Quan điểm chủ nghĩa mln về giải quyết vấn đề tôn giáo trong cách mạng xhcn ?

30/10/2020 378

Câu hỏi Đáp án và lời giải

Đáp án và lời giải

đáp án đúng: B

Chu Huyền [Tổng hợp]

Câu 25:Trình bày quan điểm chỉ đạo giải quyết vấn đề tôn giáo của CN ML và nội dung chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta hiện nay.

1. Quan điểm chỉ đạo trong việc giải quyết vấn đề tôn giáo trong quá trình xây dựng cnxh

Tín ngưỡng, tôn giáo là một vấn đề tế nhị, nhạy cảm và phức tạp. Vì vậy, việc giải quyết những vấn đề nảy sinh từ tôn giáo cần phải thận trọng, tỉ mỉ, vừa giữ vững nguyên tắc, đồng thời vừa mềm dẻo, linh hoạt cụ thể là:

- Khắc phụ dần những ảnh hưởng tiêu cực của tôn giáo trong đời sống xã hội phải gắn liền với quá trình cải tạo xã hội cũ xây dựng xã hội mới. Đây là yêu cầu khách quan của sự nghiệp xây dựng cnxh.

- Tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng và quyền tự do không tín ngưỡng của công dân. Mọi công dân theo tôn giáo hoặc không theo tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật. Nghiêm cấm mọi hành vi xâm phạm tự do tín ngưỡng của công dân.

- Thực hiện đoàn kết giữa những người theo với những người không theo một tôn giáo nào, đoàn kết các tôn giáo hợp pháp, chân chính, đoàn kết dân tộc để xây dựng đất nước và bảo vệ tổ quốc. Nghiêm cấm mọi hành vi chia rẻ vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo.

- Phân biệt rõ hai mặt chính trị và tư tưởng trong việc giải quyết vấn đề tôn giáo. Mặt tư tưởng thể hiện sự tín ngưỡng tôn giáo này. Đây là mâu thuẫn không đối kháng. Khắc phục mặt này là nhiệm vụ thường xuyên, lâu dài. Mặt chính trị thể hiện sự lợi dụng tôn giáo để chống lại sự nghiệp đấu tranh cm, chống cnxh của các phần tử phản động đội lốt tôn giáo. Đây là mâu thuẩn  đối kháng. Đấu tranh loại bỏ mặt chính trị vừa phải khẩn trương, cương quyết, vừa phải thận trọng và có sách lược.

- Phải có quan điểm lịch sử – cụ thể khi giải quyết vấn đề tôn giáo. Ở những thời kỳ lịch sử khác nhau, vai trò tác động của từng tôn giáo đối với đời sống xã hội không giống nhau. Vì vậy, cần có quan điểm lịch sử – cụ thể khi xem xét, đánh giá và ứng xử đối với những vấn đề có liên quan đến tôn giáo.

2. Vấn đề Tôn giáo ở VN và chính sách Tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta hiện nay:

a. Khái quát tình hình tôn giáo ở nước ta:

Nước ta có nhiều tôn giáo khác nhau. Trong đó có 6 tôn giáo [Phật giáo, Công giáo, Tin Lành, Hồi Giáo, Cao Đài, Hòa Hảo] với khoảng 20 triệu tín đồ.

Đồng bào các tôn giáo trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ đã góp phần xứng đáng vào sự nghiệp đấu tranh giành độc lập dân tộc, xây dựng và bảo vệ tổ quốc.

Trong sự nghiệp xây dựng cnxh, nhiều tín đồ và các giáo sĩ đã nhận thức đúng chính sách, pháp luật của Nhà nước, làm tố cả “việc đạo” và “việc đời”.

