Tại sao phải áp dụng pháp luật tương tự

Áp dụng tương tự pháp luật là áp dụng quy định của pháp luật điều chỉnh quan hệ dân sự tương tự trong trường hợp phát sinh quan hệ thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp luật dân sự mà các bên không có thỏa thuận, pháp luật không có quy định và không có tập quán được áp dụng.

Trường hợp không thể áp dụng tương tự pháp luật theo quy định thì áp dụng các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự, án lệ, lẽ công bằng.

Bình luận áp dụng tương tự pháp luật

Khoản 1 Điều 6 quy định: “Trường hợp phát sinh quan hệ thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp luật dân sự mà các bên không có thỏa thuận, pháp luật không có quy định và không có tập quán được áp dụng thì áp dụng quy định của pháp luật điều chỉnh quan hệ dân sự tương tự”. 

Do phạm vi điều chỉnh của BLDS có những nét đặc thù, nên việc áp dụng luật dân sự cũng có những đặc trưng riêng. Theo nguyên lý chung, áp dụng luật dân sự là hoạt động của những cơ quan, tổ chức có thẩm quyền căn cứ vào những tình tiết cụ thể của những sự kiện thực tế, vào nội dung cam kết, thỏa thuận cụ thể của các bên [trong trường hợp có thỏa thuận] hoặc căn cứ vào tập quán để ra những quyết định phù hợp.

Quyết định đó có thể là: xác nhận cho một chủ thể nhất định có những quyền, nghĩa vụ dân sự nào đó và áp dụng các biện pháp cưỡng chế, buộc một chủ thể phải chịu trách nhiệm dân sự trong những trường hợp cần thiết để bảo vệ lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền, lợi ích hợp pháp của chủ thể khác đối với quan hệ thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp luật dân sự.

Trong pháp luật dân sự, việc áp dụng có những nét đặc thù riêng. Khoản 1 Điều 6 BLDS năm 2015 cho phép: “Trường hợp phát sinh quan hệ thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp luật dân sự mà các bên không có thỏa thuận, pháp luật không có quy định và không có tập quán được áp dụng thì áp dụng quy định của pháp luật điều chỉnh quan hệ dân sự tương tự”.

Nghĩa là, việc áp dụng pháp luật dân sự vẫn được thực hiện ngay cả trong những trường hợp không có những quy định trực tiếp trong BLDS.

Trong trường hợp phát sinh quan hệ thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp luật dân sự, nhưng pháp luật không có quy định và không có tập quán được áp dụng các cơ quan nhà nước có thẩm quyền căn cứ vào các văn bản pháp luật có liên quan để công nhận một quyền nào đó cho một chủ thể; xác định quyền và nghĩa vụ của mỗi bên trong hợp đồng khi có tranh chấp; quyết định trách nhiệm dân sự đối với bên vi phạm…

Điều kiện áp dụng tương tự pháp luật?

Việc áp dụng áp dụng quy định của pháp luật điều chỉnh quan hệ dân sự tương tự cần có hai điều kiện sau đây:

– BLDS năm 2015 chưa có quy định tương tự nào về quan hệ dân sự hoặc sự kiện đang có tranh chấp.

– Hiện tại trong một số đạo luật, văn bản pháp luật khác dưới luật hoặc được quy định trong một số ngành luật khác có nội dung tương tự mà có thể áp dụng để giải quyết tranh chấp; xác nhận quyền, nghĩa vụ dân sự cho một chủ thể trong quan hệ dân sự cụ thể đó.

Khoản 2 Điều 6 quy định: “Trường hợp không thể áp dụng trong tự pháp luật theo quy định tại khoản 1 Điều này thì áp dụng các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự quy định tại Điều 3 của Bộ luật này, án lệ, lẽ công bằng”. 

Trong thực tế cuộc sống có không ít những trường hợp thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp luật dân sự vì nhiều nguyên nhân và lý do khác nhau mà các bên không có thỏa thuận, pháp luật không có quy định và không có tập quán được áp dụng, thì Tòa án và những cơ quan, tổ chức có thẩm quyền phải áp dụng các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự.

Khi có tranh chấp xảy ra, đương sự có đơn yêu cầu Tòa án hoặc các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giải quyết, ngoài việc áp dụng các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự để xem xét, thì còn có thể phải áp dụng án lệ, lẽ công bằng để giải quyết.

Như vậy, khi không thể áp dụng tương tự pháp luật theo quy định tại khoản 1 Điều 6, do pháp luật dân sự không có quy định cụ thể, nội dung trong quan hệ dân sự đó các chủ thể cũng không có cam kết, thỏa thuận cụ thể, thì áp dụng các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự quy định tại Điều 3 của Bộ luật này, án lệ, lẽ công bằng.

