Sách triết học Mác - Lênin

Giáo Trình Triết Học Mác- Lênin

Giáo trình gồm 15 chương, được sắp xếp theo lôgíc nội tại của bản thân tri thức triết học và không chia thành hai phần riêng biệt là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử như các giáo trình trước đây, nhằm trình bày triết học Mác - Lênin với tính cách là một khối thống nhất hữu cơ của các quan điểm vừa biện chứng, vừa duy vật về tự nhiên, xã hội và tư duy.

Nhiều thành tựu của khoa học hiện đại đã được trình bày về sự thống nhất vật chất của thế giới, về vận động, không gian và thời gian, về nguồn gốc và bản chất của ý thức... Riêng về phạm trù vật chất được giới thiệu rõ hơn những phát minh lớn của khoa học tự nhiên từ cuối thế kỷ XIX cho đến nay, kể cả việc tìm ra 9 phản ứng nguyên tử đầu tiên vào năm 1995. Những phát minh đó càng làm cho việc nhận thức phạm trù vật chất trở nên sâu sắc hơn. Đây là điều mà các giáo trình trước đây chưa có điều kiện thể hiện đầy đủ.Thông Tin Chi Tiết

Giá sản phẩm trên Tiki đã bao gồm thuế theo luật hiện hành. Bên cạnh đó, tuỳ vào loại sản phẩm, hình thức và địa chỉ giao hàng mà có thể phát sinh thêm chi phí khác như phí vận chuyển, phụ phí hàng cồng kềnh, thuế nhập khẩu [đối với đơn hàng giao từ nước ngoài có giá trị trên 1 triệu đồng].....

Trụ sở chính: Tòa nhà Viettel, Số 285, đường Cách Mạng Tháng 8, phường 12, quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh

Tiki nhận đặt hàng trực tuyến và giao hàng tận nơi, chưa hỗ trợ mua và nhận hàng trực tiếp tại văn phòng hoặc trung tâm xử lý đơn hàng

Giấy chứng nhận Đăng ký Kinh doanh số 0309532909 do Sở Kế hoạch và Đầu tư Thành phố Hồ Chí Minh cấp lần đầu ngày 06/01/2010 và sửa đổi lần thứ 23 ngày 14/02/2022

© 2022 - Bản quyền của Công ty TNHH Ti Ki

Triết học Mác - Lênin hay học thuyết Mác-Lênin là một trong ba bộ phận cấu thành của chủ nghĩa Mác - Lênin, được Các Mác, Engels sáng lập vào thế kỷ thứ XIX, sau đó được Lênin và các nhà macxit khác phát triển thêm. Triết học Mác- Lê nin ra đời vào những năm 40 thế kỉ XIX và được phát triển gắn chặt với những thành tựu khoa học và thực tiễn trong phong trào cách mạng công nhân. Sự ra đời của triết học Mác-Lênin là một cuộc cách mạng thực sự trong lịch sử tư tưởng loài người, trong lịch sử triết học.
Nội dung trong bộ tài liệu:
Chương I: Khái lược về triết học.
Chương II: Khái lược về lịch sử triết học trước Mác.
Chương III: Sự ra đời và phát triển của triết học Mác-Lênin.
Chương IV: Một số trào lưu triết học phương Tây hiện đại.
Chương V: Vật chất và ý thức.
Chương VI: Hai nguyên lý của phép biện chứng duy vật.
Chương VII: Những cặp phạm trù cơ bản của phép biện chứng duy vật.
Chương VIII: Những quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật.
Chương IX: Lý luận nhận thức.
Chương X: Hình thái kinh tế-xã hội.
Chương XI: Giai cấp và dân tộc.
Chương XII: Nhà nước và cách mạng xã hội.
Chương XIII: Ý thức xã hội.
Chương XIV: Quan điểm triết học Mác-Lênin về con người.

HỘI ĐỒNG BIÊN SOẠN GIÁO TRÌNH

MÔN TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN

GIÁO TRÌNH

TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN

Trình độ: Đại học Đối tượng: Khối các ngành ngoài lý luận chính trị

HÀ NỘI - 2019

HÀ NỘI - 2019

HỘI ĐỒNG BIÊN SOẠN

GS. TS. Phạm Văn Đức [chủ biên]

