Phong cách kinh doanh của người Mỹ

1. Cách ứng xử trong văn hóa kinh doanh của người Mỹ

Phong cách tự nhiên, không nghi thức

Mỹ là một đất nước coi trọng sự bình đẳng, người dân Mỹ luôn tin rằng mọi người đều có quyền lợi như nhau. Chính vì vậy, trong kinh doanh người Mỹ không quá trịnh trọng, nghi thức mà chú trọng sự tự nhiên. Nhiều doanh nhân Mỹ cho rằng các nghi thức là phiền toái và không cần thiết.

Họ có tính thực tế nhưng vẫn tạo không khí thoải mái, thân thiện và dễ chịu cho đối tác của mình. Sự tự nhiên trong kinh doanh sẽ giúp loại bỏ các thủ tục rườm rà, tập trung vào vấn đề chính và dễ dàng đạt được mục tiêu mong muốn.

Danh thiếp, quà tặng

Danh thiếp trong kinh doanh tại Mỹ đóng vai trò là hình thức trao đổi địa chỉ hoặc số điện thoại của các đối tác. Việc trao đổi danh thiếp chỉ đóng vai trò nhỏ, không phải là cơ sở cho sự tin cậy trong kinh doanh.

Quà tặng trong kinh doanh ở Mỹ không được chấp nhận về mặt văn hóa vì họ xem những khoản quà tặng có liên quan đến nạn tham nhũng. Doanh nhân Mỹ xem đó là hành vi hối lộ và làm ăn gian dối, không đứng đắn. Nếu việc tặng quà bị phát hiện, các bên liên quan sẽ phải đối mặt với luật pháp Mỹ, thậm chí phải ra tòa. Đây là một mặt rất tích cực và minh bạch trong văn hóa kinh doanh của người Mỹ.

Giải trí trong kinh doanh

Giải trí trong kinh doanh là một cách khá phổ biến để tạo dựng niềm tin và chuẩn bị cho mối quan hệ kinh doanh lâu dài. Tuy nhiên tại Mỹ, các doanh nhân thường phân biệt rạch ròi yếu tố kinh doanh và giải trí. Họ thường không có thói quen tổ chức những buổi tiệc sang trọng để chiêu đãi khách hàng.

>> Xem thêm: Nên đầu tư gì ở Mỹ?

Cách ứng xử trong văn hóa kinh doanh của người Mỹ

Phong cách tự nhiên, không nghi thức

Mỹ là một đất nước coi trọng sự bình đẳng, người dân Mỹ luôn tin rằng mọi người đều có quyền lợi như nhau. Chính vì vậy, trong kinh doanh người Mỹ không quá trịnh trọng, nghi thức mà chú trọng sự tự nhiên. Nhiều doanh nhân Mỹ cho rằng các nghi thức là phiền toái và không cần thiết.

Họ có tính thực tế nhưng vẫn tạo không khí thoải mái, thân thiện và dễ chịu cho đối tác của mình. Sự tự nhiên trong kinh doanh sẽ giúp loại bỏ các thủ tục rườm rà, tập trung vào vấn đề chính và dễ dàng đạt được mục tiêu mong muốn.

Danh thiếp, quà tặng

Danh thiếp trong kinh doanh tại Mỹ đóng vai trò là hình thức trao đổi địa chỉ hoặc số điện thoại của các đối tác. Việc trao đổi danh thiếp chỉ đóng vai trò nhỏ, không phải là cơ sở cho sự tin cậy trong kinh doanh.

Quà tặng trong kinh doanh ở Mỹ không được chấp nhận về mặt văn hóa vì họ xem những khoản quà tặng có liên quan đến nạn tham nhũng.

Doanh nhân Mỹ xem đó là hành vi hối lộ và làm ăn gian dối, không đứng đắn. Nếu việc tặng quà bị phát hiện, các bên liên quan sẽ phải đối mặt với luật pháp Mỹ, thậm chí phải ra tòa. Đây là một mặt rất tích cực và minh bạch trongvăn hóa kinh doanh của người Mỹ.

Giải trí trong kinh doanh

Giải trí trong kinh doanh là một cách khá phổ biến để tạo dựng niềm tin và chuẩn bị cho mối quan hệ kinh doanh lâu dài.

Tuy nhiên tại Mỹ, các doanh nhân thường phân biệt rạch ròi yếu tố kinh doanh và giải trí. Họ thường không có thói quen tổ chức những buổi tiệc sang trọng để chiêu đãi khách hàng.

