dắt” tại các tổ chức quốc tế có tầm quan trọng chiến lược như ASEAN. Chính vì vậy, việc thúc đẩy hơn nữa hội nhập của Việt Nam trong AEC thời gian tới là một nhiệm vụ có ý nghĩa hết sức quan trọng.

Những thành quả mà hội nhập kinh tế ASEAN mang lại cho Việt Nam là rất tích cực, tuy nhiên các thách thức mà ta gặp phải cũng không nhỏ. Do đó, để đạt được những thành tựu này một cách bền vững, công cuộc hội nhập kinh tế ASEAN trong thời gian tới cần có những định hướng, chính sách phù hợp, cụ thể là:

Trước tiên, chúng ta cần cùng các nước ASEAN khẳng định và thúc đẩy vai trò trung tâm của ASEAN trong việc điều phối các hoạt động hợp tác kinh tế trong khu vực.

Chúng ta cần thúc đẩy thực hiện Kế hoạch Tổng thể xây dựng Cộng đồng Kinh tế ASEAN đến năm 2025, điều chỉnh các chương trình hợp tác trong ASEAN theo hướng đáp ứng tình hình mới.

Chúng ta cần sớm phê duyệt Hiệp định RCEP để đưa Hiệp định thương mai tự do có quy mô lớn nhất thế giới về dân số vào thực thi, góp phần thúc đẩy các chuỗi cung ứng khu vực. Đồng thời, chúng ta cũng cần phối hợp với các nước ASEAN khác thúc đẩy việc xây dựng các khuôn khổ hợp tác mang tính ổn định, bền vững, dựa theo luật lệ với các đối tác ngoại khối nhằm mở rộng thị trường xuất khẩu, thu hút đầu tư từ ngoài khối.

Duy trì động lực từ những thành công của năm Chủ tịch ASEAN 2020, trong thời gian tới, Việt Nam cần thể hiện định hướng tiếp tục coi hội nhập ASEAN là môt trong những ưu tiên trong quá trình hôi nhập kinh tế quốc tế, khẳng định tinh thần chủ động, năng động trong việc triển khai các sáng kiến thực hiện Cộng đồng Kinh tế ASEAN, góp phần tăng cường sự gắn kết chặt chẽ, phát huy tố chất của một khu vực kinh tế ASEAN năng động, khẳng định vai trò trung tâm trong hợp tác kinh tế ở khu vực./.

Nguyễn Hồng Diên, Ủy viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Công Thương

Cộng đồng kinh tế ASEAN – Cơ hội và thách thức với Việt Nam

2 tháng 12. 2016

Trong những năm qua, Việt Nam đã tham gia xây dựng AEC với tinh thần chủ động, tích cực và có trách nhiệm. Thúc đẩy việc thành lâp AEC luôn là một trong những ưu tiên cao nhất của Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế.

I.Tổng quan về Cộng đồng Kinh tế ASEAN [AEC]:

Tại Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ 14 tổ chức vào tháng 2 năm 2009 tại Thái Lan, các Nhà Lãnh đạo đã đưa ra Tuyên bố Cha-am Hua Hin về Lộ trình xây dựng Cộng đồng ASEAN [2009-2015] với 3 trụ cột chính là: Cộng đồng Kinh tế ASEAN, Cộng đồng Chính trị - An ninh ASEAN và Cộng đồng Văn hóa – Xã hội ASEAN.

Hội nghị cũng thông qua Kế hoạch tổng thể xây dựng Cộng đồng Kinh tế ASEAN với các biện pháp và lịch trình cụ thể thực hiện AEC, bao gồm các nội dung:

[i] Xây dựng một thị trường chung và cơ sở sản xuất thống nhất thông qua các biện pháp dỡ bỏ các rào cản đối với sự lưu chuyển tự do của hàng hóa, dịch vụ, đầu tư, lao động kỹ năng cũng như tạo thuận lợi cho sự lưu chuyển tự do hơn của dòng vốn, các biện pháp về các lĩnh vực ưu tiên hội nhập.

