Tài sản nhà nước là gì cho ví dụ năm 2024

Tài sản là các nguồn tài nguyên kinh tế, được sở hữu hoặc kiểm soát bởi một cá nhân, tổ chức hay doanh nghiệp, có giá trị tiền tệ và có khả năng mang lại lợi ích trong tương lai. Tài sản có thể là các loại tài sản vật chất như đất đai, nhà cửa, máy móc, thiết bị sản xuất, hàng hóa... hoặc là tài sản vô hình như quyền sử dụng đất, quyền sử dụng thương hiệu, bằng sáng chế, bản quyền phần mềm, cổ phiếu, trái phiếu, tiền gửi ngân hàng, nợ khách hàng... Tài sản được sử dụng để định giá giá trị của một cá nhân, tổ chức hay doanh nghiệp, cũng như để quản lý và thực hiện các hoạt động kinh doanh, đầu tư và tài chính.

1.- Quyền sở hữu tài sản của công dân là quyền của công dân( chủ sở hữu) đối với tài sản thuộc sở hữu của mình.

-Nghĩa vụ tôn trọng tài sản của người khác:

+Công dân có nghĩa vụ tôn trọng tài sản của người khác.

+Không dc xâm phạm tài sản của ngkhac.

+Nhặt dc của rơi, trả lại cho chủ sở hữu hoặc báo lại cho cơ quan.

+Khi vay, nợ phải trả đúng hẹn.

+Khi mất mát, hư hỏng phải đền bù lại, bồi thường đúng giá trị cho chủ sở hữu.

2. ( Lấy vd như trên :))))

3. -Tài sản nhà nước gồm đất đai, tài nguyên nước, tài nguyên khoáng sản, nguồn lợi ở vùng biển, vùng trời, tài nguyên thiên nhiên khác và các tài sản do nhà nước đầu tư, quản lí là tai sản công thuộc sở hữu toàn dân do nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lí.

-Lợi ích công cộng là những lợi ích chung dành cho mng và xh. Tài sản nhà nước và lợi ích công cộng là cơ sở vật chất của xh để phát triển kinh tế của đất nc , nâng cao đời sống và vật chất tinh thần của nhân dân.

4. Bản thân em cần:

+ Nâng cao ý thức tìm hiểu và bảo vệ tài sản nhà nc và lợi ích cc.

+Tuyên truyền, dống góp, giải thích cho mọi người hiểu để cùng nhau bảo vệ tài sản nhà nc và lợi ích cc.

+Tố cáo,lên án, phê phán những hành vi vi phạm pháp luật về vs bảo vệ tài sản nhà nc và lọi ích cc.

5. - Quyền kn là quyền của công dân, đề nghị cơ quan, tô chức có thầm quyền xem sét lại các quyết định, các vc làm của cán bộ công chức nhà nước khi thực hiện công vụ theo quy định của pháp luật, quyết định kỉ luật, khi có căn cứ cho rằng, quyết định hoặc hvi đó trái pháp luật,xâm phạm quyền và lợi ích hợp phá của mình.

Vd: Anh Duy bị giám đốc cho thôi việc mà ko rõ lí do.

- Quyền tố cáo là quyền của công dân, báo cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền biết về 1 vụ việc, việc vi phạm pháp luật của bất cứ cơ quan,tổ chức, cá nhân nào gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại đến lợi ích của nhà nước, quyền, lợi ích hợp phám của coogn dân cơ quan, tổ chức.

Hãy bắt đầu từ quy định về quản lý tài sản công, bởi khái niệm tài sản công đã bao hàm tài sản nhà nước. Tại khoản 1, Điều 98, Luật Quản lý, sử dụng tài sản công năm 2017 có quy định: “1. Việc quản lý, sử dụng tài sản công do Nhà nước giao cho doanh nghiệp quản lý và đã được tính thành phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp được thực hiện theo quy định của Luật Quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp và pháp luật có liên quan”.

Chúng ta có nhiều tài sản công, nằm rải rác trong nhiều lĩnh vực. Ví dụ, trong lĩnh vực quân sự, tài sản công là hệ thống khí tài, vũ khí cùng các tài sản khác mà quân đội quản lý. Trong lĩnh vực hành chính, sự nghiệp, thì tài sản công là các bất động sản, phương tiện… mà các đơn vị hành chính, sự nghiệp đang quản lý.

