1. Bản chất của tâm lý người
Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định: Tâm lý người là sự phản ánh hiện thực khách quan vào não người thông qua chủ thể tâm lý người có bản chất xã hội - lịch sử.
1.1. Tâm lý người là sự phản ánh hiện thực khách quan vào não người thông qua chủ thể
Tâm lý người không phải do thượng đế, do trời sinh ra, cũng không phải là do não tiết ra như gan tiết ra mật. tâm lý người là sự phản ánh hiện thực khách quan vào não con người thông qua,"lăng kính chủ quan".
Thế giới khách quan tồn tại bằngcác thuốộ tính không gian, thời gian và luông vận động. Phản ánh là thuộc tính chung của mọi sự vật, hiện tượng đang vận động. Nói một cách chung nhất, phản ánh là quá trình tác động qua lại giữa hệ thống này và hệ thống khác, kết quả là để lại dấu vết [hình ảnh] tác động ở cả hệ thống tác động và hệ thống chịu sự tác động, chẳng hạn:
+ Viên phấn được dùng để viết lên bảng đen để lại vết phấn trên bảng và ngược lại bảng đen làm mòn [để lại vết] trên viên phấn [phản ánh cơ học].
+ Hệ thống khí hyđrô tác động qua lại với hệ thống khí ôxi, đó là phản ánh [phản ứng] hoá học để lại một vết chung của hai hệ thống là nước [2H2 + o2 = 2H2o].
Phản ánh diễn ra từ đơn giản đến phức tạp và có sự chuyển hoá lẫn nhau, từ phản ánh cơ vật lí, hoá học đến phản ánh sinh vật và phản ánh xã hội, trong đó có phản ánh tâm lý.
- Phản ánh tâm lý là một loại phản ánh đặc biệt:
+ Đó là sự tác động của hiện tượng khách quan vào con người, vào hệ thần kinh, bộ não người -tổ chức cao nhất của vật chất, Chỉ có hệ thần kinh và bộ não người mới có khả năng nhận tác động của hiện thực khách quan, tạo ra trên não hình ảnh tinh thần [tâm lý] chứa đựng trong vết vật chất, đó là các quá trình sinh lí, sinh hoá ở trong hệ thần kinh và não bộ. C. Mác nói: Tinh thần, tư tưởng, tâm lý... chẳng qua là vật chất được chuyển vào trong đầu óc, biến đổi trong đó mà có.
Điều đó có nghĩa là, về mặt cơ chế hình thành và diễn biến của tâm lý có thể coi tâm lý diễn ra theo cơ chế một phản xạ có điều kiện với ba khâu chủ yếu sau:
Khâu thứ nhất là khâu tiếp nhận các kích thích từ thế giới bên ngoài tạo nên hưng phấn dẫn truyền vào não theo đường hướng tâm.
Khâu thứ hai, diễn ra ở trung ương thần kinh của bộ não, tạo nên các hình ảnh tâm lý.
Khâu thứ ba - khâu trả lời, dẫn truyền hưng phấn từ trung ương thần kinh theo đường li tâm gây nên các phản ứng của cơ thể. Người ta coi tất cả các hiện tượng tâm lý đều có cơ sở sinh lí là các phản xạ có điều kiện.
+ Phản ánh tâm lý lí tạo ra "hình ảnh tâm lý" [bản "sao chép", "bản chụp"] về thế giới, hình ảnh tâm lý là kết quả của quá trình phản ánh thế giới quan vào não. Song hình ảnh tâm lý khác về chất so với các hình ảnh cơ, vật lí, sinh vật ở chỗ:
Hình ảnh tâm lý mang tính Sinh động, sáng tao, thí dụ: hình ảnh tâm lý về cuốn sách trong đầu một con người biết chữ, khác xa về vật chất với hình ảnh vật lí có tính chất "chét cứng", hình ảnh vật chất của chính cuốn sách đó có ở trong gương.
Hình ảnh tâm lý mang tính chủ thể, mang đậm màu sắc cá nhân [hay nhóm người] mang hình ành tâm lý đó, hay nói cách khác hình ảnh tâm lý là hình ảnh chủ quan về hiện thực khách quan. Tính chủ thể của hình ảnh tâm lý thể hiện ở chỗ: mỗi chủ thể trong khi tạo ra hình ảnh tâm lý về thế giới đã đưa vốn hiểu biết, vốn kinh nghiệm, đưa cái riêng của mình [về nhu cầu, xu hướng, tính khí, năng lực]... vào trong hình ảnh đó, làm cho nó mang đậm màu sắc chủ quan.