>>Văn hóa kinh doanh của người Trung Quốc – Những giá trị văn hóa của người Trung Hoa đáng học hỏi

Văn hóa kinh doanh của Mỹ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây [182.82 KB, 17 trang ]

Văn hóa kinh doanh của Mỹ.
MỘT VÀI ĐẶC TRƯNG VĂN HÓA NƯỚC MỸ
Mỹ là một quốc gia trẻ, diện tích rộng lớn là một hợp chũng quốc, đa chủng tộc
[ một nồi hầm] rất giàu tài nguyên thiên nhiên.
 Là một nền văn hóa non trẻ nhưng sức sống mạnh mẽ,
 Là một nền văn hóa đa dạng của nhiều chủng tộc.
1. Kiểm sóat trực tiếp đối với môi trường: [personal control over the environment]:
Văn hóa Mỹ mang tính năng động cao: Họ quan niệm là con người có thể kiểm soát đối
với tự nhiên, có thể làm thay đổi số phận chứ không phụ thuộc vào số phận. Họ đánh giá
thành tựu cá nhân, những người luôn vươn lên. Họ có định hướng tương lai, nghĩ về
tương lai. Giá trị đối lập là Fate: số mệnh, mệnh trời [destiny].
2. Quan niệm về sự thay đổi: [change]: Thay đổi là tốt. Nếu không thay đổi con người rất
dễ bị trì trệ: [stagnate]. Giá trị đối lập: tôn trọng truyền thống, sự ổn định, các rituals,
customs và beliefs trong quá khứ.
3. Kiểm sóat đối với thời gian: [control over time]: Con người bị áp lực của thời gian,
làm việc theo lịch và thời khóa biểu: giờ nào việc đó rõ ràng. [monochronic]: Giá trị đối
lập là “time walks”: “không có gì mà phải vội cả”.
4. Sự công bằng và bình đẳng: [equality and egalitarianism]: Mọi người sinh ra đều bình
đẳng [Lưu ý đây là giá trị hay lý tưởng chứ không phải thực tế]; Giá trị đối lập: đẳng
cấp xã hội thứ bậc và địa vị [ hierarchy, rank and status]
5. Chủ nghĩa cá nhân và sự riêng tư: [individualism và privacy]: các nhu cầu của mỗi cá
nhân và sự riêng tư dược đề cao đúng mức. Văn hóa Mỹ nhấn mạnh đến tự do cá nhân :
bắt nguồn từ lịch sử hình thành nước Mỹ: từ những di dân châu Au nghèo hoặc bị xua
đuổi họ tha hương, phiêu lưu, mạo hiểm, dũng cảm, tự tin, dám nghĩ, dám làm mà lập
nên sự nghiệp. Do đó, self-help được đánh giá rất cao.
Giá trị đối lập: xu hướng hướng vào tập thể hay nhóm: [ group orientation]: cá nhân hy
sinh nhu cầu của mình hay ưu tiên dành cho tập thể
6. Quan niệm đối với cuộc đời số phận của mình: [self-help]: con người nên và cố gắng
cải thiện cuộc sống của mình để vươn lên. Giá trị đối lập: con người ta sinh ra hoặc là
giàu có hoặc nghèo đói là do số phận hay định mệnh [fatalism]
7. Định hướng tương lai: [future orientation]: người Mỹ nhìn về tương lai chứ không phải


