Công nghệ sản xuất thuốc tại HERA tập trung vào dạng bào chế rắn, bao gồm viên nén, viên nén bao phim, viên nang cứng, thuốc cốm/bột. Dù là dạng bào chế rắn nào thì quy trình tạo hạt/cốm là chiếm vị trí rất quan trọng, nó giúp cải thiện tính trơn chảy và tính chất bán thành phẩm để chuẩn bị cho giai đoạn dập viên tiếp theo. Một số công nghệ sản xuất được ứng dụng để tạo hạt/cốm như sau: Tạo hạt [cốm] là một trong những công đoạn quan trọng nhất của quá trình điều chế các thuốc dạng rắn. Chất lượng cốm phụ thuộc rất nhiều vào quá trình tạo cốm và sự kiểm soát các thông số của quá trình. Một quá trình tạo cốm tốt phải đảm bảo được các tiêu chí về độ đồng đều của cốm/hạt, độ trơn chảy, khả năng nén [khi dập viên], tính sinh khả dụng, đặc điểm về tĩnh điện và độ đồng nhất hàm lượng dược chất, độ đồng nhất hàm lượng dược chất, độ đồng đều khối lượng viên/nang và độ ổn định của dạng thuốc rắn. Viên nén được sản xuất theo hai phương pháp: - Tạo hạt [tạo hạt ướt, tạo hạt khô, phun sấy tạo hạt] - Dập thẳng Quá trình sản xuất phụ thuộc vào nhiều yếu tố, bao gồm cả tính chất, kích cỡ hạt của hoạt chất, tá dược và sự ổn định hóa học của hoạt chất.
1. Tạo hạt ướt
- Đây là phương pháp thông dụng nhất để sản xuất viên nén. - Nước thường được dùng làm dung dịch dính [và nhiệt được sử dụng để làm khô các hạt hình thành], điều quan trọng là đảm bảo rằng hoạt chất điều trị có tính ổn định hóa học trong suốt quá trình tạo hạt. - Chất lượng viên nén bị ảnh hưởng trực tiếp bởi sự lựa chọn và nồng độ tá dược dính, loại và thể tích của dung dịch dính. Ưu điểm: - Giảm sự phân tách các hợp chất trong quá trình bảo quản và chế biến. Dẫn đến sự giảm sự biến đổi trong và giữa các lô. - Các tá dược được sử dụng ở nồng độ thấp. - Không phụ thuộc vào các loại tá dược, bao gồm cả tá dược đặc biệt [tá dược phun sấy dùng trong dập thẳng].2. Tạo hạt khô
- Khi các thành phần trong viên nén nhạy cảm với độ ẩm và không thể chịu được nhiệt độ cao trong quá trình sấy và khi các thành phần của viên không có đủ tính chất kết dính, thì có thể dùng phương pháp tạo hạt khô để tạo hạt. Ưu điểm: - Cả phương pháp cán tạo hạt và tạo hạt khô đều yêu cầu những tá dược thông thường. - Những phương pháp này thường không liên quá đến sự thay đổi hình thái của thuốc trong quá trình sản xuất. - Không yêu cầu nhiệt hoặc dung môi.3. Dập thẳng
4. Phun sấy tạo hạt tầng sôi
Một trong các phương pháp hiện đại để tạo cốm là quá trình tạo cốm bằng thiết bị sấy tầng sôi. Ưu điểm: - Thời gian sấy ngắn, trung bình 30 - 50 phút [tùy thuộc vật liệu sấy] rất thích hợp cho các hoạt chất không bền nhiệt [các vitamin, các protein, các nội tiết tố ...] - Không xảy ra hiện tượng quá nhiệt cục bộ trong khối bột/cốm/hạt. - Thời gian tạo hạt ngắn, độ đồng đều cao. - Dễ dàng lấy mẫu kiểm tra theo dõi chất lượng sản phẩm trong khi máy vẫn hoạt động. - Súng phun có thể lắp đặt ở các vị trí khác nhau: phía trên bồn sấy, ngang thân bồn sấy hoặc dưới đáy bồn sấy. - Có thể điều chỉnh chính xác lưu lượng dung dịch bơm đến súng phun bằng máy bơm nhu động. - Nếu lắp đặt thêm một cảm biến trong thiết bị [on-line sensor] để đo tức thời [real time] và liên tục kích thước hạt cốm, có thể giám sát toàn bộ quá trình tạo cốm. Phương pháp tạo cốm trong máy sấy tầng sôi là quá trình kết tập các tiểu phân bột lơ lửng trong buồng sấy nhờ luồng không khí cấp vào buồng sấy và bằng chất lỏng [tá dược dính] được phun vào buồng sấy. Các tiểu phân bột khi lơ lửng trong buồng sấy được thấm ướt từ từ với dung dịch tá dược dính và trở nên có khả năng dính với các tiểu phân khác để từ từ tạo thành hạt cốm. Trong phương pháp này, quá trình tạo cốm được tiến hành trong thiết bị sấy tầng sôi có súng phun tá dược dính. Việc cấp tá dược dính bằng súng phun có thể tiến hành theo cách phun từ trên xuống, phun ngang hoặc phun từ dưới lên vào trong buồng sấy có chứa hỗn hợp bột.5. Viên nén phân tán trong miệng [ODTs]