GS. TS. Trần Văn Phòng

PGS. TS. Nguyễn Tài Đông

Thiếu tướng GS. TS. Nguyễn Văn Tài

GS. TS. Nguyễn Trọng Chuẩn

GS. TS. Hồ Sĩ Quý

PGS. TSKH. Lương Đình Hải

PGS. TS. Nguyễn Anh Tuấn

PGS. TS. Trần Đăng Sinh

CỘNG TÁC BIÊN SOẠN

Thiếu tướng GS. TS. Trương Giang Long

GS. TS. Trần Phúc Thăng

GS. TS. Nguyễn Hùng Hậu

CHƯƠNG I

TRIẾT HỌC VÀ VAI TRÒ CỦA TRIẾT HỌC

TRONG ĐỜI SỐNG XÃ HỘI

I. TRIẾT HỌC VÀ VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA TRIẾT HỌC

1. Khái lược về triết học a. Nguồn gốc của triết học Là một loại hình nhận thức đặc thù của con người, triết học ra đời ơ cả Phương Đông và Phương Tây gần như cùng một thời gian [khoảng tư thế kỷ VIII đến thế kỷ VI tr] tại các trung tâm văn minh lớn của nhân loại thời Cổ đại. Ý thức triết học xuất hiện không ngẫu nhiên, mà có nguồn gốc thực tế tư tồn tại xã hội với một trình độ nhất định của sự phát triển văn minh, văn hóa và khoa học. Con người, với kỳ vọng được đáp ứng nhu cầu về nhận thức và hoạt động thực tiễn của mình đã sáng tạo ra những luận thuyết chung nhất, có tính hê thống phản ánh thế giới xung̣ quanh và thế giới của chính con người. Triết học là dạng tri thức lý luâṇ xuất hiện sớm nhất trong lịch sử các loại hình lý luận của nhân loại.

Với tính cách là một hình thái ý thức xã hội, triết học có nguồn gốc nhận thức và nguồn gốc xã hội.

Nguồn gốc nhận thức Nhận thức thế giới là một nhu cầu tự nhiên, khách quan của con người. Về măt lịch sử, tư duy huyền thoại và tín ngưỡng nguyên thủy lạ̀ loại hình triết lý đầu tiên mà con người dùng để giải thích thế giới bí ẩn xung quanh. Người nguyên thủy kết nối những hiểu biết rời rạc, mơ hồ, phi lôgíc... của mình trong các quan niệm đầy xúc cảm và hoang tương thành những huyền thoại để giải thích mọi hiện tượng. Đỉnh cao của tư duy huyền thoại và tín ngưỡng nguyên thủy là kho tàng những câu chuyện thần thoại và những tôn giáo sơ khai như Tô tem giáo, Bái vật giáo, Saman giáo. Thời kỳ triết học ra đời cũng là thời kỳ suy giảm và thu hẹp phạm vi của các loại hình tư duy huyền thoại và tôn giáo nguyên thủy. Triết học chính là hình thức tư duy lý luận đầu tiên trong lịch sử tư tương nhân loại thay thế được cho tư duy huyền thoại và tôn giáo.

Trong quá trình sống và cải biến thế giới, tưng bước con người có kinh nghiệm và có tri thức về thế giới. Ban đầu là những tri thức cụ thể, riêng lẻ, cảm tính. Cùng với sự tiến bộ của sản xuất và đời sống, nhận thức của con người dần dần đạt đến trình độ cao hơn trong việc giải thích thế giới một cách hệ thống, lôgíc và nhân quả... Mối quan hệ giữa cái đã biết và cái chưa biết là đối tượng đồng thời là động lực đòi hỏi nhận thức ngày càng quan tâm sâu sắc hơn đến cái chung, những quy luật chung. Sự

thành được một vốn hiểu biết nhất định và trên cơ sơ đó, tư duy con người cũng đã đạt đến trình độ có khả năng rút ra được cái chung trong muôn vàn những sự kiện, hiện tượng riêng lẻ.

Nguồn gốc xã hội Triết học không ra đời trong xã hội mông muội dã man. Như Các nói: “Triết học không treo lơ lửng bên ngoài thế giới, cũng như bộ óc không tồn tại bên ngoài con người” 2. Triết học ra đời khi nền sản xuất xã hội đã có sự phân công lao động và loài người đã xuất hiện giai cấp. Tức là khi chế độ cộng sản nguyên thủy tan rã, chế độ chiếm hữu nô lệ đã hình thành, phương thức sản xuất dựa trên sơ hữu tư nhân về tư liệu sản xuất đã được xác lập và ơ trình độ khá phát triển. Xã hội có giai cấp và nạn áp bức giai cấp hà khắc đã được luật hóa. Nhà nước, công cụ trấn áp và điều hòa lợi ích giai cấp đủ trương thành, “tư chỗ là tôi tớ của xã hội biến thành chủ nhân của xã hội” 3.

Gắn liền với các hiện tượng xã hội vưa nêu là lao động trí óc đã tách khỏi lao động chân tay. Trí thức xuất hiện với tính cách là một tầng lớp xã hội, có vị thế xã hội xác định. Vào thế kỷ VII - V tr, tầng lớp quý tộc, tăng lữ, điền chủ, nhà buôn, binh lính... đã chú ý đến việc học hành. Nhà trường và hoạt động giáo dục đã trơ thành một nghề trong xã hội. Tri thức toán học, địa lý, thiên văn, cơ học, pháp luật, y học... đã được giảng dạy 4. Nghĩa là tầng lớp trí thức đã được xã hội ít nhiều trọng vọng. Tầng lớp này có điều kiện và nhu cầu nghiên cứu, có năng lực hệ thống hóa các quan niệm, quan điểm thành học thuyết, lý luận. Những người xuất sắc trong tầng lớp này đã hệ thống hóa thành công tri thức thời đại dưới dạng các quan điểm, các học thuyết lý luận... có tính hệ thống, giải thích được sự vận động, quy luật hay các quan hệ nhân quả của một đối tượng nhất định, được xã hội công nhận là các nhà thông thái, các triết gia [Wise man, Sage, Scholars, Philosopher], tức là các nhà tư tương. Về mối quan hệ giữa các triết gia với cội nguồn của mình, Các nhận xét: “Các triết gia không mọc lên như nấm tư trái đất; họ là sản phẩm của thời đại của mình, của dân tôc mình, mà dòng sữa tinh tế nhất, quý giá và vô hìnḥ được tập trung lại trong những tư tương triết học” 5.

