Tác giả văn bản mùa xuân của tôi là ai

1. Giới thiệu chung

  • Tác giả: Vũ Bằng [1913-1984], sinh ra tại Hà Nội Tác phẩm: Trích trong " Nhớ Sài Gòn" NXB Thành Phố Hồ Chí Minh, 1994.
  • Tác phẩm:
    • Hoàn cảnh sáng tác: Tác phẩm viết trong hoàn cảnh đất nước bị chia cắt, tác giả sống trong vùng kiểm soát của Mỹ Ngụy, xa cách quê hương đất Bắc.
    • Thể loại: trích từ tùy bút

2. Phân tích tác phẩm:

a. Cảm nhận về quy luật tình cảm của con người với mùa xuân

Tình yêu mùa xuân là điều hiển nhiên, luôn tồn tại trong sâu thẳm trái tim mỗi người, đấy là một quy luật: “Ai bảo...đừng thương...ai cấm được...thì mới hết”.

  • Cảm xúc của tác giả trước cảnh mùa xuân:
  • Khẳng định tình yêu của  mình dành cho mùa xuân một tình yêu nồng nàn, đằm thắm.
  • Luôn tin rằng những người khác cũng thế bởi đó là quy luật của tình cảm.
  • Vũ Bằng nói đến mùa xuân với một cảm xúc rạo rực, đắm say, tự hào: “Ấy đấy, cái mùa xuân thần thánh của tôi... Nhựa sống ở trong người cứ căng lèn... Cùng với mùa xuân trở lại, tim người ta dường như cũng trẻ hơn ra và đập mạnh han... Đẹp quá đi, mùa xuân ơi - mùa xuân của Hà Nội thân yêu, của Bắc Việt thương mến”.

b. Cảnh sắc và không khí mùa xuân Hà Nội

  • Đặc trưng thời tiết: có mưa riêu riêu, gió lành lạnh.
  • Âm thanh:
    • Tiếng nhạn kêu trong đêm
    • Tiếng trống vọng chèo từ xa
    • Câu hát ân tình của cô gái đẹp
  • Khung cảnh tại các gia đình: bàn thờ, đèn nên, nhang trầm và tình cảm gia đình yêu thương, gắn bó
  • Nghệ thuật: sử dụng hình ảnh so sánh mới mẻ, sinh động, hấp dẫn diến tá ức sống của mùa xuân
  •  Mùa xuân khơi dậy sức sống trong thiên nhiên và con người:
    • Nhựa sống trong người căng lên
    • Tim dường như trẻ hơn ra và đập mạnh hơn……….

=> Nghệ thuật so sánh, hình ảnh gợi cảm đã làm nổi bật sức sống của mùa xuân trong thiên nhiên và trong lòng người.

=> Giọng văn kể, tả kết hợp nhịp nhàng với biểu cảm trực tiếp đã làm khắc sâu tình cảm nồng nàn của tác giả đối với mùa xuân Bắc Việt.

c. Cảnh sắc và không khí màu xuân đất Bắc sau ngày rằm tháng Giêng

  • Tết hết mà chưa hết hẳn, đào phai mà nhụy vẫn còn phong
  • Có không mướt xanh nhưng nức một mùi hương man mác
  • Trời đã hết nồm, mưa xuân thay thế cho mưa phùn
  • Con người trở về với bữa cơm gia đình giản dị
  • Các trò vui ngày Tết cũng tạm thời kết thúc

1. Cảm nhận về quy luật tình cảm của con người với mùa xuân

Mùa xuân về đem đến bao sự đổi thay kì diệu, làm bừng lên bao sắc xuân, và nhất là trỗi dậy bao sức sống trong lòng người..Tác giả đưa ra một loạt những vế câu phủ định, điệp từ, điệp ngữ, điệp kiểu câu để khẳng định một điều: Con Người yêu mến mùa Xuân, đó là một quy luật tất yếu, tự nhiên. Bức tranh mùa Xuân đẹp, tràn đầy sức sống, tràn ngập khắp đất trời nhưng lại ấm áp, nồng nàn, đầy tình yêu thương,  mang nét đặc trưng của mùa xuân miền Bắc. Sức sống ấy tựa như nhựa sống ở trong người cứ căng lên như máu căng lên trong lộc của loài nai, như mầm non của cây cối, nằm im mãi không chịu được, phải trồi ra thành những cái lá nhỏ li ti giơ tay vẫy những cặp uyên ương đứng cạnh.