Trong những năm gần đây, sinh hoạt tôn giáo có phát triển nhiều hơn trước, số người tham gia các hoạt động tôn giáo tăng lên, các chùa đình, miếu mạo, nhà thờ … xây cất, tu sửa lại. Các hoạt động lễ hội mang màu sắc tôn giáo nhiều lên, mang nhiều màu sắc khác nhau, tất nhiên cũng xuất hiện nhiều hiện tượng mê tín dị đoan. Thực trạng trên, một mặt phản ánh nhu cầu tinh thần của quần chúng, mặt khác cũng nói lên điều không bình thường vì đó không chỉ có sự ính hoạt tôn giáo thuần túy, mà còn biểu hiện lợi dụng tôn giáo để phục vụ cho mưu đồ chính trị và hoạt động mê tín dị đoan.

b. Chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta hiện nay:

Trong văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ Ĩ, Đảng ta khẳng định: “Tín ngưởng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân. Thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tính ngưỡng theo hoặc không theo một tôn giáo nào, quyền sinh hoạt tôn giáo bình thường theo đúng pháp luật ... chống mọi hành động vi phạm tự do tín ngưỡng đồng thơi chống việc lợi dụng tín ngưỡng để làm tổn hại đến lợi ích của Tổ quốc và nhân dân”. Trên quan điểm đó, Đảng ta đã nêu ra chính sách tôn giáo cụ thể sau:

- Thực hiện quyền tự do tín ngưỡng không tín ngưỡng của công dân trên cơ sở pháp luật.

- Tích cực vận động đồng bào tôn giáo tăng cường đoàn kết toàn dân nhằm xây dựng một cuộc sống “tốt đời, đẹp đạo” góp phần vào công cuộc đổi mới kt – xã hội.

- Hướng các chức sắc giáo hội hoạt động tôn giáo theo đúng pháp luật, làm cho các giáo hội ngày càng gắn bó với dân tộc và sự nghiệp cách mạng toàn dân.

- Luôn luôn cảnh giác, kịp thời chống lại những âm mưu và thủ đoạn của các thế lực thù địch lợi dụng tôn giáo chống lại sự nghiệp cm của nhân dân.

- Những quan hệ quốc tế và đối ngoại về tôn giáo hoặc có liên quan đến tôn giáo phải theo chế độ, chính sách chung về quan hệ quốc tế và đối ngoại của Nhà nước ta.