nhìn về quá khứ. Giá trị đối lập: [past and present orientation]: con người nên sống vì
hiện tại và cho tổ tiên, nên sống sao cho phù hợp với truyền thống.
8. Khuynh hướng đánh giá con người: [action và work orientation]: công việc thường xác
định con người. Chân dung, bản sắc con người được xác định bởi công việc mà họ làm.
Giá trị đối lập: công việc không phải là trung tâm mà là “ being orientation”: thành phần
xuất thân, tuổi tác, mối quan hệ, vị trí công tác nói lên bản sắc của cá nhân.
9. Sự không đề cao nghi thức: [informality]. Giá trị đối lập: đề cao sự nghi thức.
[formality].
10. Thẳng thắng, cởi mở và trung thực: [directness, openness and honesty]: Giá trị đối
lập: vòng vo, giữ thể diện. “Indirectness and saving face”. Người ta nên lựa lời mà nói
cho vừa lòng nhau. Thẳng thắn hay “lời thật mất lòng”.
11. Quan niệm đối với vật chất [materialism]: con người có khuynh hướng xem vật chất
quan trọng hơn các mục tiêu về tâm linh. [spiritual and intellectual]. Người Mỹ rộng
lượng phóng khoán: [generosity] : Tuy người Mỹ có nhấn mạnh đến của cải vật chất họ
cũng luôn quan tâm chia sẻ với những người bất hạnh.
12. Văn hóa Mỹ mang tính thực dụng [pragmatism] định hướng mục tiêu và thành đạt:
[goal and achievement oriented]: nhấn mạnh đến cái lợi [profit] trái với chủ nghĩa
duy lý phương Tây nhấn mạnh cái thực [ true] và trái với lý tưởng duy Mỹ của châu Á
nhấn mạnh cái đẹp. Người Mỹ nghĩ rằng họ có thể hoàn thành mọi thứ nếu như có đủ
thời gian, tiền bạc và công nghệ.
Tiêu chuẩn của chủ nghĩa thực dụng là thành công, thành đạt: mục tiêu là đạt được lợi
ích. Mọi thứ tài năng, thời gian, sức khỏe đều quy ra tiền bạc. Chủ nghĩa thực dụng coi
thường tư tưởng và lý luận so với thể nghiệm thực tế. Giá trị đối lập [spiritualism]:
NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CỦA VĂN HÓA KINH DOANH MỸ
1. Người Mỹ có khát vọng làm giàu mãnh liệt :
Người Mỹ chẳng những quan niệm làm giàu là cần thiết vì những ích lợi của nó mà còn
xem làm giàu là niềm đam mê của họ. Do đó, mọi chính sách thể chế đều cổ vũ cho mọi
người làm giàu.
2. Văn hóa kinh doanh Mỹ mang tính cạnh tranh cao .
Xuất phát của tính cạnh tranh cao là chủ nghĩa thực dung: đánh giá bản sắc con người

qua thành tựu cá nhân, qua tài sản mà anh ta có [we are what we have], do đó, trong
giao dịch kinh doanh người Mỹ ưa thích sự thẳng thắn, thường bộc lộ thái độ đòi hỏi
quyền lợi một cách công khai. [Low context culture].
3. Văn hóa kinh doanh Mỹ lấy hiệu quả công việc làm thước đo thành tích .
Không giống người Nhật và một vài dân tộc châu Á khác tôn trọng tuổi tác, quyền lực,
địa vị, mối quan hệ, người Mỹ đánh giá con người thông qua hiệu quả công việc, năng
lực thực tế của nhân viên
Người Mỹ thích tự do và tự lực cánh sinh: [ freedom and self-reliant]: Người Mỹ
tiến hành cuộc chiến tranh cách mạng để bảo tồn dân chủ vì vậy về lý thuyết nhân dân
Mỹ không đồng thuận với sự kiểm soát và can thiệp vào các quốc gia khác?. Họ tin
rằng “all persons are created equal”.
Họ luôn lý tưởng hóa những người vượt lên từ sự nghèo đói và nghịch cảnh
[ adversity] và nghĩ rằng họ có thể gây ảnh hưởng đến và tạo ra tương lai cho chính
mình Câu ngạn ngữ phổ biến: “do your own thing” nói lên quan niệm “ kiểm soát số
phận” của người Mỹ. Họ cũng nghĩ rằng với quyết tâm và sáng kiến, họ có thể thực hiện
được [achieve] bất cứ mục tiêu đặt ra nào và do vậy có thể [fulfill] hoàn thành tiềm năng
cá nhân con người.
4. Văn hóa kinh doanh Mỹ coi trọng thời gian .
Người Mỹ quan niệm thời gian là tiền bạc, là của cải nên rất quý thời gian. Trong kinh
doanh họ rất quan tâm đến việc đúng hẹn, tốc độ thương thảo, đến lịch trình, thời hạn
chót…
5. Văn hóa kinh doanh Mỹ có tính năng động cao .
Do mang tính cạnh tranh cao, trong thời gian và trọng hiệu quả nên văn hóa kinh doanh
Mỹ mang tính năng động cao :
 Thị trường chứng khoán Mỹ được xem như phong vũ biểu của nền kinh tế Mỹ và
của cả thế giới.
 Tốc độ ứng dụng công nghệ mới rất cao.
 Không có chế độ sử dụng lao động suốt đời, Mỹ có tốc độ chuyển đổi [ job
hopping: nhảy cóc việc] công việc rất cao.
6. Văn hóa kinh doanh Mỹ tôn trọng pháp luật .