Viên nén phân tán trong miệng [ODTs] có nhiều ưu điểm so với dạng liều uống thông thường về mặt tiện lợi và dễ sử dụng. Trở ngại rõ ràng nhất của các dạng thuốc uống được thông thường như viên nén và viên nang là khó nuốt, dẫn đến sự không tuân thủ của bệnh nhân, đặc biệt ở trẻ em và người cao tuổi nhưng cũng được dùng cho những người bị ốm và những bệnh nhân bận rộn hoặc phải di chuyển, đặc biệt trong trường hợp không có nước. Để đáp ứng những nhu cầu y tế này, các nhà nghiên cứu công nghệ dược phẩm đã phát triển một dạng thuốc uống mới là viên nén phân tán trong miệng, nó sẽ phân hủy nhanh chóng trong nước bọt, thường chỉ trong vài giây, mà không cần nước. Sự hòa tan và hấp thu thuốc cũng như tác dụng lâm sàng và khả dụng sinh học thuốc có thể lớn hơn đáng kể so với các dạng thuốc thông thường. Theo đó, ODT đã trở thành một sự lựa chọn tuyệt vời như là một hệ thống phân phối thuốc mới.Ưu điểm của dạng thuốc ODT:
Thuốc lý tưởng được sử dụng trong ODT
- Thuốc giảm đau và thuốc chống viêm: Ibuprofen, Meloxicam,…
6.Viên mini [mini-tab]
Viên mini [mini-tab] là viên nhỏ có đường kính thường bằng hoặc nhỏ hơn 3 mm mà thường được cho vào một viên nang, hoặc được nén lại thành viên nén lớn hơn. Có thể kết hợp nhiều viên thuốc mini khác nhau, mỗi loại có công thức riêng biệt và được thiết lập để giải phóng các loại thuốc ở các vị trí khác nhau trong đường tiêu hoá, cho vào cùng một viên nang. Những sự kết hợp này có thể bao gồm viên mini phóng thích tức thời, phóng thích trì hoãn, và/ hoặc phóng thích có kiểm soát. Cũng có thể kết hợp các viên mini chứa các thuốc khác nhau để điều trị các bệnh đồng thời hoặc kết hợp các thuốc để cải thiện kết quả điều trị tổng thể, đồng thời cung cấp tỷ lệ giải phóng riêng biệt cho mỗi thuốc theo yêu cầu của bệnh. Viên mini kết hợp các lợi thế của các dạng liều đa lượng với các kỹ thuật sản xuất viên nén. Các tính năng bổ sung của viên mini bao gồm độ đồng đều kích cỡ tuyệt vời, hình dạng thông thường và bề mặt nhẵn, do đó cung cấp viên nhân tuyệt vời để bao phủ bằng các hệ thống polymer điều chỉnh phóng thích.Ưu điểm của các viên mini:
7.Viên nén nhai
Những viên thuốc này được thiết kế để nhai, làm cho viên thuốc tan rã. Những viên này thường được dùng cho thuốc cần hàm lượng lớn, vì thuốc không thể nuốt ngay. Trẻ em có thể bị thuyết phục uống những thuốc như vậy, không cần nước để dùng, và bước tan rã của viên thuốc đạt hiệu quả tích cực trong miệng trước khi nó hòa tan trong môi trường dạ dày8.Viên nén đa lớp
Công thức những thuốc này có các lớp riêng biệt hoặc viên nén lõi bên trong một viên. Bằng cách này, hai hoặc nhiều thuốc có thể được giữ riêng biệt trong một viên thuốc duy nhất. Nó được quan tâm trở lại trong việc sử dụng các dạng liều kết hợp để điều trị các bệnh như AIDS, khi nhiều loại thuốc được sử dụng mỗi ngày. Máy ép viên nén với hai hoặc ba phễu được dùng cho mục đích bào chế dạng đa lớp.