Tóm tắt nội dung tài liệu

  1. QUAN ĐIỂM CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN VỀ TÔN GIÁO VÀ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ TÔN GIÁO TRONG CNXH Tất cả các nhà triết học trước chủ nghĩa Mác, kể cả những nhà duy vật, đều là những người theo chủ nghĩa duy tâm trong quan niệm về đời sống xã hội, vì họ mới dừng lại ở chỗ xác nhận một sự thật là: khác với tự nhiên - nơi mà những lực lượng vô tri vô giác đang hoạt động, thì trong xã hội, con người lại là một trong những thực thể có ý thức, có khả năng tự kiểm soát các hoạt động của riêng mình. Từ đó mà họ đều cho rằng: xã hội vận hành theo một cách riêng của nó, hoặc theo ý chí của một thế lực siêu tự nhiên có nhân tính [ như Đức Chúa ] hay không có nhân tính [ như Ý niệm tuyệt đối ], hoặc theo ý chí chủ quan của chính loài người. Xuất phát từ cái nhìn duy tâm đó, tôn giáo - một hình thái ý thức xã hội, đã ra đời và vẫn có cơ sở để phát triển trong suốt chiều dài lịch sử nhân loại, từ cuối thời kỳ công xã nguyên thuỷ cho đến tận bây giờ. Vậy đâu là nguyên nhân cho sức sống dai dẳng của tôn giáo trong xã hội ? Và trong xã hội xã hội chủ nghĩa, liệu có còn tồn tại tôn giáo ? Chủ nghĩa Mác - Lênin có quan điểm như thế nào về việc giải quyết vấn đề này ? Tìm lời giải đáp cho những câu hỏi này là một vấn đề hết sức phức tạp. Trong tác phẩm Những nguyên lý của Đảng Cộng sản [ năm 1847 ], trước câu hỏi: " Nó [ tức tổ chức cộng sản trong chủ nghĩa xã hội ] sẽ có
  2. thái độ như thế nào đối với các tôn giáo hiện đương tồn tại ?", Ăngghen viết: " Vẫn giữ lại " [1], tức là vẫn giữ nguyên những quan điểm trước đây của Người về vấn đề này trong bản sơ thảo Cương lĩnh của Liên đoàn những người Cộng sản - nhưng tác phẩm này đến nay đã không còn nữa. Chính sự thiếu xót này là một khó khăn trong việc nghiên cứu các quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về tôn giáo và giải quyết vấn đề tôn giáo trong chủ nghĩa xã hội. Nhưng cũng chính từ đó mà vấn đề này trở thành một mảng rất được các học giả xã hội chủ nghĩa quan tâm nghiên cứu. Bởi vậy, trong bài viết này tôi xin trình bày đề tài: " Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về giải quyết vấn đề tôn giáo trong Chủ nghĩa xã hội ". 1. Tôn giáo dưới cái nhìn của chủ nghĩa Mác - Lênin: Tôn giáo là gì ? Và tôn giáo xuất hiện từ đâu ? Tác phẩm Chống Duyhrinh chính là nơi Ăngghen đã đưa ra những nhận định quan trọng vào loại bậc nhất của những người cộng sản về vấn đề tôn giáo. Trong tác phẩm này, Người đã đưa ra định nghĩa về tôn giáo, là " sự phản ánh hư ảo - vào trong đầu óc của con người - của những lực lượng ở bên ngoài chi phối cuộc sống hàng ngày của họ; chỉ là sự phản ánh trong đó những lực lượng ở trần thế đã mang hình thức những lực
  3. lượng siêu trần thế " [2]. Còn Mác trong tác phẩm Góp phần phê phán Triết học pháp quyền của Hêghen cũng đã khẳng định rằng " con người sáng tạo ra tôn giáo " [3]. Quay lại với lý luận nhận thức của Lênin : " từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, và từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn - đó là con đường biện chứng để nhận thức chân lý, của sự nhận thức thực tại khách quan "[4], ta có thể nhận thấy rằng, tôn giáo là kết quả từ một sự phản ánh của thế giới tự nhiên vào bộ não con người một cách sai lầm hoặc là một sự phản ánh không toàn diện thế giới khách quan, khiến con người hiểu sai hoặc không hiểu hết các hiện tượng trong tự nhiên. Cùng với những hạn chế mang tính chất thời đại bắt nguồn từ một nền khoa học còn rất thô sơ, mang nặng tính cảm tính, những phản ánh không đúng đắn này của nhận thức đã tạo nên những rào cản giữa con người và sự thật khách quan của thế giới tự nhiên, dẫn đến việc con người không thể trả lời được các câu hỏi về tự nhiên bí ẩn, và kết quả cuối cùng là khiến con người phải tìm đến tôn giáo. Trong suốt giai đoạn đầu của thời kỳ công xã nguyên thuỷ, tôn giáo vẫn chưa tồn tại, mà chỉ đến cuối thời kỳ này, và sang thời kỳ cổ đại thì những tôn giáo đầu tiên mới bắt đầu hình thành. Đó là do chỉ đến thời kỳ này con người mới có đủ những tri thức để xây dựng, hoàn thiện hệ