[ii] Đưa ASEAN thành một khu vực kinh tế có khả năng cạnh tranh cao trên cơ sở thực thi chính sách cạnh tranh, bảo vệ người tiêu dùng, quyền sở hữu trí tuệ, phát triển cơ sở hạ tầng, thương mại điện tử.

[iii] Phát triển kinh tế đồng đều thông qua thực hiện các biện pháp về phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa, Sáng kiến Hội nhập ASEAN nhằm giúp các nước CLMV [Cam-pu-chia, Lào, My-an-ma và Việt Nam] nâng cao năng lực.

[iv] Hội nhập hiệu quả vào nền kinh tế toàn cầu trên cơ sở tham gia vào các Hiệp định thương mại tự do [FTA], tích cực tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu.

II. Sự chuẩn bị của Việt Nam cho AEC

Trong những năm qua, Việt Nam đã tham gia xây dựng AEC với tinh thần chủ động, tích cực và có trách nhiệm. Thúc đẩy việc thành lâp AEC luôn là một trong những ưu tiên cao nhất của Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. Cùng với ASEAN, Việt Nam quyết tâm và dành nỗ lực cao nhất để triển khai các cam kết, chương trình, sáng kiến hướng tới mục tiêu thành lập Cộng đồng Kinh tế ASEAN [AEC] vào cuối năm 2015, đặc biệt là các biện pháp ưu tiên nhằm thực hiện Kế hoạch tổng thể xây dựng AEC.

Theo Báo cáo gần đây nhất của Ban Thư ký ASEAN về tỷ lệ thực hiện các biện pháp trong Lộ trình xây dựng Cộng đồng Kinh tế ASEAN [AEC], ASEAN đã thực hiện được 91,5% các biện pháp ưu tiên có tác động lớn đối với thương mại và đầu tư. Việt Nam là một trong các nước đứng đầu về tỷ lệ thực hiện [tỷ lệ thực hiện các biện pháp ưu tiên đạt 94,5%]. Để tiếp tục thúc đẩy việc thực hiện các biện pháp xây dựng AEC, các nước ASEAN nhất trí về một số định hướng, bên cạnh các biện pháp khác, như sau: đánh giá các biện pháp chưa hoàn thành nhằm xác định lý do chưa hoàn thành là vấn đề kỹ thuật hay vấn đề chính sách; tiếp tục thúc đẩy việc thực hiện các biện pháp còn lại trong Lộ trình tổng thể xây dựng AEC.

Thực hiện chỉ đạo của các Nhà Lãnh đạo ASEAN về việc xây dựng Tầm nhìn Cộng đồng ASEAN sau năm 2015, Việt Nam đã cùng các nước ASEAN khác hoàn tất dự thảo Lộ trình tổng thể xây dựng AEC sau năm 2015 tới 2025, dự kiến sẽ được các nhà Lãnh đạo ASEAN thông qua tại Hội nghị cấp cao vào tháng 11 sắp tới tại Ma-lai-xia. Nội dung chủ yếu của tài liệu này là các biện pháp chiến lược xây dựng một nền kinh tế ASEAN hội nhập, cạnh tranh, năng động, lấy con người làm trung tâm, phát triển các ngành có lợi thế và hướng ra toàn cầu. Đây cũng sẽ là khuôn khổ để tất cả các cơ quan chuyên ngành trong trụ cột AEC xây dựng kế hoạch hành động chuyên ngành tới năm 2025.

Mức độ sẵn sàng của Việt Nam trước việc hình thành Cộng đồng Kinh tế ASEAN vào cuối năm 2015 cũng được thể hiện thông qua việc thực hiện các cam kết cụ thể của Việt Nam trong nhiều lĩnh vực với một số kết quả nổi bật như sau:

Trong nước:

Về mặt chủ trương:

- Thuận lợi chính của Việt Nam trong việc xây dựng AEC là sự quyết tâm của Đảng và Nhà nước trong việc chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, đặc biệt là hội nhập kinh tế khu vực và tích cực tham gia đàm phán, ký kết các hiệp định thương mại tự do nhằm mở cửa thị trường cho các hàng hóa xuất khẩu mà Việt Nam có lợi thế cạnh tranh, tận dụng các nguồn lực nhập khẩu có chi phí thấp hơn; đồng thời tạo ra các sức ép từ bên ngoài để đẩy mạnh cải cách trong nước theo hướng minh bạch, cởi mở, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho hoạt động kinh doanh và đầu tư.