Triết học xuất hiện trong lịch sử loài người với những điều kiện như vậy và chỉ trong những điều kiện như vậy - là nội dung của vấn đề nguồn gốc xã hội của triết học. “Triết học” là thuật ngữ được sử dụng lần đầu tiên trong trường phái Socrates [Xôcrát]. Còn thuật ngữ “Triết gia” [Philosophos] đầu tiên xuất hiện ơ Heraclitus [Hêraclit], dùng để chỉ

2 Các và Ph.Ăngghen [2005], Toàn tập, t. 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 156. 3 Các và Ph.Ăngghen [1995], Toàn tập, t. 22, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 288. 4 Xem: Michael Lahanas. Education in Ancient Greece [Giáo dục thời Hy Lạp Cổ đại]. hellenicaworld/Greece/Ancient/en/AncientGreeceEducation.html 5 Các và Ph.Ăngghen [2005], Toàn tâp̣ , t, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nôi, tr. 156.̣

người nghiên cứu về bản chất của sự vật 6.

Như vậy, triết học chỉ ra đời khi xã hội loài người đã đạt đến một trình độ sản xuất xã hội tương đối cao, phân công lao động xã hội hình thành, của cải tương đối thưa dư, tư hữu hóa tư liệu sản xuất được luật định, giai cấp phân hóa rõ và mạnh, nhà nước ra đời. Trong một xã hội như vậy, tầng lớp trí thức xuất hiện, giáo dục và nhà trường hình thành và phát triển, các nhà thông thái đã đủ năng lực tư duy để trưu tượng hóa, khái quát hóa, hệ thống hóa toàn bộ tri thức thời đại và các hiện tượng của tồn tại xã hội để xây dựng nên các học thuyết, các lý luận, các triết thuyết. Với sự tồn tại mang tính pháp lý của chế độ sơ hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, của trật tự giai cấp và của bộ máy nhà nước, triết học, tự nó đã mang trong mình tính giai cấp sâu sắc, nó công khai tính đảng là phục vụ cho lợi ích của những giai cấp, những lực lượng xã hội nhất định.

Nguồn gốc nhận thức và nguồn gốc xã hội của sự ra đời của triết học chỉ là sự phân chia có tính chất tương đối để hiểu triết học đã ra đời trong điều kiện nào và với những tiền đề như thế nào. Trong thực tế của xã hội loài người khoảng hơn hai nghìn năm trăm năm trước, triết học ơ Athens hay Trung Hoa và Ấn Độ Cổ đại đều bắt đầu tư sự rao giảng của các triết gia. Không nhiều người trong số họ được xã hội thưa nhận ngay. Sự tranh cãi và phê phán thường khá quyết liệt ơ cả phương Đông lẫn phương Tây. Không ít quan điểm, học thuyết phải mãi đến nhiều thế hệ sau mới được khẳng định. Cũng có những nhà triết học phải hy sinh mạng sống của mình để bảo vệ học thuyết, quan điểm mà họ cho là chân lý.

Thực ra những bằng chứng thể hiện sự hình thành triết học hiện không còn nhiều. Đa số tài liệu triết học thành văn thời Cổ đại Hy Lạp đã mất, hoặc ít ra cũng không còn nguyên vẹn. Thời tiền Cổ đại [Pre - Classical period] chỉ sót lại một ít các câu trích, chú giải và bản ghi tóm lược do các tác giả đời sau viết lại. Tất cả tác phẩm của Plato [Platôn], khoảng một phần ba tác phẩm của Aristotle [Arixtốt], và một số ít tác phẩm của Theophrastus, người kế thưa Arixtốt, đã bị thất lạc. Một số tác phẩm chữ La tinh và Hy Lạp của trường phái Epicurus [Êpiquya] [341 - 270 tr], chủ nghĩa Khắc kỷ [Stoicism] và Hoài nghi luận của thời hậu văn hóa Hy Lạp cũng vậy 7.

b. Khái niệm Triết học Ở Trung Quốc, chữ triêt [哲] đã có tư rất sớm, và ngày nay, chữ triêt học [哲學] được coi là tương đương với thuật ngữ philosophia của Hy Lạp, với ý nghĩa là sự truy tìm bản chất của đối tượng nhận thức, thường

6 Философия. Философский энциклопедический словарь [Triết học. Từ điển Bách khoa Triêt học ] [2010], philosophy.niv/doc/dictionary/philosophy/articles/62/filosofiya.htm. 7 See: David Wolfsdorf. Introduction to Ancient Western Philosophy [Khái luận về Triết học Phương Tây Cổ đại] pdfs.semanticscholar/ad17/a4ae607f0ea4c46a5e49a3808d7ac26450c5.pdf

bản và nền tảng của tồn tại người, về những đặc trưng bản chất nhất của mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, với xã hội và với đời sống tinh thần” 10.