Hay nói cách khác, con người phản ánh thế giới bằng hình ảnh tâm lý, thông qua "lăng kính chủ quang của mình.
- Tính chủ thể trong phản ánh tâm lý thể hiện ở chỗ:
+ Cùng nhận sự tác động của thế giới về cùng một hiện thực khách quan nhưng ở những chủ thể khác nhau xuất hiện những hình ảnh tâm lý với những mức độ, sắc thái khác nhau.
+ Cũng có khi cùng một hiện thực khách quan tác động đến một chủ thể duy nhất nhưng vào những thời điểm khác nhau, ở những hoàn cảnh khác nhau với trạng thái cơ thể, trạng thái tinh thần khác nhau, có thể cho ta thấy mức độ biểu hiện và các sắc thái tâm lý khác nhau ở chủ thể ấy.
+ Chính chủ thể mang hình ảnh tâm lý là người cảm nhận, cảm nghiệm và thể hiện nó rõ nhất.
+ Cuối cùng thông qua các mức độ và sắc thái tâm lý khác nhau mà mỗi chủ thể tỏ thái độ, hành vi khác nhau đối với hiện thực.
Do đâu mà tâm lý người này khác tâm lý người kia về thế giới khách quan?
Điều đó do nhiều yếu tố chi phối. trước hết, do mỗi con người có những đặc điểm riêng về cơ thể, giác quan, hệ thần kinh và não bộ. Mỗi người có hoàn cảnh sống khác nhau, điều kiện giáo dục không như nhau và đặc biệt là mỗi cá nhân thể hiện mức độ tích cực hoạt động, tích cực giao lưu khác nhau trong cuộc sống. Vì thế, tâm lý người này khác tâm lý người kia.
Từ luận điểm nói trên, chúng ta có thể rút ra một số kết luận thực tiễn sau:
- Tâm lý có nguồn gốc là thế giới khách quan, vì thế khi nghiên cứu, cũng như khi hình thành, cải tạo tâm lý người phải nghiên cứu hoàn cảnh trong đó con người sống và hoạt động.
- Tâm lý người mang tính chủ thể, vì thế trong dạy học, giáo dục cũng như trong quan hệ ứng xử phải chú ý nguyên tắc sát đối tượng [chú ý đến cái riêng trong tâm lý mỗi người].
- Tâm lý là sản phẩm của hoạt động và giao tiếp, vì thế phải tổ chức hoạt động và các quan hệ giao tiếp đế nghiên cứu, hình thành và phát triển tâm lý con người.
1.2. Bản chất xã hội của tâm lý người
- Tâm lý người là sự phản ánh hiện thực khách quan, là chức năng của não, là kinh nghiệm xã hội lịch sử biến thành cái riêngcủa mỗi người.. âm lý con người khác xa với tâm lý của một số loài động vật cao cấp ở chỗ: tâm lý người - có bản chất xã hội và mang tính lịch sử.
- Bản chất xã hội và tính lịch sử của tâm lý người thể hiện như sau:
+ Tâm lý người có nguồn gốc là thế giới khách quan [hếgiới tự nhiên và xã hội], trong đó cuộc sống xã hội là cái quyết định [quyết định luận xã hội]. Ngay cả phần tự nhiên trong thế giới cũng được xã hội hoá. Phần xã hội hoá thế giới quyết định tâm hlíngười thể hiện qua: các quan hệ kinh tế - xã hội, các mối quan hệ đạo đức pháp quyền, các mối quan hệ con người -con người từ quan hệ gia đình, làng xóm, quê hương, khối phố cho đến các quan hệ nhóm, các quan hệ cộng đồng... các mối quan hệ trên quyết định bản chất tâm lý người [bản chất con người là sự tổng hoà các mối quan hệ xã hội]. Trên thực tế, con người thoát li khỏi các quan hệ xã hội, quan hệ người - người, đều làm cho tâm lý mất bản tính người [những trường hợp trẻ em do động vật nuôi từ bé, tâm lý của các trẻ này không hơn hẳn tâm lý loài vật].