2. Cảnh sắc và không khí mùa xuân Hà Nội

Cảnh thiên nhiên, khí hậu

  • Mưa riêu riêu, gió lành lạnh… đẹp như thơ mộng”
  • Cái rét ngọt ngào …. căm căm nữa
  • Tiếng nhạn kêu, tiếng trống chèo vọng lại, câu hát huê tình của cô gái đẹp…
  • Điệp từ, liệt kê, sử dụng đặc sắc các từ láy…

=> Cảnh mang màu sắc đặc trưng của vùng Bắc Bộ

Cảnh trong nhà: Bàn thờ, đèn nến, hương trầm, bầu không khí gia đình đoàn tụ êm đềm.

=> Đó là những chi tiết hình ảnh rất đặc trưng cho cảnh sắc và không khí mùa Xuân ở đất Bắc. Cả trong thiên nhiên và sinh hoạt của con người. Tác giả đã gợi tả được thời tiết, khí hậu đặc biệt của mùa Xuân, vừa có cái lạnh của “ mưa riêu riêu, gió lành lạnh” như từ mùa đông còn vương lại, nhưng lại có cái nồng nàn của khí xuân, hơi xuân tràn ngập trời đất và thấm vào lòng người, những âm thanh tiếng nhạn kêu, tiếng chống chèo, câu hát huê tình. Không khí mùa xuân còn được hiện lên trong khung cảnh gia đình với bàn thờ, đèn nến, hương trầm…và tình cảm gia đình yêu thương thắm thiết.

3. Cảnh sắc và không khí màu xuân đất Bắc sau ngày rằm tháng Giêng

  • Bữa cơm giản dị, cánh màn điều,… kết thúc các trò chơi…=> cuộc sống êm đềm thường nhật đã thay thế không khí tưng bừng, rộn rã, náo nức của ngày Tết.
  • Phản ánh chính xác, phù hợp với thực tế cuộc sống sau rằm tháng Giêng của người miền Bắc:
    • Tết hết mà chưa hết hẳn, đào phai mà nhụy vẫn còn phong
    • Có không mướt xanh nhưng nức một mùi hương man mác
    • Trời đã hết nồm, mưa xuân thay thế cho mưa phùn
    • Con người trở về với bữa cơm gia đình giản dị
    • Các trò vui ngày Tết cũng tạm thời kết thúc

Những hình ảnh tự nhiên từ sau rằm tháng Giêng. Ngòi bút của tác giả đặc biệt tinh tế khi miêu tả cảnh sắc và không khí mùa xuân sau ngày rằm tháng giêng. Tác giả đã phát hiện và miêu tả sự thay đổi, chuyển biến của màu sắc và không khí bầu trời, mặt đất, cây cỏ tong một khoảng thời gian ngắn ngủi từ đầu tháng qua rằm tháng giêng.

4. Tổng kết

  • Nội dung: Cảnh sắc thiên nhiên, không khí mùa xuân ở Hà Nội và miền Bắc được cảm nhận, tái hiện trong nỗi nhớ thương da diết của một người xa quê.
  • Ý nghĩa: Văn bản thể hiện sự gắn bó máu thịt giữa con người với quê hương, xứ sở – một biểu hiện cụ thể của tình yêu đất nước.
  • Nghệ thuật: Giọng điệu sôi nổi, tha thiết nhớ thương, miêu tả đặc sắc, so sánh hiệu quả.

Tác giả của văn bản Mùa xuân của tôi là ai?