  4. thống kinh sách và tín điều, mà quan trọng nhất là việc xuât hiện chữ viết để ghi chép kinh sách. Khi xem xét những tôn giáo xuất hiện trong thời kỳ này, ta nhận thấy chúng mang nhiều đặc điểm xuất phát từ những tín ngưỡng rất sơ khai. Tôn giáo của người Ai Cập, Lưỡng Hà, Hy Lạp - La Mã hay Giéc- manh..., đều là những tôn giáo đa thần [ polytheism ] mang màu sắc tín ngưỡng " vạn vật hữu linh " ; các thần thánh đều đại diện cho những lực lượng thiên nhiên, và " những lực lượng thiên nhiên ấy đã được nhân cách hoá một cách hết sức nhiều vẻ và hết sức hỗn tạp" [5]. Là đại diện cho những lực lượng tự nhiên chi phối đời sống con người, thần thánh của các tôn giáo chi phối đời sống con người. Và bắt nguồn từ đó, những lực lượng chỉ mang tính tự nhiên đã dần mang tính xã hội. Và bắt nguồn từ đó, tôn giáo mang tính giai cấp. Tính xã hội của tôn giáo: Trong Góp phần phê phán Triết học pháp quyền của Hêghen , Mác viết: " Sự nghèo nàn của tôn giáo vừa là biểu hiện của sự nghèo nàn hiện thực, vừa là sự phản kháng chống sự nghèo nàn hiện thực ấy. Tôn giáo là tiếng thở dài của chúng sinh bị áp bức, là trái tim của thế giới không có trái tim, cũng giống như nó là tinh thần của những trật tự không có tinh thần. Tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân " [6]. Nhận định này đã
  5. toát lên đầy đủ tính xã hội của tôn giáo. Nó là sự đền bù lại cho sự nghèo nàn của hiện thực xã hội - với những nghèo nàn của tri thức để lý giải thế giới, tôn giáo lấp đầy vào đó bằng những huyền thoại: thế giới được tạo thành ra sao ? mây, gió, sấm, chớp sự thực là thế nào ?... và với những sự nghèo nàn trong đời sống do sự thấp kém của trình độ khoa học kỹ thuật cùng sự bất công, bạo ngược của xã hội đương thời, tôn giáo như một liều thuốc an thần xoa dịu những vết đau của con người. Lời khẳng định " Tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân " quả thực là hoàn toàn chính xác. Tính giai cấp của tôn giáo: Những lực lượng thuộc tầng lớp trên của xã hội, có địa vị, có tiền của và có tri thức hơn, đã biết lợi dụng tôn giáo để bảo vệ và củng cố quyền lợi của mình, đồng thời cũng không ngừng tác động làm tôn giáo ngày càng phát triển và hoàn thiện hơn. Một thực tế lịch sử là: kinh sách và những tín điều tôn giáo chỉ có thể được hoàn thiện và lưu truyền dưới dạng văn bản bởi những cá nhân thuộc tầng lớp trên trong xã hội. Do đó, cả bằng nguyên nhân chủ quan lẫn khách quan mà tư tưởng của tầng lớp này dần trở thành nền tảng chủ yếu cho các tôn giáo. Một sự kiện quan trọng có thể lấy làm minh chứng cho sự tác động của tầng lớp quý tộc tới tôn giáo, đó chính là sự kiện " Công đồng Nicaea " : hoàng đế La mã là Constantine đã triệu tập hội nghị tất cả các giám mục Kitô giáo tại