Việc áp dụng nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự và đặc biệt là áp dụng án lệ, lẽ công bằng trong quá trình giải quyết các tranh chấp dân sự là quy định lần đầu tiên được ghi nhận trong BLDS năm 2015. Nguyên tắc là khi có tranh chấp xảy ra, đương sự có đơn yêu cầu Tòa án hoặc các cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết thì các cơ quan này vận dụng nguyên tắc áp dụng tương tự điều luật để giải quyết.

Trước đây, theo quy định tại Điều 341 BLDS năm 2005: “Việc cầm cố tài sản tại cửa hàng cầm đồ được thực hiện theo quy định tại các điều từ Điều 326 đến Điều 340 của Bộ luật này và các văn bản pháp luật khác về hoạt động của cửa hàng cầm đồ”.

Nay BLDS năm 2015 không có quy định đã được ghi nhận tại Điều 341 BLDS năm 2005, tại tiểu mục 2 về cầm cố tài sản [theo các điều từ Điều 309 đến Điều 316], thì phải áp dụng các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự quy định tại Điều 3 của BLDS năm 2015, theo án lệ và lẽ công bằng.

Hiện nay, Tòa án nhân dân tối cao đang tiếp tục sưu tầm các án lệ có tính chất phổ quát đã được xã hội công nhận để áp dụng thống nhất cho các quan hệ dân sự đã được xem xét, giải quyết. Với quy định này, khi BLDS năm 2015 có hiệu lực thi hành, thì những án sẽ xét xử tại các Tòa án không được trái với án lệ đã được công bố.

Khi áp dụng các nguyên tắc cơ bản, Tòa án hoặc các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền phải bảo đảm yêu cầu: quy định tương tự của pháp luật không được trái với những nguyên tắc cơ bản được quy định trong BLDS; hoặc áp dụng án lệ và lẽ công bằng.

Nghĩa là: vận dụng tinh thần và các nguyên tắc cơ bản của BLDS năm 2015; quy định của những ngành luật khác hoặc các văn bản dưới luật có quy định để giải quyết. Ví dụ: Các tranh chấp về mồ mả, tranh chấp về sở hữu nhà từ đường, nhà thờ của dòng họ, các thánh thất tôn giáo; các tranh chấp quyền sử dụng đất đai là ruộng họ [ruộng hương hóa, bao gồm cả hương hỏa tổ truyền và hương hỏa sơ lập]; các hợp đồng hùn vốn góp vốn]…

Quy định về áp dụng tương tự pháp luật là đặc trưng của pháp luật dân sự nhằm làm cho các quan hệ dân sự luôn được sự điều chỉnh và bảo đảm bằng pháp luật nhưng cũng phải đáp ứng yêu cầu của pháp chế xã hội chủ nghĩa: không được trái với những nguyên tắc cơ bản được quy định trong Điều 3, BLDS năm 2015 và tinh thần chung của pháp luật Việt Nam hiện hành; không trái án lệ của ngành Tòa án và lẽ công bằng.

Tại Bản án 25/2019/DS-ST ngày 07/06/2019 về tranh chấp hợp đồng góp hụi có nội dung như sau:

“Trong các năm 2017 và 2018, bà T1 tham gia 01 dây hụi tháng và 03 dây hụi tuần, loại hụi hoa hồng và có lãi do vợ chồng bà Mai Thị C [tên ghi trong phơi hụi là N2], anh Trần Quốc T2 làm đầu thảo. Mỗi dây hụi bà T1 tham gia 01 phần, các phần hụi đều còn sống và đã góp tiền hụi đến ngày 23/8/2018 âm lịch thì bà C tuyên bố vỡ hụi ngưng khui.

Bà T1 đã đóng hụi số tiền là 18.600.000 đồng nên khi bà C vỡ hụi, bà T1 yêu cầu buộc bà C, anh T2 trả lại cho ông và bà T1 số tiền hụi”.

Tòa án nhân dân huyện Tam Bình đã quyết định Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Võ Thị Tuyết T1.Buộc bà Mai Thị C và anh Trần Quốc T2 cùng có trách nhiệm trả cho bà Võ Thị Tuyết T1 và ông Nguyễn Văn T3 số tiền 18.600.000 đồng.

Áp dụng quy định tương tự của pháp luật là trường hợp vận dụng quy định của pháp luật được xác lập đối với một hoàn cảnh cụ thể cho một hoàn cảnh tương tự nhưng chưa có giải pháp rõ ràng.

Một trong những đặc trưng của pháp luật dân sự là khả năng áp dụng quy định tương tự được ghi nhận rất phổ biến. Trong nhiều trường hợp cụ thể, Bộ luật dân sự đã ghi nhận khả năng này và các quy định sau đây cho thấy điều vừa nêu.