- Đẩy mạnh thông tin tuyên truyền về AEC năm 2015 nhằm nâng cao nhận thức của người dân và doanh nghiệp về những lợi ích và thách thức của AEC.

- Phối hợp chặt chẽ hội nhập kinh tế ASEAN với hội nhập kinh tế các khu vực khác [như Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương, Hiệp định thương mại tự do Việt Nam-EU, Việt Nam-Liên minh châu Âu ... đang đàm phán và sẽ được ký kết trong tương lai gần] để doanh nghiệp, người dân Việt Nam được hưởng lợi tối đa từ tiến trình hội nhập kinh tế cho giai đoạn hội nhập kinh tế sau năm 2015.

- Đẩy mạnh việc cải cách cơ cấu kinh tế trong nước với tốc độ phù hợp với tiến trình hội nhập kinh tế ASEAN.
- Tăng cường phối hợp giữa các Bộ, ngành tham gia AEC của Việt Nam thông qua vai trò điều phối của Bộ Công Thương.

Về mặt thực hiện cam kết, Việt Nam thực hiện nghiêm túc, đầy đủ, đúng hạn:

- Ban hành văn bản pháp lý thực hiện cắt giảm thuế.

- Tăng cường thuận lợi hóa thương mại thông qua triển khai hải quan điện tử, cơ chế một cửa, cải cách thủ tục hành chính liên quan đến xuất nhập khẩu nhằm rút ngắn thời gian thông quan và giảm các yêu cầu về các giấy tờ kê khai, qua đó giảm thiểu chi phí kinh doanh của doanh nghiệp.

- Nỗ lực đơn giản hoá hệ thống các giấy phép, giấy chứng nhận bao gồm giấy phép xuất khẩu, nhập khẩu, giấy chứng nhận xuất xứ [C/O], giấy chứng nhận vệ sinh kiểm dịch, giấy chứng nhận an toàn thực phẩm. Ví dụ như việc thực hiện hệ thống eCoSys [hệ thống xin cấp C/O qua mạng], cấp phép nhập khẩu tự động.

- Hướng tới tự do hóa dịch vụ, Việt Nam đã tiến hành sửa đổi một số Luật liên quan như Luật đầu tư, Luật Thương mại, Luật doanh nghiệp và ban hành nhiều Nghị định, văn bản hướng dẫn các Luật này.

- Sửa đổi và ban hành mới các chính sách để thực hiện các cam kết trong từng ngành cụ thể, điển hình là trong các ngành dịch vụ phân phối, ngân hàng, bảo hiểm, chứng khoán, viễn thông để phù hợp với các cam kết trong Hiệp định khung ASEAN về dịch vụ [AFAS] cũng như GATS.

- Đối với các ngành dịch vụ ưu tiên gồm y tế, du lịch, logistics, e-ASEAN và hàng không, Việt Nam cũng đã tuân thủ nghiêm túc các cam kết và tích cực tham gia vào các hiệp định liên quan.

- Hiện tại, Việt Nam được đánh giá là một trong những nước có Luật cạnh tranh khá toàn diện áp dụng cho cả nền kinh tế và có các cơ quan giám sát thực hiện luật này cùng với In-đô-nê-xia, Xinh-ga-po và Thái Lan…

Về mặt phối hợp với doanh nghiệp:

- Đàm phán cam kết hội nhập kinh tế quốc tế với lộ trình chuyển đổi phù hợp để doanh nghiệp có thời gian chuẩn bị trong các FTA nội khối ASEAN và ASEAN+1 với các đối tác Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ, Ôt-xtrây-lia và Niu Di-lân.

- Đàm phán thúc đẩy việc mở cửa thị trường ASEAN và các đối tác cho doanh nghiệp của Việt Nam.