  6. Nicaea [ Thổ Nhĩ Kỳ ] năm 325 để biên soạn bộ Kinh Thánh Tân Ước như chúng ta thấy ngày nay, mà mục đích chính là để thống nhất các chi nhánh của Kitô giáo, đưa tôn giáo này trở thành công cụ để mê hoặc nhân dân, củng cố quyền lực của bản thân hoàng đế [7]. Để tổng kết về quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về vấn đề tôn giáo, em xin trích theo Từ điển Triết học như sau: " Tôn giáo là sự phản ánh hư ảo trong đầu óc con người những lực lượng bên ngoài thống trị họ trong cuộc sống hàng ngày, sự phản ánh trong đó các lực lượng trần thế mang hình thức các lực lượng siêu phàm. Chủ nghĩa Mác coi tôn giáo là một hiện tượng xã hội chế định và vì vậy là một hiện tượng nhất thời trong lịch sử. Trong suốt một thời kỳ lịch sử lâu dài của loài người, người ta không hề biết đến một tôn giáo nào cả. Tôn giáo xuất hiện trong một giai đoạn nhất định của chế độ công xã nguyên thuỷ với tư cách là sự phản ánh tình trạng bất lực của con người trước các lực lượng khủng khiếp và bí ẩn của tự nhiên " [8]. 2. Nguyên nhân tồn tại tôn giáo trong chủ nghĩa xã hội Như đã nói ở trên, tôn giáo là một hiện tượng chỉ tồn tại trong một giai đoạn nhất định của lịch sử xã hội, từ đầu thời công xã nguyên thuỷ trở về trước là chưa có, và đến thời kỳ cộng sản chủ nghĩa cũng sẽ không tồn tại tôn giáo. Nhưng trong lòng xã hội xã hội chủ nghĩa vẫn sẽ tồn tại
  7. tôn giáo. Tại sao vậy ? Xuất phát từ bản chất mang cả hai phương diện xã hội và giai cấp như đã trình bày ở trên, tôn giáo trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội cũng như trong thời kỳ đầu của chủ nghĩa xã hội vẫn sẽ tồn tại, bởi nó vẫn chưa mất hết những giá trị tích cực cũng như vẫn còn có những nền tảng để tiếp tục tồn tại. Những nguyên nhân khách quan: Tôn giáo trong thời kỳ xã hội chủ nghĩa vẫn tồn tại vì nền tảng của nó là những câu hỏi về thế giới vẫn chưa thể có được đầy đủ tất cả các câu trả lời xác đáng. Khoa học hiện nay đang tiến nhanh như vũ bão, nhưng khoa học càng phát triển thì nhân loại càng nhận ra rằng những kiến thức của mình về thế giới là quá nhỏ, và còn quá nhiều vấn đề cần phải giải quyết và tìm hiểu. Do đó, những bí ẩn của thế giới không thể được giái quyết một cách nhanh chóng trong một thời gian ngắn; tức là những cơ sở về nhận thức và tâm lý của tôn giáo vẫn còn có thể tồn tại trong lòng xã hội xã hội chủ nghĩa. Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội cũng như giai đoạn đầu của chủ nghĩa xã hội, nền kinh tế xã hội chủ nghĩa vẫn chưa thể phủ định hoàn toàn nền kinh tế thị trường nhiều thành phần; nên trong xã hội vẫn tồn tại những giai cấp, tầng lớp khác nhau, vẫn tồn tại sự phân biệt về
  8. địa vị và quyền lợi kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội... Do đó áp bức, bất công, sự ngẫu nghiên, may rủi... vẫn tồn tại, và vẫn kéo theo niềm tin vào một đấng siêu nhiên nào đó đang định đoạt số phận con người. Những nguyên nhân mang tính chủ quan: Tôn giáo đã tồn tại trong xã hội suốt hàng ngàn năm, và đã ăn sâu bám chặt vào nếp sống, nếp nghĩ của con người. Bởi vậy không dễ dàng gì có thể ngay trong một thời gian ngắn mà loại bỏ tôn giáo ra khỏi đời sống xã hội. Các nguyên tắc của tôn giáo có thể vẫn có những giá trị nhất định trong xã hội chủ nghĩa, như nguyên tắc yêu thương, nhân đạo, nhân ái của đạo Phật hay đạo Kitô. Và trên cơ sở đó, " nhà nước xã hội chủ nghĩa làm cho người có đạo hiểu rằng, niềm tin tôn giáo chân chính không đối lập với chủ nghĩa nhân đạo xã hội chủ nghĩa, và chủ nghĩa xã hội đang hiện thực hoá lý tưởng của chủ nghĩa nhân đạo trong cuộc sống của mỗi người dân " [9].

Page 2

YOMEDIA

Tất cả các nhà triết học trước chủ nghĩa Mác, kể cả những nhà duy vật, đều là những người theo chủ nghĩa duy tâm trong quan niệm về đời sống xã hội

12-07-2011 1461 167

Download

Giấy phép Mạng Xã Hội số: 670/GP-BTTTT cấp ngày 30/11/2015 Copyright © 2009-2019 TaiLieu.VN. All rights reserved.

Video liên quan

Chủ Đề