Bộ luật dân sự 2005 có quy định về nhà ở tại Điều 492 đến điều 499 nhưng không có quy định đối với thuê nhà để ở. Đối với thuê nhà không có mục đích để ở như để kinh doanh, để làm nhà xưởng thì Bộ luật dân sự 2005 ghi nhận khả năng áp dụng quy định tương tự tại Điều 500, theo đó “trong trường hợp pháp luật không có quy định khác thì quy định tại các điều từ điều 492 đến 499 của bộ luật này cũng được áp dụng đối với việc thuê nhà sử dụng vào mục đích khác không phải là thuê nhà ở”. Tương tự, Bộ luật dân sự 2005 có quy định về mua bán nhà từ điều 450 đến điều 454 nhưng không có quy định về mua bán nhà không có mục đích để ở và tại điều 455 quy định: Trong trường hợp pháp luật không có quy định khác thì các quy định tại các điều từ Điều 450 đến Điều 454 của Bộ luật này cũng được áp dụng đối với việc mua nhà sử dụng vào mục đích khác không phải là mua nhà ở.

Bên cạnh đó, Bộ luật dân sự 2005 có các quy định về mua bán tài sản từ điều 428 đến 448 nhưng có rất ít quy định liên quan đến trao đổi tài sản tại điều 463 và 464. Vì vậy các nhà làm luật đã áp dụng tương tự pháp luật tại khoản 4 điều  463 theo đó: “Các quy định về hợp đồng mua bán từ Điều 428 đến Điều 437 và từ Điều 439 đến Điều 448 của Bộ luật này cũng được áp dụng đối với hợp đồng trao đổi tài sản.”

Bộ luật dân sự 2015 có quy định về hợp đồng từ điều 385 đến điều 429 không có quy định về hợp đồng vô hiệu. Trong khi đó về bản chất cho thấy hợp đồng cũng chính là giao dịch dân sự nên tại khoản 1 Điều 407 quy định “Quy định về giao dịch dân sự vô hiệu từ Điều 123 đến Điều 133 của Bộ luật này cũng được áp dụng đối với hợp đồng vô hiệu”. Tương tự trong bộ luật dân sự có sự áp dụng qua lại các quy định của các loại hợp đồng với nhau, như trong khoản 2 Điều 455 về hợp đồng trao đổi tài sản có quy định: “Các quy định về hợp đồng mua bán từ Điều 430 đến Điều 439, từ Điều 441 đến Điều 449 và Điều 454 của Bộ luật này cũng được áp dụng đối với hợp đồng trao đổi tài sản”; khoản 1 Điều 501 về hợp đồng về quyền sử dụng đất: “Quy định chung về hợp đồng và nội dung của hợp đồng thông dụng có liên quan trong Bộ luật này cũng được áp dụng với hợp đồng về quyền sử dụng đất, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác”.

Trong thực tiễn xét xử tại bản án nêu trên, Tòa án áp dụng các quy định của Nghị định số 19/2019/NĐ-CP để giải quyết tranh chấp. Mặc dù, pháp luật không quy định việc chủ hụi tự ý ngưng khui hụi thì hụi viên đã góp hụi chưa lĩnh hụi được xem là đương nhiên rút khỏi dây hụi và được nhận lại tiền hụi đã góp.

Tuy nhiên, Tòa đã áp dụng thêm Điều 6 của Bộ luật Dân sự 2015 về áp dụng tương tự pháp luật quy định: “ Trường hợp phát sinh quan hệ thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp luật dân sự mà các bên không có thỏa thuận, pháp luật không có quy định và không có tập quán được áp dụng thì áp dụng quy định của pháp luật điều chỉnh quan hệ dân sự tương tự. Trường hợp không thể áp dụng tương tự pháp luật theo quy định tại khoản 1 Điều này thì áp dụng các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự quy định tại Điều 3 của Bộ luật này, án lệ, lẽ công bằng.” và điểm a khoản 2 Điều 10 của Nghị định số 19/2019/NĐ-CP quy định: “thành viên đã góp họ mà chưa lĩnh họ…được nhận lại các phần họ theo thỏa thuận. Trường hợp không có thỏa thuận, thành viên rút khỏi dây họ được nhận lại các phần họ đã góp tại thời điểm kết thúc dây họ…”.

Vì vậy, việc bà T1 yêu cầu bà C, anh T2 cùng có trách nhiệm trả lại số tiền hụi đã góp cho bà và ông T3 là có căn cứ đúng với quyền của hụi viên và nghĩa vụ của chủ hụi tham gia hụi hưởng hoa hồng, có lãi được quy định tại khoản 3 Điều 15, khoản 8 Điều 18 của Nghị định số 19/2019/NĐ-CP, phù hợp với lẽ công bằng.

Trên đây là một ví dụ thực tiễn về áp dụng tương tự pháp luật trong xét xử tại Tòa án, bạn đọc tham khảo và cho ý kiến.

Video liên quan

Chủ Đề