- Phối hợp tích cực với doanh nghiệp giải quyết các biện pháp hạn chế thương mại mới tại các thị trường xuất khẩu, kể cả các biện pháp như hàng rào kỹ thuật, chống bán phá giá, chống trợ cấp, tự vệ.

- Chủ động vận dụng các biện pháp tự vệ, chống bán phá giá để đối phó với hàng hóa nhập khẩu ảnh hưởng tiêu cực hoặc cạnh tranh không bình đẳng đối với hàng hóa sản xuất trong nước.

- Hỗ trợ doanh nghiệp thông qua các kênh hợp tác kinh tế, xúc tiến thương mại và đầu tư để tìm hiểu, thâm nhập và phát triển thị trường.

- Triển khai việc tuyên truyền, quảng bá cho doanh nghiệp và người dân ở các địa phương trong cả nước về các cơ hội và thách thức của hội nhập kinh tế, đặc biệt là về Cộng đồng Kinh tế ASEAN.

- Khuyến khích phát triển công nghiệp phụ trợ để góp phần thu hút đầu tư, đảm bảo hiệu ứng lan tỏa của đầu tư, mang lại lợi ích trực tiếp và thiết thực cho doanh nghiệp và người dân địa phương, đồng thời xây dựng năng lực dài hạn cho hội nhập kinh tế trong tương lai.

- Cuối cùng và không kém phần quan trọng là việc đàm phán mở cửa các thị trường mới, vừa nhằm mục đích đa dạng hóa thị trường, tránh phụ thuộc sâu vào các thị trường khu vực, vừa tính đến tính chất bổ trợ cho nền kinh tế Việt Nam, mà ví dụ nổi bật là thị trường EU, thông qua đàm phán Hiệp định thương mại tự do Việt Nam-EU.

Cùng với các nước thành viên ASEAN khác:

Trên lĩnh vực thương mại hàng hóa

Việt Nam đã thực hiện nghiêm túc Lộ trình cắt giảm thuế thực hiện Hiệp định Thương mại hàng hóa trong ASEAN [ATIGA] được kế thừa từ Chương trình CEPT/AFTA. Tính đến năm 2015, Việt Nam đã hoàn thành giảm thuế nhập khẩu xuống mức 0-5% đối với 97% biểu thuế, trong đó khoảng 90% số dòng thuế đã ở mức 0%. Đến năm 2018, Việt Nam sẽ phải xóa bỏ thuế nhập khẩu đối với khoảng 97% biểu thuế và xóa bỏ hạn ngạch thuế quan đối với các mặt hàng trứng gia cầm, đường, muối.Vềthuận lợi hóa thương mại,Việt Nam cùng các nước ASEAN tích cực triển khai các sáng kiến và nội dung trong Chương trình làm việc về Thuận lợi hóa thương mại giai đoạn 2007-2015 được các nước Bộ trưởng Kinh tế ASEAN thông qua, nổi bật là:

- Việt Nam đã xây dựng cơ chế một cửa quốc gia và là một trong số các nước ASEAN đi đầu kết nối với cơ chế một cửa ASEAN.

- Việt Nam cùng các nước ASEAN cũng đã thống nhất Chương trình làm việc giải quyết các rào cản phi thuế [NTM], gồm các hoạt động như cập nhật cơ sở dữ liệu về NTM hiện có của ASEAN, xác định và xử lý/dỡ bỏ các yếu tố rào cản thương mại trong các NTM. Về phía Việt Nam, các biện pháp trong nước đều phù hợp với các cam kết quốc tế và Việt Nam vẫn chủ động phối hợp với các nước ASEAN để thảo luận, tìm cách tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp.

-Việt Nam cùng một số nước ASEAN đã tham gia dự án thí điểm Tự chứng nhận xuất xứ thứ 2.

Trên lĩnh vực thương mại dịch vụ

Việt Nam cùng các nước ASEAN đã hoàn tất Gói cam kết thứ 9 và đang tích cực xây dựng Gói cam kết thứ 10 trong khuôn khổ Hiệp định khung về dịch vụ ASEAN [AFAS]. Mặc dù nội dung Gói 10 đặt yêu cầu cam kết mở cửa khá cao, Việt Nam vẫn thể hiện sự nỗ lực, tích cực giải quyết các vướng mắc để sớm cùng các nước thành viên ASEAN hoàn thành nội dung cam kết trong Gói 10.