Tài sản nhà nước là gì cho ví dụ năm 2024

Luật sư Trần Minh Hải, Giám đốc điều hành Công ty Luật Basico

Đối với lĩnh vực doanh nghiệp, phân tích từ quy định tại khoản 1, Điều 98, Luật Quản lý, sử dụng tài sản công nêu trên, thì tài sản công là gì? Đó là những tài sản mà Nhà nước giao cho doanh nghiệp quản lý, được tính thành phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp. Do vậy, phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp chính là tài sản nhà nước.

Lấy một ví dụ, Nhà nước sở hữu 3,2 triệu cổ phần tại một ngân hàng, tương đương với số tiền trị giá 32.000 tỷ đồng tính theo mệnh giá. Tại ngân hàng, thực chất Nhà nước chỉ là một cổ đông trong số hàng nghìn cổ đông tổ chức, cá nhân khác. Nếu như ngân hàng đó có một khoản tiền trị giá 32.000 tỷ đồng trong tài khoản, thì khoản tiền thuộc về ngân hàng chứ không phải của riêng Nhà nước.

Nhà nước không thể can thiệp, yêu cầu ngân hàng chuyển giao khoản tiền trong tài khoản đó để Nhà nước chiếm hữu, sử dụng. Bởi vì tài sản của một công ty độc lập với chính các cổ đông sở hữu nó. Một điều rõ ràng để khẳng định, tài sản của công ty không phải là tài sản nhà nước.

Trong ví dụ nêu trên, tài sản duy nhất thuộc sở hữu Nhà nước tại ngân hàng chính là 3,2 triệu cổ phần trị giá mệnh giá 32.000 tỷ đồng.

Phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp chính là cổ phần trong các công ty cổ phần, phần vốn góp trong các công ty trách nhiệm hữu hạn.

Vì lý do này, Luật Quản lý sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất - kinh doanh tại doanh nghiệp được ban hành với 66 điều luật, chỉ tập trung vào các vấn đề quản lý đối với phần vốn nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp.

Nhầm lẫn pháp luật về xác định tài sản nhà nước

Tham khảo từ một vụ án thực tế, cuối năm 2012, ông Nguyễn Huy Hùng về làm việc tại chi nhánh một ngân hàng có vốn nhà nước sở hữu chi phối. Phụ trách chi nhánh ngân hàng này, điều ông Hùng rất quan tâm là tình hình nợ tồn đọng và giải pháp xử lý.

Trùng thời điểm ông Hùng mới nhận vị trí Giám đốc, chi nhánh ngân hàng nhận được đề xuất cho bán tài sản bảo đảm nhằm xử lý nợ từ phía một người chủ tài sản bảo đảm. Lục trong hồ sơ lưu trữ tại chi nhánh ngân hàng, thì đây là trường hợp liên quan đến các khoản nợ xấu khó đòi của hai công ty kinh doanh sản phẩm gỗ. Hai khoản nợ này có tài sản bảo đảm là các quyền sử dụng đất, đã quá hạn trả nợ từ lâu và đã được ngân hàng trích lập 100% dự phòng tín dụng.

Chủ tài sản bảo đảm đề xuất cho phép chuyển nhượng các quyền sử dụng đất thế chấp để lấy tiền thanh toán nợ ngân hàng cho hai công ty nói trên. Điều kiện đặt ra là chủ tài sản bảo đảm được phép giữ lại một phần tiền bán tài sản bảo đảm, phần còn lại do ngân hàng xử lý.

Ông Hùng không tham gia vào việc cho vay đối với hai công ty nêu trên. Kiểm tra hồ sơ, số liệu dư nợ trong hệ thống, ông Hùng nhận thấy, đến thời điểm đó, các khoản nợ của hai công ty đã được xử lý toàn bộ bằng dự phòng tín dụng, đã được chuyển ra theo dõi tại ngoại bảng báo cáo tài chính và thậm chí xóa khỏi ngoại bảng theo quy định pháp luật. Một khi khoản nợ đã được xử lý bằng dự phòng tín dụng thì nếu bán được tài sản bảo đảm, bất cứ khoản tiền nào thu về cũng được coi ngay thành lợi nhuận bất thường. Nghĩ vậy, trên cương vị Giám đốc chi nhánh, ông Hùng đã quyết định cho phép chủ tài sản bảo đảm thực hiện xử lý nợ theo phương án đề xuất.

Tai bay vạ gió ập đến với ông Hùng vài năm sau đó, liên quan đến việc bán tài sản bảo đảm nói trên. Cơ quan điều tra, truy tố cho rằng, ông Hùng đã có sai phạm trong quy định nội bộ và quy định về bán tài sản bảo đảm trong Nghị định số 163 về giao dịch bảo đảm. Từ đó, ông Hùng bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo Điều 219, Bộ luật Hình sự về tội danh có tên gọi “Vi phạm quy định về quản lý, sử dụng tài sản nhà nước gây thất thoát, lãng phí”.