+ Tâm lý người là sản phẩm của hoạt động và giao tiếp của con người trong các mối quan hệ xã hội. Con người là một thực thể tự nhiên và điều chủ yếu là một thực thể xã hội. Phần tự nhiên ở con người [như đặc điểm cơ thể, giác quan, thần kinh, bộ não] được xã hội hoá ở mức cao nhất. Là một thực thể xã hội, con người là chủ thể của nhận thức, chủ thể của hoạt động, giao tiếp với tư cách một chủ thể tích cực, chủ động sáng tạo, tâm lý của con người là sản phẩm của hoạt động con người với tư cách là chủ thể xã hội, vì thế tâm lý người mang đầy đủ dấu ấn xã hội lịch sử của con người.
+ Tâm lý của mỗi cá nhân là kết quả của quá trình lĩnh hội, tiếp thu vốn kinh nghiệm xã hôi, nền văn hoá xã hội, thông qua hoạt động, giao tiếp [hoạt động vui chơi, học tập, lao động, công tác xã hội], trong đó giáo dục giữ vai trò chủ đạo hoạt động của con người và mối quan hệ giao tiếp của con người trong xã hội giữ vai trò quyết định.
+ Tâm lý của mỗi người hình thành, phát triển và biến đổi cùng với sự phát triển của lịch sử dân tộc và cộng đồng. Tâm lý của mỗi người chịu sự chế ước bởi lịch sử của cá nhân và cộng đồng.
Tóm lại, tâm lý người có bản chất xã hội, vì thế phải nghiên cứu môi trường xã hội, nền văn hoá xã hội, các quan hệ xã hội trong đó con người sống và hoạt động. Cần phải tổ chức có hiệu quả hoạt động dạy học và giáo dục, cũng như các hoạt động chủ đạo ở từng giai đoạn lứa tuổi khác nhau để hình thành, phát triển tâm lý con người...
Tác phẩm, tác giả, nguồn
- Tác phẩm: Giáo trình Tâm lý học đại cương
- Tác giả: Nguyễn Xuân Thức [Chủ biên] - Nguyễn Quang Uẩn - Nguyễn Văn Thạc - Trần Quốc Thành - Hoàng Anh - Lê Thị Bừng - Vũ Kim Thanh - Nguyễn Kim Quý - Nguyễn Thị Huệ - Nguyễn Đức Sơn
- Nguồn: Nhà Xuất bản Đại học Sư Phạm, 2007
Khi ta nhìn, quan sát thấy một sự vật hiện tượng, biểu tượng đó xuất hiện trong đầu của chúng ta. Đó chính là biểu tượng tâm lí.
Khi chúng ta vui hoặc buồn, trạng thái vui hay buồn đó cũng là tâm lí.
Khi chúng ta suy nghĩ và đưa ra một nhận định, đánh giá nào đó, những nhận định đánh giá của chúng ta cũng là các hiện tượng tâm lí.
Có những sự việc không diễn ra tức thời như quá trình suy nghĩ hay như trạng thái vui, buồn mà nó chỉ là những khái quát từ các hiện tượng tâm lí khác.
Ví dụ: khi ta nói yêu lao động thì chúng ta đã đề cập đến một nét tính cách của con người. Đối với một con người như vậy họ rất trân trọng, quý trọng sản phẩm của lao động.
Trong ngôn ngữ Việt, bên cạnh thuật ngữ tâm lí còn có thuật ngữ tâm hồn. Đôi khi người ta tách chữ tâm riêng, chữ hồn riêng. Trong Từ điển tiếng Việt [1988], tâm hồn được định nghĩa là ý nghĩ và tình cảm, làm thành đời sống nội tâm, thế giới bên trong của mỗi con người.
Các hiện tượng tâm lí, tâm hồn của con người đều có nguồn gốc từ bên ngoài, là sự phản ánh thế giới khách quan. Thế giới vật chất được chuyển vào não, dưới các dạng biểu tượng, hình ảnh đó không dừng lại ở mức độ xơ cứng, bất biến. Nhờ có các giác quan, chúng ta có được những biểu tượng về các sự vật, hiện tượng của thế giới khách quan. Từ vô số các hình ảnh, biểu tượng về những ngôi nhà có thực, trong óc con người dần khái quát hoá, thu gọn tất cả những biểu tượng đó vào một khái niệm: nhà. Chính ngôn ngữ đã giúp cho khả năng nhận biết của con người về thế giới bên ngoài tăng lên một cách đột phá.