Văn bản Mùa xuân của tôi thuộc thể loại nào?

Văn bản được trích trong tản văn Thương nhớ mười hai, đúng hay sai?

Văn bản Mùa xuân của tôi được viết trong hoàn cảnh nào?

Văn bản Mùa xuân của tôi viết về mùa xuân của miền nào?

Dòng nào sau đây nêu đúng vẻ đẹp của mùa xuân miền Bắc?

Nội dung nào được đề cập trong tác phẩm?

Qua văn bản Mùa xuân của tôi, tác giả đã bộc lộ tình cảm gì?

Trong văn bản “ Mùa xuân của tôi ” – Vũ Bằng, tác giả yêu thích nhất mùa xuân vào thời điểm:

A.

Mùng một đầu năm.

B.

Trước rằm tháng giêng.

C.

Ngày Tết nguyên tiêu.

D.

Sau rằm tháng giêng.


Vũ Bằng [1913 -1984]

Vài nét về tác giả Vũ Bằng:

  • Vũ Bằng [1913 -1984], sinh tại Hà Nội.
  • Sáng tác từ trước Cách mạng tháng 8/1945, có sở trường về truyện ngắn, tùy bút, bút kí.
  • Sau năm 1945, ông vào Sài Gòn vừa viết văn, làm báo, vừa hoạt động cách mạng.
  • Năm 2007, Vũ Bằng được tặng Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật.

Tác phẩm

Hoàn cảnh sáng tác

Tác phẩm được viết trong hoàn cảnh đất nước bị chia cắt, tác giả sống trong vùng kiểm soát của Mĩ - ngụy, xa cách quê hương đất Bắc. Nhà văn đã gửi vào những trang sách nỗi niềm thương nhớ da diết về quê hương, gia đình và lòng mong mỏi đất nước hòa bình, thống nhất.

Xuất xứ

Trích từ thiên tùy bút "Tháng giêng mơ về trăng non rét ngọt" trong tập bút kí "Thương nhớ mười hai".

Chủ đề

Cảnh sắc thiên nhiên, không khí mùa xuân ở Hà Nội và miền Bắc được cảm nhận tái hiện trong nỗi nhớ thương da diết của một người xa quê. Bài tùy bút biểu lộ chân thực và cụ thể tình quê hương, đất nước, lòng yêu cuộc sống.

Thể loại

Tùy bút

Bố cục

Bài tùy bút được chia làm ba phần:

  • Phần 1 [từ đầu đến "mê luyến mùa xuân"]: tình cảm của con người với mùa xuân là một quy luật tất yếu, tự nhiên.
  • Phần 2 [tiếp đến "mở hội liên hoan"]: cảnh sắc và không khí mùa xuân ở đất trời và lòng người.
  • Phần 3 [còn lại]: cảnh sắc riêng của trời đất mùa xuân từ khoảng sau ngày rằm tháng giêng ở miền Bắc.

NỘI DUNG [edit]

1. Tình cảm của con người với mùa xuân là một quy luật tất yếu, tự nhiên

  • Tác giả đã khẳng định tình yêu của con người đối với mùa xuân là tình cảm tự nhiên"ai cũng chuộng mùa xuân", "người ta càng trìu mến", "mê luyến mùa xuân".
  • Sử dụng nghệ thuật so sánh, liệt kê kết hợp với nghệ thuật lặp từ nhằm nhấn mạnh tình cảm con người, tạo nhịp điệu: non với nước, bướm với hoa, trăng với gió, trai với gái, mẹ với con, vợ với chồng.

Có thể thấy, tình yêu mùa xuân là quy luật tất yếu của tự nhiên và con người.

2. Cảnh sắc và không khí mùa xuân đất Bắc - mùa xuân Hà Nội

        - Tác giả đã gợi tả được thời tiết, khí hậu đặc biệt của mùa xuân, vừa có cái lạnh của "mưa riêu riêu, gió lành lạnh" như từ mùa đông còn vương lại, nhưng lại có cái ấm áp, nồng nàn của khí xuân, hơi xuân tràn ngập trời đất và thấm vào lòng người.