Có nhiều định nghĩa về triết học, nhưng các định nghĩa thường bao hàm những nội dung chủ yếu sau:

  • Triết học là một hình thái ý thức xã hội.

  • Khách thể khám phá của triết học là thế giới [gồm cả thế giới bên trong và bên ngoài con người] trong hệ thống chỉnh thể toàn vẹn vốn có của nó.

  • Triết học giải thích tất cả mọi sự vật, hiện tượng, quá trình và quan hệ của thế giới, với mục đích tìm ra những quy luật phổ biến nhất chi phối, quy định và quyết định sự vận động của thế giới, của con người và của tư duy.

  • Với tính cách là loại hình nhận thức đặc thù, độc lập với khoa học và khác biệt với tôn giáo, tri thức triết học mang tính hệ thống, lôgíc và trưu tượng về thế giới, bao gồm những nguyên tắc cơ bản, những đặc trưng bản chất và những quan điểm nền tảng về mọi tồn tại.

  • Triết học là hạt nhân của thế giới quan. Triết học là hình thái đặc biệt của ý thức xã hội, được thể hiện thành hệ thống các quan điểm lý luận chung nhất về thế giới, về con người và về tư duy của con người trong thế giới ấy.

Với sự ra đời của Triết học Mác - Lênin, triêt học là hệ thống quan điểm lí luận chung nhất về thê giới và vị trí con người trong thê giới đó, là khoa học về những quy luật vận động, phát triển chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy.

Triết học khác với các khoa học khác ơ tính đặc thù của hệ thống tri thức khoa học và phương pháp nghiên cứu. Tri thức khoa học triết học mang tính khái quát cao dựa trên sự trưu tượng hóa sâu sắc về thế giới, về bản chất cuộc sống con người. Phương pháp nghiên cứu của triết học là xem xét thế giới như một chỉnh thể trong mối quan hệ giữa các yếu tố và tìm cách đưa lại một hệ thống các quan niệm về chỉnh thể đó. Triết học là sự diễn tả thế giới quan bằng lí luận. Điều đó chỉ có thể thực hiện được khi triết học dựa trên cơ sơ tổng kết toàn bộ lịch sử của khoa học và lịch sử của bản thân tư tương triết học.

Không phải mọi triết học đều là khoa học. Song các học thuyết triết học đều có đóng góp ít nhiều, nhất định cho sự hình thành tri thức khoa học triết học trong lịch sử; là những “vòng khâu”, những “mắt khâu” trên

10 Института философии, Российской Aкадемии Hayк [2001]. Новая философская энциклопедия. [Bách khoa thư Triết học mới] T. Москва “мысль”. c. 195.

“đường xoáy ốc” vô tận của lịch sử tư tương triết học nhân loại. Trình độ khoa học của một học thuyết triết học phụ thuộc vào sự phát triển của đối tượng nghiên cứu, hệ thống tri thức và hệ thống phương pháp nghiên cứu.

c. Vấn đề đối tượng của triết học trong lịch sử Cùng với quá trình phát triển của xã hội, của nhận thức và của bản thân triết học, trên thực tế, nội dung của đối tượng của triết học cũng thay đổi trong các trường phái triết học khác nhau.

Đối tượng của triết học là các quan hệ phổ biến và các quy luật chung nhất của toàn bộ tự nhiên, xã hội và tư duy.

Ngay tư khi ra đời, triết học đã được xem là hình thái cao nhất của tri thức , bao hàm trong nó tri thức của tất cả các lĩnh vực mà mãi về sau, tư thế kỷ XV - XVII, mới dần tách ra thành các ngành khoa học riêng. “Nền triết học tự nhiên” là khái niệm chỉ triết học ơ phương Tây thời kỳ nó bao gồm trong mình tất cả những tri thức mà con người có được, trước hết là các tri thức thuộc khoa học tự nhiên sau này như toán học, vật lý học, thiên văn học... Theo S. Hawking [Hooc-king], Cantơ là người đứng ơ đỉnh cao nhất trong số các nhà triết học vĩ đại của nhân loại - những người coi “toàn bộ kiến thức của loài người trong đó có khoa học tự nhiên là thuộc lĩnh vực của họ” 11. Đây là nguyên nhân làm nảy sinh quan niệm vưa tích cực vưa tiêu cực rằng, triêt học là khoa học của mọi khoa học.

Ở thời kỳ Hy Lạp Cổ đại, nền triết học tự nhiên đã đạt được những thành tựu vô cùng rực rỡ, mà “các hình thức muôn hình muôn vẻ của nó,

  • như đánh giá của Ph.Ăngghen - đã có mầm mống và đang nảy nơ hầu hết tất cả các loại thế giới quan sau này” 12. Ảnh hương của triết học Hy Lạp Cổ đại còn in đậm dấu ấn đến sự phát triển của tư tương triết học ơ Tây Âu mãi về sau. Ngày nay, văn hóa Hy - La còn là tiêu chuẩn của việc gia nhập Cộng đồng châu Âu.