Trên lĩnh vực đầu tư

Hiệp định đầu tư toàn diện ASEAN [ACIA] được ký kết tháng 2 năm 2009, là sự kế thừa và tổng hợp Hiệp định đầu tư ASEAN [AIA] và một số thỏa thuận khác từ trước đó. Kể từ khi Hiệp định có hiệu lực đến nay, các nước ASEAN tập trung cắt giảm và loại bỏ dần các biện pháp trong Danh mục bảo lưu của mình, hướng tới mục tiêu xây dựng một môi trường đầu tư tự do và mở cửa vào năm 2015.

Trong lĩnh vực xúc tiến và tự do hóa đầu tư, Việt Nam đã cùng các nước ASEAN đạt được những kết quả nhất định như xuất bản Sách hướng dẫn đầu tư cho doanh nghiệp, Báo cáo đầu tư ASEAN hàng năm; tổ chức các hội thảo, diễn đàn về xúc tiến đầu tư; xây dựng trang thông tin ASEAN về đầu tư v.v.

Các nội dung khác

Việt Nam cũngchủ độngcùng các nước ASEAN triển khai các hoạt động trong các lĩnh vực, nổi bật là:

-Sáng kiến kết nối ASEAN được thông qua tạiHội nghị Cấp cao [HNCC]-15 năm 2009 với mục tiêu củng cố kết nối cơ sở hạ tầng [cả phần cứng và phần mềm] nhằm thu hẹp khoảng cách về kinh tế trong khu vựcvàKế hoạch tổng thể về Kết nối ASEAN [MPAC] tại HNCC-17 năm 2010 tại Hà Nộiđể triển khai Sáng kiến Kết nối.MPAC tập trung vào 3 lĩnh vực: kết nối phần cứng, kết nối về thể chế và kết nối về con người.

- Hợp tác tài chính: các nước ASEAN đã đàm phán được 6 Gói tự do hóa dịch vụ tài chính trong khuôn khổ AFAS và hiện đang chuẩn bị đàm phán Gói 7. Ủy ban công tác về tự do hóa tài khoản vốn đang xây dựng khung tự do hóa tài khoản vốn để đánh giá mức độ tự do hóa của từng quốc gia, là cơ sở để các nước thành viên cập nhật về lộ trình tự do hóa tài khoản vốn của nước mình. Bên cạnh đó, các nước cũng triển khai đối thoại chính sách về cơ chế phòng vệ cho tự do hóa tài khoản vốn để theo dõi xu thế biến động của các dòng vốn trong ASEAN nhằm xác định các rủi ro tiềm ẩn, đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô, tài chính và tiền tệ.

- Ngoài ra, Việt Nam đã và đang tích cực cùng các nước ASEAN triển khai hợp tác trong một số nội dung khác như cạnh tranh, bảo vệ người tiêu dùng, hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ, v.v.

III. Vai trò và vị trí của Việt Nam trong quá trình xây dựng AEC:

Trong bối cảnh xây dựng AEC, vị trí và vai trò của nền kinh tế Việt Nam cần được xem cả trong khuôn khổ nội khối ASEAN và hội nhập nền kinh tế toàn cầu như sau:

Trong khuôn khổ nội khối:

- ASEAN là đối tác thương mại quan trọng hàng đầu của Việt Nam trong nhiều năm qua. Với lợi thế là một khu vực phát triển năng động, gần gũi về địa lý, quan hệ thương mại giữa Việt Nam và ASEAN có mức tăng trưởng cao.