Cũng nhờ có ngôn ngữ, tư duy của con người đã chuyển sang một bước ngoặt vĩ đại: từ tư duy bằng tay con người chuyển sang tư duy bằng khái niệm. Nhờ có tư duy bằng khái niệm, con người đã có khả năng “nhìn” sâu vào những cái mà bằng mắt thường không thể nhìn thấy. Bằng mắt, con người không thể nào nhìn thấy đường đi của hạt ánh sáng song bằng tư duy thì có thể.
Như vậy có thể nhận thấy các hiện tượng tâm lí - thế giới nội tâm của con người, mặc dù là sự phản ánh thế giới bên ngoài song nó là các hiện tượng tinh thần. Thế giới tinh thần này cũng có những cơ chế, quy luật hoạt động cho riêng mình. Bản thân nó có cấu trúc phức tạp. Để có thể nghiên cứu sâu hơn các hiện tượng tâm lí, người ta phân chia chúng thành các lớp hiện tượng khác nhau.
Phân loại các hiện tượng tâm lí.
Có rất nhiều cách phân loại các hiện tượng tâm lí khác nhau. Ở đây chúng tôi chỉ giới thiệu một số cách phân loại thường thấy.
Ý thức và vô thức:
Ý thức:Khái niệm: có nhiều lĩnh vực quan tâm đến ý thức: Triết học, Giáo dục học, Tâm thần học, Tâm lí học…
Với Tâm thần học, ý thức chủ yếu giới hạn ở khả năng định hướng của con người: định hướng thời gian, định hướng không gian và định hướng bản thân. Khái niệm ý thức trong Tâm lí học được hiểu rộng hơn so với Tâm thần học. Như trên đã đề cập, những hình ảnh mà chúng ta quan sát được, những ý nghĩ và nhận định mà chúng ta có được trong quá trình tư duy… đều là những hiện tượng tâm lí. Khi những hiện tượng tâm lí đó lại là đối tượng để chúng ta suy nghĩ: tại làm sao chúng ta quan sát được? Liệu những suy nghĩ và quyết định của chúng ta có đúng hay không?…Khi đó các hiện tượng tâm lí đã được nâng cấp lên bình diện mới: bình diện ý thức. Nói một cách khác, ý thức chính là năng lực hiểu được các hiểu biết. Nói một cách khác, nếu các hiện tượng tâm lí là sự phản ánh thế giới khách quan thì sự phản ánh đó lại một lần nữa được phản ánh lại trong ta - đó chính là ý thức.
Ở động vật cũng có sự phản ánh tâm lí. Tuy nhiên sự phản ánh này chỉ dừng lại ở đó mà không có sự phản ánh lại một lần nữa. Con vật cũng có những khả năng nhận biết song chúng không nhận biết được rằng chúng đang nhận biết. Chúng không có ý thức.
Trong ý thức của con người có một bộ phận đóng vai trò quan trọng: tự ý thức. Tự ý thức là năng lực hiểu được chính mình, hiểu được những mong muốn, những xu hướng của mình. Tự ý thức được xem là “bộ máy chỉ huy” cao nhất trong toàn bộ ý thức của con người.
Cấu trúc: theo quan niệm chung, ý thức bao gồm 3 tầng bậc chính: nhận thức cảm tính, nhận thức lí tính và hoạt động.
Nhận thức cảm tính bao gồm 2 quá trình chính gắn bó mật thiết với nhau là cảm giác và tri giác. Các biểu tượng của nhận thức cảm tính giúp chúng ta nhận biết được sự tồn tại của thế giới bên ngoài, làm ranh giới giữa thức và ngủ, giữa tỉnh và say.
Nhận thức lí tính cung cấp cho chúng ta những hiểu biết một cách khái quát, những mối quan hệ bên trong của sự vật, hiện tượng.
Trong tầng bậc hoạt động, các hành động có ý thức đóng vai trò là những đơn vị cơ bản. Hành động có ý thức là quá trình con người sử dụng những hiểu biết, kinh nghiệm của mình tác động vào thế giới hiện thực nhằm thoả mãn những nhu cầu của bản thân và xã hội.
Vô thức:Vô thức là những hiện tượng tâm lí không được ý thức. Nó bao gồm:
Những hành động hoặc những cảm giác diễn ra nhưng người ta không nhận biết được nguyên nhân.