Ở Tây Âu thời Trung cổ, khi quyền lực của Giáo hội bao trùm mọi lĩnh vực đời sống xã hội thì triết học trơ thành nữ tì của thần học 13. Nền triêt học tự nhiên bị thay bằng nền triêt học kinh viện. Triết học trong gần thiên niên kỷ đêm trường Trung cổ chịu sự quy định và chi phối của hệ tư tương Kitô giáo. Đối tượng của triết học Kinh viện chỉ tập trung vào các chủ đề như niềm tin tôn giáo, thiên đường, địa ngục, mặc khải hoặc chú giải các tín điều phi thế tục ... - những nội dung nặng về tư biện.

Phải đến sau “cuộc cách mạng” Copernicus [Cô-péc-ních], các khoa học Tây Âu thế kỷ XV, XVI mới dần phục hưng, tạo cơ sơ tri thức cho sự

11 Xem:S. Hawking [2000]. Lược sử thời gian. Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội, tr. 214 - 215. 12 Các và Ph.Ăngghen [1994]. Toàn tập, t. 20, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. tr. 13 Gracia, Jorge J. E.; Noone, Timothy B. [2003]. A Companion to Philosophy in the Middle Ages. Oxford: Blackwell, tr. 35

những cuộc tranh luận kéo dài cho đến hiện nay. Nhiều học thuyết triết học hiện đại ơ phương Tây muốn tư bỏ quan niệm truyền thống về triết học, xác định đối tượng nghiên cứu riêng cho mình như mô tả những hiện tượng tinh thần, phân tích ngữ nghĩa, chú giải văn bản...

Mặc dù vậy, cái chung trong các học thuyết triết học là nghiên cứu những vấn đề chung nhất của giới tự nhiên, của xã hội và con người, mối quan hệ của con người, của tư duy con người nói riêng với thế giới.

d. Triết học - hạt nhân lý luận của thế giới quanThế giới quan Nhu cầu tự nhiên của con người về mặt nhận thức là muốn hiểu biết đến tận cùng, sâu sắc và toàn diện mọi hiện tượng, sự vật, quá trình. Nhưng tri thức mà con người và cả loài người ơ thời nào cũng lại có hạn, là phần quá nhỏ bé so với thế giới cần nhận thức vô tận bên trong và bên ngoài con người. Đó là tình huống có vấn đề [Problematic Situation] của mọi tranh luận triết học và tôn giáo. Bằng trí tuệ duy lý, kinh nghiệm và sự mẫn cảm của mình, con người buộc phải xác định những quan điểm về toàn bộ thê giới làm cơ sơ để định hướng cho nhận thức và hành động của mình. Đó chính là thế giới quan. Tương tự như các tiên đề, với thế giới quan, sự chứng minh nào cũng không đủ căn cứ, trong khi niềm tin lại mách bảo độ tin cậy.

“Thế giới quan” là khái niệm có gốc tiếng Đức “Weltanschauung” lần đầu tiên được Cantơ sử dụng trong tác phẩm Phê phán năng lực phán đoán [Kritik der Urteilskraft, 1790] dùng để chỉ thế giới quan sát được với nghĩa là thế giới trong sự cảm nhận của con người. Sau đó, F đã bổ sung thêm cho khái niệm này một nội dung quan trọng là, khái niệm thế giới quan luôn có sẵn trong nó một sơ đồ xác định về thế giới, một sơ đồ mà không cần tới một sự giải thích lý thuyết nào cả. Chính theo nghĩa này mà Hêghen đã nói đến “thế giới quan đạo đức”, J [Gớt] nói đến “thế giới quan thơ ca”, còn L [Ranh-cơ] - “thế giới quan tôn giáo” 15. Kể tư đó, khái niệm thế giới quan như cách hiểu ngày nay đã phổ biến trong tất cả các trường phái triết học.

Khái niệm thê giới quan hiểu một cách ngắn gọn là hệ thống quan điểm của con người về thế giới. Có thể định nghĩa: Thê giới quan là khái niệm triêt học chỉ hệ thống các tri thức, quan điểm, tình cảm, niềm tin, lý tưởng xác định về thê giới và về vị trí của con người [bao hàm cả cá nhân, xã hội và nhân loại] trong thê giới đó. Thê giới quan quy định các nguyên tắc, thái độ, giá trị trong định hướng nhận thức và hoạt động

15 Xem: Некрасова Н.А., Некрасов С.И.[2005] Мировоззрение как объект философской рефлексии [Thế giới quan với tính cách là sự phản tư triết học]. “Современные наукоемкие технологии” No 6. стр. 20 - 23. rae/snt/?section=content&op=show_article&article_id=4116 , Шелер М. Философское мировоззрение, Избранные произведения. - М., 1994.

thực tiễn của con người.

Các khái niệm “Bức tranh chung về thế giới”, “Cảm nhận về thế giới”, “Nhận thức chung về cuộc đời”... khá gần gũi với khái niệm thế giới quan. Thế giới quan thường được coi là bao hàm trong nó nhân sinh quan - vì nhân sinh quan là quan niệm của con người về đời sống với các nguyên tắc, thái độ và định hướng giá trị của hoạt động người.