        - Những âm thanh tiếng nhạn kêu trong đêm xanh, tiếng trống chèo, câu hát huê tình.

Cảnh sắc thiên nhiên hài hoà tạo cảnh sắc riêng mang nét đặc trưng của đất Bắc.

        - Không khí mùa xuân hiện lên trong khung cảnh gia đình với bàn thờ, đèn nến, hương trầm...

        - Gia đình đoàn tụ trên kính dưới nhường.

        - Trước bàn thờ Phật, thờ Thánh, thờ tổ tiên lòng anh ấm lạ ấm lùng

Không khí mùa xuân thiêng liêng, đầm ấm; gợi một bức tranh xuân với không khí và cảnh sắc hài hoà, tạo nên sự sống riêng của mùa xuân đất Bắc với tình cảm gia đình yêu thương, thắm thiết.

  • Sức sống của thiên nhiên và con người

Tác giả không dừng lại nhiều ở ngoại cảnh mà tập trung thể hiện nổi bật sức sống của mùa xuân trong thiên nhiên và ở lòng người, bằng nhiều hình ảnh gợi cảm và so sánh cụ thể.

        - Cái mùa xuân thần thánh làm cho người ta muốn phát điên lên.

        - Nhựa sống trong người căng lên như máu căng lên trong lộc của loài nai, như mầm non của cây cối, nằm im mãi không chịu được,phải trồi ra thành cái lá nhỏ li ti...

        - Y như như những con vật nằm thu hình một nơi trốn rét thấy nắng ấm trở về thì lại bò ra để nhảy nhót kiếm ăn, anh cũng “ sống” lại, thèm khát yêu thương thực sự.

        - Trong lòng thì cảm như có không biết bao nhiêu là hoa mới nở, bướm ra ràng mở hội liên hoan.

  • Đoạn văn sử dụng giọng điệu vừa sôi nổi vừa tha thiết góp phần quan trọng tạo nên sức truyền cảm.

Có thể thấy, mùa xuân có một sức mạnh thiêng liêng kì diệu, khơi gợi sinh lực cho muôn loài và còn mang lại niềm vui, tình yêu thương đến cho mọi người, gắn kết mọi người với nhau.

3. Cảnh sắc riêng của trời đất mùa xuân từ khoảng sau ngày rằm tháng giêng ở miền Bắc

Tác giả tập trung miêu tả nét riêng của trời đất, thiên nhiên và không khí mùa xuân trong thời điểm từ sau ngày rằm tháng giêng âm lịch.

        - Bầu trời trong sáng, tinh khôi: mưa xuân thay thế cho mưa phùn, không làm cho nền trời đùng đục như màu pha lê mờ; vệt xanh tươi trên bầy trời; độ tám chín giờ sáng nền trời trong trong có những làn sáng hồng hồng,...

        - Bữa cơm giản dị, ngon miệng: cà om với thịt thăn điểm những lá tía tô thái nhỏ, bát canh trứng cua vắt chanh.

        - Cuộc sống êm đềm thường nhật: cánh màn điều treo ở đầu bàn thờ ông vải đã hạ xuống, trò chơi ngày Tết kết thúc.

Có thể thấy, tác giả đã bộc lộ sự quan sát và cảm nhận rất tinh tế, nhạy cảm trong từng chi tiết ngoại cảnh với không gian thoáng rộng, không khí tinh khôi, mát mẻ. Qua đó, ta cũng thấy rõ tác giả là người không chỉ am hiểu kĩ càng mà còn rất yêu thiên nhiên, trân trọng sự sống và biết tận hưởng những vẻ đẹp của cuộc sống.