- Cơ cấu xuất khẩu của Việt Nam sang ASEAN đang chuyển biến theo chiều hướng tích cực, nâng cấp cả về chất lượng và giá trị. Xuất khẩu của ta sang ASEAN chiếm 11,4% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước trong 9 tháng đầu năm 2015. Từ những mặt hàng truyền thống mà ta có thế mạnh như nông sản sơ chế và nguyên nhiên liệu như gạo, cà phê, cao su, dầu thô có hàm lượng chế tác thấp, thời gian qua Việt Nam đã xuất khẩu nhiều mặt hàng tiêu dùng, hàng công nghiệp như linh kiện máy tính, dệt may, nông sản chế biến với giá trị cao và ổn định. Việt Nam và các nước ASEAN khác cùng gia nhập các câu lạc bộ các nước xuất khẩu lớn nhất trên thế giới về gạo, cao su, cà phê, hạt điều, hàng dệt may.

- Việt Nam là điểm đến đầu tư khá hấp dẫn của các nhà đầu tư ASEAN và và các nhà đầu tư khác đóng trụ sở tại ASEAN. Tính đến hết năm 2014, Xinh-ga-po, Ma-lay-xia, Thái Lan là ba nước thành viên ASEAN nằm trong danh sách 10 đối tác có vốn đăng ký FDI lớn nhất vào Việt Nam.

Trong khuôn khổ hội nhập nền kinh tế khu vực và toàn cầu:

- Trọng tâm của Cộng đồng Kinh tế ASEAN là sáng kiến phát triển thị trường và cơ sở sản xuất ASEAN chung dựa trên sự kết nối sức mạnh của thị trường 10 nước ASEAN với hơn 600 triệu người tiêu dùng và tổng GDP gần 3.000 tỷ đô la Mỹ/năm.

- Việt Nam có quy mô dân số 90 triệu người dân, với tỷ lệ dân số trẻ ở mức cao, tổng GDP 184 tỷ đô la Mỹ năm 2014, tốc độ tăng trưởng kinh tế 5,9% năm 2014 và 6,3% nửa đầu năm 2015. Vì thế, Việt Nam đóng góp đáng kể cho ASEAN cả về ý nghĩa thị trường và cơ sở sản xuất.

- Việt Nam đã cùng với các nước ASEAN hợp tác sâu rộng với nhiều đối tác quan trọng, đặc biệt trên cơ sở các FTA giữa ASEAN với Ấn Độ, Hàn Quốc, Nhật Bản, Ôt-xtrây-lia, Niu Di-lân và Trung Quốc, tích cực thúc đẩy việc đàm phán Hiệp định đối tác kinh tế toàn diện khu vực [RCEP]. Các nội dung hợp tác này đặt ASEAN vào vị trí trung tâm trong cấu trúc hội nhập kinh tế khu vực đang nổi lên và trở thành một trung tâm sản xuất và thị trường quan trọng của thế giới.

- Việt Nam cũng đồng thời tham gia nhiều các FTA với các đối tác ngoài khối như Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương, FTA với EU, với Liên minh Kinh tế Á-Âu, v.v. càng mở rộng khả năng tiếp cận thị trường và nâng cao tính ổn định, bền vững của thương mại và đầu tư thông qua các cam kết về môi trường kinh doanh, thương mại và đầu tư.

- Bởi vậy, Việt Nam đóng vai trò là một điểm đến quan trọng cho đầu tư nước ngoài để sản xuất cho khu vực ASEAN và nhiều thị trường quan trọng. Đi cùng với đầu tư là dòng hàng hóa, dịch vụ và lao động có kỹ năng mà Việt Nam cần để nâng cao khả năng sản xuất của mình. Việt Nam cần hàng hóa phục vụ sản xuất và tiêu dùng chất lượng cao, công nghệ tiên tiến, hiện đại để nâng cao khả năng cạnh tranh trong bối cảnh hội nhập.

- Do đó, dự kiến Việt Nam sẽ tận dụng tốt nền tảng hội nhập kinh tế khu vực ASEAN để tăng cường liên kết và hội nhập kinh tế với nền kinh tế toàn cầu, tham gia vào các chuỗi cung ứng, chuỗi giá trị của thế giới trong tương lai.