Những thành phần chủ yếu của thế giới quan là tri thức, niềm tin và lý tương. Trong đó tri thức là cơ sơ trực tiếp hình thành thế giới quan, nhưng tri thức chỉ gia nhập thế giới quan khi đã được kiểm nghiệm ít nhiều trong thực tiễn và trơ thành niềm tin. Lý tương là trình độ phát triển cao nhất của thế giới quan. Với tính cách là hệ quan điểm chỉ dẫn tư duy và hành động, thế giới quan là phương thức để con người chiếm lĩnh hiện thực, thiếu thế giới quan, con người không có phương hướng hành động.

Trong lịch sử phát triển của tư duy, thế giới quan thể hiện dưới nhiều hình thức đa dạng khác nhau, nên cũng được phân loại theo nhiều cách khác nhau. Chẳng hạn, thế giới quan tôn giáo, thế giới quan khoa học và thế giới quan triết học. Ngoài ba hình thức chủ yếu này, còn có thể có thế giới quan huyền thoại [mà một trong những hình thức thể hiện tiêu biểu của nó là thần thoại Hy Lạp ]; theo những căn cứ phân chia khác, thế giới quan còn được phân loại theo các thời đại, các dân tộc, các tộc người, hoặc thế giới quan kinh nghiệm, thế giới quan thông thường... 16.

Thế giới quan chung nhất, phổ biến nhất, được sử dụng [một cách ý thức hoặc không ý thức] trong mọi ngành khoa học và trong toàn bộ đời sống xã hội là thế giới quan triết học.

Hạt nhân lý luận của thế giới quan Nói triết học là hạt nhân của thế giới quan, bơi thứ nhất , bản thân triết học chính là thế giới quan. Thứ hai , trong các thế giới quan khác như thế giới quan của các khoa học cụ thể, thế giới quan của các dân tộc, hay các thời đại... triết học bao giờ cũng là thành phần quan trọng, đóng vai trò là nhân tố cốt lõi. Thứ ba , với các loại thế giới quan tôn giáo, thế giới quan kinh nghiệm hay thế giới quan thông thường..., triết học bao giờ cũng có ảnh hương và chi phối, dù có thể không tự giác. Thứ tư , thế giới quan triết học như thế nào sẽ quy định các thế giới quan và các quan niệm khác như thế.

Thế giới quan duy vật biện chứng được coi là đỉnh cao của các loại thế giới quan đã tưng có trong lịch sử. Vì thế giới quan này đòi hỏi thế giới phải được xem xét dựa trên nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát triển. Tư đây, thế giới và con người được nhận thức

16 См: Мировоззрение. Философский энциклопедический словарь [ Thê giới quan. Tư điển bách khoa triết học] [2010]. philosophy.niv/doc/dictionary/philosophy/fc/slovar - 204 - 2#zag - 1683.

những phát minh, sáng tạo hay trong xử lý những tình huống gay cấn của đời sống.

Với các nhà khoa học, Ph.Ăngghen trong tác phẩm Biện chứng của tự nhiên đã viết: “Những ai phỉ báng triết học nhiều nhất lại chính là những kẻ nô lệ của những tàn tích thông tục hóa, tồi tệ nhất của những học thuyết triết học tồi tệ nhất... Dù những nhà khoa học tự nhiên có làm gì đi nữa thì họ cũng vẫn bị triết học chi phối. Vấn đề chỉ ơ chỗ họ muốn bị chi phối bơi một thứ triết học tồi tệ hợp mốt hay họ muốn được hướng dẫn bơi một hình thức tư duy lý luận dựa trên sự hiểu biết về lịch sử tư tương và những thành tựu của nó” 17.

Như vậy, triết học với tính cách là hạt nhân lý luận, trên thực tế, chi phối mọi thế giới quan, dù người ta có chú ý và thưa nhận điều đó hay không.

2. Vấn đề cơ bản của triết học a. Nội dung vấn đề cơ bản của triết học Triết học, khác với một số loại hình nhận thức khác, trước khi giải quyết các vấn đề cụ thể của mình, nó buộc phải giải quyết một vấn đề có ý nghĩa nền tảng và là điểm xuất phát để giải quyết tất cả những vấn đề còn lại - vấn đề về mối quan hệ giữa vật chất với ý thức. Đây chính là vấn đề cơ bản của triết học. Ph.Ăngghen viết: “Vấn đề cơ bản lớn của mọi triết học, đặc biệt là của triết học hiện đại, là vấn đề quan hệ giữa tư duy với tồn tại” 18.

Bằng kinh nghiệm hay bằng lý trí, con người rốt cuộc đều phải thưa nhận rằng, hóa ra tất cả các hiện tượng trong thế giới này chỉ có thể, hoặc là hiện tượng vật chất, tồn tại bên ngoài và độc lập ý thức con người, hoặc là hiện tượng thuộc tinh thần, ý thức của chính con người. Những đối tượng nhận thức lạ lùng, huyền bí, hay phức tạp như linh hồn, đấng siêu nhiên, linh cảm, vô thức, vật thể, tia vũ trụ, ánh sáng, hạt Quark, hạt Strangelet, hay trường [Sphere]..., tất thảy cho đến nay vẫn không phải là hiện tượng gì khác nằm ngoài vật chất và ý thức. Để giải quyết được các vấn đề chuyên sâu của tưng học thuyết về thế giới, thì câu hỏi đặt ra đối với triết học trước hết vẫn là: Thế giới tồn tại bên ngoài tư duy con người có quan hệ như thế nào với thế giới tinh thần tồn tại trong ý thức con người? Con người có khả năng hiểu biết đến đâu về sự tồn tại thực của thế giới? Bất kỳ trường phái triết học nào cũng không thể lảng tránh giải quyết vấn đề này - mối quan hệ giữa vật chất và ý thức, giữa tồn tại và tư duy.