ĐẶC SẮC NGHỆ THUẬT [edit]

  • Ngòi bút tài hoa, sự quan sát, cảm nhận rất tinh tế.
  • Giọng kể - tả - biểu cảm rất nhịp nhàng, hài hoà trôi chảy tự nhiên.
  • Ngôn ngữ giàu hình ảnh, cảm xúc, giàu chất trữ tình.
  • Biện pháp nghệ thuật so sánh được sử dụng có hiệu quả để miêu tả rõ nét và thú vị về cảnh sắc thiên nhiên mùa xuân.

Page 2

Bỏ qua 🔴 Buổi học Live sắp tới

Không có sự kiện nào sắp diễn ra

Page 3

Đường hướng và cách tiếp cận xây dựng khoá học

Khoá học được xây dựng dựa trên năng lực đầu ra của Bộ Giáo Dục và Đào Tạo dành cho  học sinh hết lớp 7. Mục tiêu của mỗi bài học được xây dựng bám theo thang tư duy mới của Bloom đi từ thấp lên cao, hướng tới khả năng vận dụng kiến thức và kỹ năng của học sinh. Các bài học về thành tố ngôn ngữ như Từ vựng, Phát âm, Ngữ pháp được xây dựng theo hướng tiếp cận lồng ghép, gắn kết với nhau và với chủ đề của bài học, tạo cho học sinh có thêm nhiều cơ hội sử dụng tiếng Anh. Các bài học về kỹ năng được xây dựng nhằm hình thành năng lực chủ đạo theo chương trình sách giáo khoa, đồng thời có mở rộng sang một số năng lực chưa được hướng dẫn kỹ càng trong sách giáo khoa. Các tiểu kỹ năng của năng lực đọc hiểu và viết được hướng dẫn chi tiết, cụ thể, theo từng bước nhỏ, giúp học sinh có khả năng hình thành được năng lực đọc và viết sau khi kết thúc bài học.


Nội dung khoá học

Khoá học bám sát chương trình sách giáo khoa tiếng Anh 7 [chương trình thí điểm của Bộ Giáo Dục và Đào Tạo] về chủ đề, chủ điểm, kỹ năng, kiến thức. Mỗi bài học được chia thành các nội dung chính: [1] Tóm tắt lý thuyết [Lesson summary]: hướng dẫn về kiến thức ngôn ngữ/ kỹ năng ngôn ngữ dưới dạng hình ảnh hoá hay sơ đồ tư duy để học sinh dễ dàng ghi nhớ kiến thức/ các bước kỹ năng. [2] Video bài giảng [phát âm]: video ngắn giúp học sinh ghi nhớ những kiến thức trọng tâm với sự hướng dẫn của thầy/ cô giáo. [3] Bài tập thực hành [practice task] giúp học sinh thực hành nội dung kiến thức, kỹ năng vừa được học. [4] Quiz: đây là hình thức đánh giá thường xuyên dưới dạng trặc nghiệm khách quan giúp giáo viên người học đánh giá được năng lực vừa được hình thành trong mỗi bài học. [5] Kiểm tra cả bài [unit test]: đây là hình thúc đánh giá tổng kết dưới dạng trắc nghiệm khách quan, và tự luận giúp giáo viên và người học đánh giá được năng lực được hình thành trong cả bài học lớn [unit].


Mục tiêu khoá học

Khoá học tiếng Anh 7 được xây dựng với mục đích hỗ trợ học sinh theo học chương trình tiếng Anh 7 mới của Bộ Giáo Dục và Đào Tạo một cách cách dễ dàng và hiệu quả hơn. Kết thúc mỗi bài học trong khoá học, học sinh có khả năng vận dụng được những kiến thức và kỹ năng học được trong chương trình sách giáo khoa mới vào những bối cảnh thực hành tiếng Anh tương tự.

Đối tượng của khóa học

Khóa học được thiết kế dành cho các em học sinh lớp 7, tuy nhiên các em học sinh lớp trên vẫn có thể học để ôn lại kiến thức, hoặc sử dụng để tra cứu các kiến thức đã quên.

  • Người quản lý: Nguyễn Huy Hoàng
  • Người quản lý: Phạm Xuân Thế

Video liên quan

Chủ Đề