Thành phần tự động hóa trong các kĩ năng, kĩ xảo.
Trạng thái mất ý thức do nguyên nhân sinh lí tự nhiên [mơ ngủ] hoặc do bệnh lí [chấn thương sọ não, sốt cao] hay nhân tạo [gây mê].
Trực giác.
Mặc dù đã có khá nhiều nghiên cứu tập trung vào vô thức song vẫn còn nhiều điều chưa được sáng tỏ trong lĩnh vực này.
Tâm lí bao gồm các quá trình, trạng thái và thuộc tính:
Đây là cách chia dựa vào thời gian tồn tại và vị trí tương đối của chúng trong nhân cách.
Các quá trình tâm lý: là những hiện tượng tâm lí diễn ra trong một khoảng thời gian ngắn, có mở đầu, diễn biến và kết thúc tương đối rõ ràng. Các quá trình đều có sản phẩm của mình. Đó có thể là các biểu tượng của nhận thức cảm tính, là khái niệm, nhận định của tư duy, là rung cảm của cảm xúc…
Các trạng thái tâm lí: là những hiện tượng tâm lí diễn ra trong khoảng thời gian dài, mở đầu và kết thúc không rõ ràng và luôn luôn đi kèm theo, làm nền cho các quá trình tâm lí. Ví dụ như chú ý, tâm trạng…
Các thuộc tính tâm lí: là những hiện tượng tâm lí tương đối ổn định, hình thành chậm song cũng khó mất đi, tạo thành những nét riêng của nhân cách. Thuộc tính tâm lí chính là sự khái quát phối hợp giữa một số quá trình tâm lí với trạng thái tâm lí. Nét nhân cách có thể được xem xét một cách riêng biệt, ví dụ, tính cẩn thận, song chúng cũng có thể kết hợp tạo thành nhóm. Ví dụ như xu hướng, tính cách, năng lực, khí chất.
Tâm lí bao gồm ba mặt:
Nhận thức: là các quá trình tâm lí giúp cho con người nhận biết được sự vật, hiện tượng, các mối quan hệ của những sự vật hiện tượng đó. Nhận thức gồm 2 nhóm chính là nhận thức cảm tính [cảm giác và tri giác] và nhận thức lí tính [chủ yếu là tư duy].
Đời sống tình cảm: nếu như các quá trình nhận thức đem lại cho con người hiểu biết về thế giới khách quan thì đời sống tình cảm lại thể hiện mối quan hệ của chủ thể đối với các sự vật hiện tượng. Tuy nhiên không phải đối với mọi sự vật hiện tượng mà chỉ là đối với những sự vật hiện tượng có liên quan đến sự thoả mãn nhu cầu của chủ thể mà thôi. Gọi nó là đời sống hay lĩnh vực bởi nó mang tính tổng thể [một cách tương đối] và bởi vì trong thành phần của nó có nhiều các thành tố khác nhau, trải dài từ những màu sắc cảm xúc của cảm giác cho đến tình cảm. Ngay trong lĩnh vực này, sự tách biệt đâu là quá trình, đâu là trạng thái, thuộc tính cũng chỉ mang tính tương đối.
Ý chí: là mặt năng động của ý thức, biểu hiện ở năng lực thực hiện những hành động có mục đích, đòi hỏi phải có sự nỗ lực khắc phục khó khăn. Ý chí là hình thức tâm lí điều chỉnh hành vi tích cực nhất ở con người. Nhờ có ý chí, con người chuyển được từ nhận thức và rung động sang hoạt động thực tiễn. Ý chí luôn đi kèm với hành động do vậy lĩnh vực này còn được gọi là hành động ý chí.
Thế giới các hiện tượng tâm lí của con người là một chỉnh thể trọn vẹn, thống nhất, không thể chia cắt được. Sự phân chia thành các lớp, loại, lĩnh vực trước hết nhằm phục vụ mục đích nghiên cứu sâu hơn thế giới trừu tượng này. Mỗi cách phân loại đều có ưu điểm và nhược điểm nhất định. Ngay trong từng cách phân loại cũng đã mang tính tương đối bởi lẽ không thể xác định được một cách chính xác ranh giới của các hiện tượng, ví dụ giữa ý thức và vô thức hoặc không thể tách biệt một cách máy móc đâu là trạng thái cảm xúc và đâu là quá trình cảm xúc.