Khi giải quyết vấn đề cơ bản, mỗi triết học không chỉ xác định nền

17 Các và Ph.Ăngghen [1994], Toàn tập, t.. 20, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 692 - 6 93_. 18_ Các và Ph.Ăngghen [1995], Toàn tập, t. 21, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 403.

tảng và điểm xuất phát của mình để giải quyết các vấn đề khác mà thông qua đó, lập trường, thế giới quan của các học thuyết và của các triết gia cũng được xác định.

Vấn đề cơ bản của triết học có hai mặt, trả lời hai câu hỏi lớn. Mặt thứ nhất : Giữa ý thức và vật chất thì cái nào có trước, cái nào có sau, cái nào quyết định cái nào? Nói cách khác, khi truy tìm nguyên nhân cuối cùng của hiện tượng, sự vật, hay sự vận động đang cần phải giải thích, thì nguyên nhân vật chất hay nguyên nhân tinh thần đóng vai trò là cái quyết định.

Mặt thứ hai : Con người có khả năng nhận thức được thế giới hay không? Nói cách khác, khi khám phá sự vật và hiện tượng, con người có dám tin rằng mình sẽ nhận thức được sự vật và hiện tượng hay không.

Cách trả lời hai câu hỏi trên quy định lập trường của nhà triết học và của trường phái triết học, xác định việc hình thành các trường phái lớn của triết học.

b. Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm Việc giải quyết mặt thứ nhất của vấn đề cơ bản của triết học đã chia các nhà triết học thành hai trường phái lớn. Những người cho rằng vật chất, giới tự nhiên là cái có trước và quyết định ý thức của con người được gọi là các nhà duy vật. Học thuyết của họ hợp thành các môn phái khác nhau của chủ nghĩa duy vật, giải thích mọi hiện tượng của thế giới này bằng các nguyên nhân vật chất - nguyên nhân tận cùng của mọi vận động của thế giới này là nguyên nhân vật chất. Ngược lại, những người cho rằng ý thức, tinh thần, ý niệm, cảm giác là cái có trước giới tự nhiên, được gọi là các nhà duy tâm. Các học thuyết của họ hợp thành các phái khác nhau của chủ nghĩa duy tâm, chủ trương giải thích toàn bộ thế giới này bằng các nguyên nhân tư tương, tinh thần - nguyên nhân tận cùng của mọi vận động của thế giới này là nguyên nhân tinh thần.

- Chủ nghĩa duy vật: Cho đến nay, chủ nghĩa duy vật đã được thể hiện dưới ba hình thức cơ bản: chủ nghĩa duy vật chất phác, chủ nghĩa duy vật siêu hình và chủ nghĩa duy vật biện chứng.

  • Chủ nghĩa duy vật chất phác là kết quả nhận thức của các nhà triết học duy vật thời Cổ đại. Chủ nghĩa duy vật thời kỳ này thưa nhận tính thứ nhất của vật chất nhưng đồng nhất vật chất với một hay một số chất cụ thể của vật chất và đưa ra những kết luận mà về sau người ta thấy mang nặng tính trực quan, ngây thơ, chất phác. Tuy hạn chế do trình độ nhận thức thời đại về vật chất và cấu trúc vật chất, nhưng chủ nghĩa duy vật chất phác thời Cổ đại về cơ bản là đúng vì nó đã lấy bản thân giới tự nhiên để giải thích thế giới, không viện đến Thần linh, Thượng đế hay các lực lượng siêu nhiên.

phẩm của tư duy lý tính dựa trên cơ sơ tri thức và năng lực mạnh mẽ của tư duy.

Về phương diện nhận thức luận, sai lầm cố ý của chủ nghĩa duy tâm bắt nguồn tư cách xem xét phiến diện, tuyệt đối hóa, thần thánh hóa một mặt, một đặc tính nào đó của quá trình nhận thức mang tính biện chứng của con người.

Bên cạnh nguồn gốc nhận thức, chủ nghĩa duy tâm ra đời còn có nguồn gốc xã hội. Sự tách rời lao động trí óc với lao động chân tay và địa vị thống trị của lao động trí óc đối với lao động chân tay trong các xã hội trước đây đã tạo ra quan niệm về vai trò quyết định của nhân tố tinh thần. Trong lịch sử, giai cấp thống trị và nhiều lực lượng xã hội đã tưng ủng hộ, sử dụng chủ nghĩa duy tâm làm nền tảng lý luận cho những quan điểm chính trị - xã hội của mình.

Học thuyết triết học nào thưa nhận chỉ một trong hai thực thể [vật chất hoặc tinh thần] là bản nguyên [nguồn gốc] của thế giới, quyết định sự vận động của thế giới được gọi là nhất nguyên luận [nhất nguyên luận duy vật hoặc nhất nguyên luận duy tâm].