Câu hỏi đặt ra từ vụ án này là: Tài sản thế chấp có phải là tài sản nhà nước? Quy định về bán tài sản thế chấp có phải quy định về quản lý, sử dụng tài sản nhà nước?

Câu trả lời là không, nếu như chúng ta xác định chỉ có phần vốn nhà nước sở hữu tại doanh nghiệp mới là tài sản nhà nước. Với nguyên tắc xác định này, một khi số lượng cổ phần mà Nhà nước sở hữu tại ngân hàng của ông Hùng không bị hao hụt, mất mát, thì không có một tài sản nhà nước nào liên quan tới vụ án hình sự nêu trên.

Đồng thời, trách nhiệm quản lý, sử dụng tài sản nhà nước chỉ liên quan đến người được giao đại diện cho Nhà nước quản lý số cổ phần Nhà nước sở hữu tại ngân hàng. Vậy thì chưa nói có sai phạm hay không, việc bán tài sản thế chấp không có bất kỳ mối liên hệ pháp lý nào đến chế độ quản lý tài sản nhà nước tại doanh nghiệp. Không thể phát sinh một vụ án hình sự về tội “Vi phạm quy định về quản lý, sử dụng tài sản nhà nước gây thất thoát, lãng phí” từ việc bán tài sản thế chấp.

Còn nếu câu trả lời là có, thì một nghịch lý sẽ gây chấn động cả giới ngân hàng, nhất là tại những ngân hàng mà Nhà nước vẫn còn sở hữu chi phối. Bởi từ đây, bất cứ tài sản nào của ngân hàng cũng là tài sản nhà nước, bất cứ vi phạm quy trình nghiệp vụ nào cũng đều có thể bị coi là vi phạm quy định về quản lý sử dụng tài sản nhà nước.

Vụ án nói trên là một ví dụ điển hình cho sự rủi ro, bất cập phát sinh từ nhận định nhầm lẫn trong xác định đâu là tài sản nhà nước tại doanh nghiệp.

Thay đổi để phát triển

Đầu tư vốn vào doanh nghiệp, Nhà nước cũng có các quyền lợi bình đẳng như các cổ đông, thành viên khác của doanh nghiệp. Quyền tối thượng của cổ đông là được hưởng lợi tức từ kết quả kinh doanh của doanh nghiệp và được bảo đảm an toàn đồng vốn đầu tư. Muốn đạt được điều đó, doanh nghiệp lại phải nhờ cậy vào nguồn lực nhân sự của công ty. Không một sự sáng tạo, tận tâm nào của đội ngũ nhân sự có thể xây dựng dựa trên một cơ chế đe dọa trực diện bằng những án tù của ông chủ doanh nghiệp.

Do vậy, nếu như không xác định rõ ràng về giới hạn và phạm vi quản lý liên quan đến tài sản Nhà nước tại doanh nghiệp, chúng ta không có quyền mong mỏi vào sự cống hiến tận tâm của lực lượng nhân sự tại các doanh nghiệp mà Nhà nước còn sở hữu vốn chi phối.

Tài sản là gì cho ví dụ?

Tài sản là các nguồn tài nguyên kinh tế, được sở hữu hoặc kiểm soát bởi một cá nhân, tổ chức hay doanh nghiệp, có giá trị tiền tệ và có khả năng mang lại lợi ích trong tương lai. Tài sản có thể là các loại tài sản vật chất như đất đai, nhà cửa, máy móc, thiết bị sản xuất, hàng hóa...

Tài sản của Nhà nước bao gồm những gì?

Có thể kể đến một trong các loại tài sản Nhà nước gồm đất đai, rừng, núi, sông, hồ, nguồn nước, tài nguyên trong lòng đất, nguồn lợi ở vùng biển, thềm lục địa và vùng trời.

Như thế nào được gọi là tài sản?

Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản. 2. Tài sản bao gồm bất động sản và động sản. Bất động sản và động sản có thể là tài sản hiện có và tài sản hình thành trong tương lai.”

Tài sản Nhà nước thuộc quyền sở hữu của ai?

Như vậy, tài sản do nhà nước quản lý là tài sản công thuộc sở hữu toàn dân. Các trường hợp tài sản “thuộc về nhà nước” nêu tại khoản 1 này thực chất là tài sản thuộc sở hữu toàn dân, việc “thuộc về nhà nước” là thuộc về quyền đại diện chủ sở hữu, thống nhất quản lý.