IV. Đánh giá tác động tổng thể của AEC đối với Việt Nam

- Quyết định gia nhập ASEAN là một bước đi chiến lược đúng đắn, mang lại lợi ích quan trọng và thiết thực cho Việt Nam. Đây là dấu mốc quan trọng, điểm đột phá đầu tiên trong tiến trình hội nhập quốc tế của Việt Nam, góp phần triển khai chủ trương chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, trong đó có hội nhập kinh tế quốc tế của Đảng và Nhà nước.

- Sau 20 năm gia nhập ASEAN [28/7/1995-28/7/2015], cùng với sự phát triển mạnh mẽ của Hiệp hội với việc thúc đẩy tiến trình hình thành Cộng đồng ASEAN vào cuối năm 2015 và xây dựng Tầm nhìn Cộng đồng 2025, Việt Nam đang đứng trước nhiều cơ hội cũng như thách thức trong quá trình tham gia hợp tác ASEAN, cụ thể:

Cơ hội:

- Sau khi hình thành vào cuối năm nay, AEC cơ bản sẽ trở thành một thị trường chung gồm khoảng 600 triệu người tiêu dùng với tổng GDP gần 3.000 tỷ USD, một không gian sản xuất thống nhất, giúp phát huy lợi thế chung của khu vực ASEAN. Hàng hóa, dịch vụ, vốn, công nghệ và lao động có tay nghề sẽ được tự do lưu chuyển trong ASEAN mà không chịu bất cứ hàng rào hay sự phân biệt đối xử nào giữa các thành viên.

- Việt Nam sẽ có cơ hội dễ dàng tiếp cận thị trường trong và ngoài khu vực, qua đó mở rộng thị trường, đa dạng hóa mặt hàng xuất khẩu; ổn định nguồn nhập khẩu và hạ giá đầu vào nhập khẩu, từ đó, góp phần cải cách quản lý, dịch chuyển cơ cấu kinh tế và thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội.

Từ trước tới nay, ASEAN luôn là đối tác thương mại quan trọng của Việt Nam. Tính đến 9 tháng đầu năm 2015, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hoá của Việt Nam với thị trường ASEAN đạt 31,3 tỷ USD. Các doanh nghiệp Việt Nam đã xuất khẩu hàng hóa sang khu vực thị trường ASEAN đạt trị giá 13,7 tỷ USD và chiếm 11,4% kim ngạch xuất khẩu của cả nước ra thế giới. Ở chiều ngược lại, các doanh nghiệp Việt Nam đã nhập khẩu xấp xỉ 17,6 tỷ USD hàng hóa có xuất xứ từ các nước ASEAN, chiếm 14,1% tổng kim ngạch nhập khẩu của cả nước từ tất cả các thị trường. Tính đến tháng 9 năm 2015, ASEAN đang là thị trường xuất khẩu lớn thứ 3 của Việt Nam, sau Hoa Kỳ và Liên minh châu Âu và là thị trường nhập khẩu lớn thứ 3 của Việt Nam sau Trung Quốc và Hàn Quốc.

- Việt Nam sẽ có cơ hội tăng cường thu hút FDI cũng như mở rộng cơ hội đầu tư sang các nước ASEAN và cơ hội kinh doanh từ bên ngoài; tiếp cận các nguồn hỗ trợ về khoa học-công nghệ, học tập kinh nghiệm quản lý tiên tiến, góp phần nâng cao trình độ và năng lực của đội ngũ cán bộ và đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao.

Tính đến hết tháng 10 năm 2015, ASEAN có 2.629 dự án FDI còn hiệu lực với tổng số vốn đăng ký 56,55 tỷ USD, bình quân 1 dự án là 21,51 triệu USD/dự án cao hơn so với bình quân đầu tư 1 dự án nước ngoài đầu tư tại Việt Nam là 13,9 triệu USD/dự án.

Xinh-ga-po dẫn đầu với 1.469 dự án, tổng vốn đầu tư là 33,9 tỷ USD, chiếm 60% tổng vốn đăng ký. Đứng thứ 2 là Ma-lai-xia với 510 dự án, tổng vốn đăng ký là 13,36 tỷ USD, chiếm 24% tổng vốn đầu tư. Thái Lan đứng thứ 3 với 406 dự án, tổng vốn đầu tư là 7,03 tỷ USD chiếm 12% tổng vốn đầu tư.