Trong lịch sử triết học cũng có những nhà triết học giải thích thế giới bằng cả hai bản nguyên vật chất và tinh thần, xem vật chất và tinh thần là hai bản nguyên có thể cùng quyết định nguồn gốc và sự vận động của thế giới. Học thuyết triết học như vậy được gọi là nhị nguyên luận , điển hình là Descartes [Đề-các]. Những người nhị nguyên luận thường là những người, trong trường hợp giải quyết một vấn đề nào đó, ơ vào một thời điểm nhất định, là người duy vật, nhưng ơ vào một thời điểm khác, và khi giải quyết một vấn đề khác, lại là người duy tâm. Song, xét đến cùng nhị nguyên luận thuộc về chủ nghĩa duy tâm.

Xưa nay, những quan điểm, học phái triết học thực ra là rất phong phú và đa dạng. Nhưng dù đa dạng đến mấy, chúng cũng chỉ thuộc về hai lập trường cơ bản. Triêt học do vậy được chia thành hai trường phái chính: chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm. Lịch sử triết học do vậy cũng chủ yếu là lịch sử đấu tranh của hai trường phái duy vật và duy tâm.

c. Thuyết có thể biết [Thuyết Khả tri] và thuyết không thể biết [Thuyết Bất khả tri]

Đây là kết quả của cách giải quyết mặt thứ hai vấn đề cơ bản của triết học. Với câu hỏi “Con người có thể nhận thức được thế giới hay không?”, tuyệt đại đa số các nhà triết học [cả duy vật và duy tâm] trả lời một cách khẳng định: thưa nhận khả năng nhận thức được thế giới của con người.

Học thuyết triết học khẳng định khả năng nhận thức của con người được gọi là thuyêt Khả tri [Gnosticism, Thuyết có thể biết]. Thuyết khả

tri khẳng định con người về nguyên tắc có thể hiểu được bản chất của sự vật. Nói cách khác, cảm giác, biểu tượng, quan niệm và nói chung ý thức mà con người có được về sự vật về nguyên tắc, là phù hợp với bản thân sự vật.

Học thuyết triết học phủ nhận khả năng nhận thức của con người được gọi là thuyêt không thể biêt [thuyêt bất khả tri]. Theo thuyết này, con người, về nguyên tắc, không thể hiểu được bản chất của đối tượng. Kết quả nhận thức mà loài người có được, theo thuyết này, chỉ là hình thức bề ngoài, hạn hẹp và cắt xén về đối tượng. Các hình ảnh, tính chất, đặc điểm... của đối tượng mà các giác quan của con người thu nhận được trong quá trình nhận thức, cho dù có tính xác thực, cũng không cho phép con người đồng nhất chúng với đối tượng. Đó không phải là cái tuyệt đối tin cậy.

Bất khả tri không tuyệt đối phủ nhận những thực tại siêu nhiên hay thực tại được cảm giác của con người, nhưng vẫn khẳng định ý thức con người không thể đạt tới thực tại tuyệt đối hay thực tại như nó vốn có, vì mọi thực tại tuyệt đối đều nằm ngoài kinh nghiệm của con người về thế giới. Thuyết Bất khả tri cũng không đặt vấn đề về niềm tin, mà là chỉ phủ nhận khả năng vô hạn của nhận thức.

Thuật ngữ “thuyết bất khả tri” [Agnosticism] được đưa ra năm 1869 bơi T. Huxley [Hắc-xli] [1825 - 1895], nhà triết học tự nhiên người Anh, người đã khái quát thực chất của lập trường này tư các tư tương triết học của D. Hume [Hi-um] và Cantơ. Đại biểu điển hình cho những nhà triết học bất khả tri cũng chính là Hium và Cantơ.

Ít nhiều liên quan đến thuyết bất khả tri là sự ra đời của trào lưu hoài nghi luận tư triết học Hy Lạp Cổ đại. Những người theo trào lưu này nâng sự hoài nghi lên thành nguyên tắc trong việc xem xét tri thức đã đạt được và cho rằng con người không thể đạt đến chân lý khách quan. Tuy cực đoan về mặt nhận thức, nhưng Hoài nghi luận thời Phục hưng đã giữ vai trò quan trọng trong cuộc đấu tranh chống hệ tư tương và quyền uy của Giáo hội Trung cổ. Hoài nghi luận thưa nhận sự hoài nghi đối với cả Kinh thánh và các tín điều tôn giáo.

Quan niệm bất khả tri đã có trong triết học ngay tư Êpiquya khi ông đưa ra những luận thuyết chống lại quan niệm đương thời về chân lý tuyệt đối. Nhưng phải đến Cantơ, bất khả tri mới trơ thành học thuyết triết học có ảnh hương sâu rộng đến triết học, khoa học và thần học châu Âu. Trước Cantơ, Hium quan niệm tri thức con người chỉ dưng ơ trình độ kinh nghiệm. Chân lý phải phù hợp với kinh nghiệm. Hium phủ nhận những sự trưu tượng hóa vượt quá kinh nghiệm, dù là những khái quát có giá trị. Nguyên tắc kinh nghiệm [Principle of Experience] của Hium thực ra có ý nghĩa đáng kể cho sự xuất hiện của các khoa học thực nghiệm.

Chủ Đề