- Các doanh nghiệp sẽ được hưởng lợi lớn nhờ phát huy hiệu quả từ quy mô để tăng năng suất và giảm chi phí sản xuất, dẫn tới giá cả hàng hóa cạnh tranh. Điều mong đợi hơn cả là việc AEC có thể tạo nên sự liên kết chuỗi giữa các doanh nghiệp ASEAN, đóng góp vào tăng trưởng và thịnh vượng chung của khu vực. Bên cạnh đó, định hướng cải thiện môi trường kinh doanh, tạo thuận lợi cho thương mại mà ASEAN đang đặt ra cho giai đoạn sau 2015 sẽ góp phần thúc đẩy hoạt động đầu tư, kinh doanh của các doanh nghiệp.

- Người tiêu dùng ASEAN sẽ có nhiều lựa chọn về hàng hóa và dịch vụ với giá cả thấp và chất lượng cao hơn. Thương mại và đầu tư nội khối có cơ hội phát triển nhanh chóng.

- Những tác động tích cực từ AEC sẽ góp phần tạo chuyển biến trong việc xây dựng và hoàn thiện chính sách, luật lệ và thủ tục trong nước, phù hợp hơn với yêu cầu hội nhập quốc tế.

- Việc thực hiện các cam kết trong ASEAN tạo nền tảng để Việt Nam tiếp tục mở rộng và tăng cường quan hệ với các đối tác ngoài ASEAN, nhất là các nước lớn, cũng như tham gia sâu rộng hơn vào các khuôn khổ hợp tác khu vực và quốc tế, qua đó góp phần nâng cao vai trò và vị thế quốc tế của Việt Nam.

- Ngoài ra, tham gia hợp tác kinh tế ASEAN tạo cơ hội để các doanh nghiệp cải thiện năng lực cạnh tranh; tạo cơ hội để Việt Nam tiếp tục thay đổi cơ cấu xuất khẩu theo hướng tăng giá trị gia tăng [từ xuất khẩu nguyên liệu thô sang mặt hàng có chất lượng cao]; nâng cao năng lực và hiệu quả của nguồn nhân lực Việt Nam….

Thách thức:

Thách thức lớn nhất đối với Việt Nam là môi trường cạnh tranh gay gắt hơn do hội nhập kinh tế khu vực mang lại, đặc biệt khi các quốc gia thành viên có đặc điểm sản xuất khá giống nhau, có những thế mạnh chung trong nhiều lĩnh vực. Trong khi đó, năng lực cạnh tranh của nền kinh tế còn cần được cải thiện nhiều hơn nữa, liên quan đến nhiều nguyên nhân như hạn chế về hạ tầng, bao gồm cả các yếu tố hạ tầng cứng [đường sá, cảng biển, năng lượng,…] và hạ tầng mềm [hệ thống pháp lý, bộ máy hành chính…], hạn chế về nguồn nhân lực, tốc độ điều chỉnh cơ cấu kinh tế để lợi ích tăng trưởng kinh tế được phân bổ đồng đều hơn, hạn chế về nhận thức của các cấp, các ngành, doanh nghiệp, người dân trong việc ứng xử với quá trình hội nhập kinh tế.

Ngoài ra, việc tuân thủ luật chơi chung và thực hiện các cam kết, thỏa thuận chung của ASEAN và giữa ASEAN với các nước đối tác, đòi hỏi đầu tư nguồn lực và điều chỉnh chính sách, pháp luật phù hợp.

Tuy nhiên, xét một cách tổng thể, AEC sẽ đem lại nhiều cơ hội và lợi ích thiết thực cho nền kinh tế, đặc biệt là cho các doanh nghiệp Việt Nam nói riêng và doanh nghiệp ASEAN nói chung./.
Nguồn: Vụ chính sách thương mại đa biên - Bộ Công Thương

Chia sẻ bài viết qua mạng xã hội:

Video liên quan

Bài Viết Liên Quan

Toplist mới

Bài mới nhất

Chủ Đề