Mỹ là dân tộc tôn trọng luật pháp bậc nhất trên thế giới. Tỉ lệ luật sư lớn, nghề luật sư
là nghề rất phổ biến, thời thượng.
Người Mỹ thích một xã hội được quản lý chặt chẽ bằng pháp luật và các định chế
xã hội vững mạnh : [highly organized and institutionally minded].
Người Mỹ quan niệm “ business is business”. “Kinh doanh là kinh doanh” không
chen lẫn tình cảm cá nhân, mối quan hệ Điều này rất khác so với văn hóa kinh
doanh các nước châu Á.
BÀI DỊCH VĂN HÓA MỸ
Vào ngày 11-9-2001 cả nước Mỹ và nhiều người dân nước Mỹ đã thay đã
người Mỹ tin rằng sự kiện 11-9 là hoạt động xâm phạm nghiêm trọng đến đất
nước của họ. giờ đây nhiều người Mỹ lo ngại về an ninh, có một số bằng chứng
cho thâý những phần tử chìm của Ankeda tồn tại trong lòng nước Mỹ và rằng các
chiến lược tuyển dụng của chúng đã thay đổi từ việc chuyển những người nước
ngoài đang ở ttrong nước Mỹ có Visa sang những công dân nước Mỹ.
Từ ngày 11-9 Mỹ cũng tấn công Afghanistan và Iraq và kết quả là nhiều người
không còn coi trọng cái siêu quyền lực . Tuy nhiên những giá trị căn bản của nước
Mỹ vẫn không thay đổi . Những công dân của liên bang hợp chủng quốc Hoa Kỳ
tự gọi họ là :American[người Mỹ] . Mặc dù khái niệm này cũng có thể coi là sự sở
hữu của những cư dân Bắc Mỹ, Nam Mỹ và Trung Mỹ. Quốc gia này bao gồm
vùng đất chính [phần đất trung tâm ] của lục địa Châu Mỹ hay 48 bang , bang
Alaska ở đầu Tây Bắc của bán cầu, Hawoai ở phía tây của vùng đất chính trên
biển Thái Bình Dương Washington là thủ đô liên bang Hoa Kỳ . Puerto Rico là
một cộng đồng độc lập và quần đảo là một vùng lãnh thổ . Từ thế chiến thứ hai ,
Mỹ đã điều hành 11 vùng lãnh thổ ở Nam Thái Bình Dương và đang dần dần từ bỏ
sự kiểm soát.
Giữa năm 1975-1980 để hiệp định thương lượng với cư dân bản địa của các quần
đảo đã thiết lập nên vùng lãnh thổ tự trị Bắc , quần đảo Mashall và liên bang
Microsia và cộng hòa Palau.
Là quốc gia lớn thứ tư trên thế giới , Hoa Kỳ được gọi là nền văn hóa thập
cẩm , nơi mà có nhiều người đến từ nhiều nơi và hòa vào dòng văn hóa Châu Âu

chính . Cách ẩn dụ là cái tô xà lách thì chính xác và phù hợp hơn . Bởi vì nó thừa
nhận sự đóng góp của văn hóa Châu Phi, thổ dân bản địa và Châu Á và Latinh.
Với mỗi nền văn hóa lưu giữ được nét văn hóa đặc trưng, độc nhất đồng thời cố
gắng sống và làm việc hòa hợp với nhau. Đúng đây là vùng đất của những người
nhập cư. Từ thời những người thực dân [Anh,Pháp và Tây Ban Nha] và nô lệ châu
phi và sự đổ xô đến nước Mỹ của những người Châu Âu vào thế kỉ 19 cho đến làn
sóng những người tị nạn từ Indochina,Cuba, và Haiti. Gần đây những dân tộc
thiểu số đang phát triển như Hispanics, người da đen , người Châu Á cũng như thổ
dân bản địa đang nhanh chóng thay đổi diện mạo của dân cư nơi đây.
Cận cảnh về văn hóa
Hoa Kỳ là 1 xã hội đa văn hóa, tiếng Tây Ban Nha đang nổi lên như là 1 ngôn ngữ
thứ 2 đặc biệt là Tây Nam California, Florida, và Puerto Rito. Lối diễn đạt của
những người thay đổi theo phương diện địa lý. Tiếng Pháp được sử dụng nhiều ở
bang và ở 1 số nơi của bang New England.
Mục tiêu và thành quả đã được định hướng
Người Mỹ nghĩ rằng họ có thể đạt được hầu như mọi thứ miễn là có đủ thời
gian tiền bạc và công nghệ.
1. Mang tính thể chế cao và được tổ chức chặt chẽ
Người Mỹ thích một xã hội mà được tổ chức chặt chẽ
2. Yêu tự do và độ lập cá nhân
Người Mỹ đã trải qua một cuộc cách mạng và những cuộc chiến tranh liên tiếp
để bảo vệ khái niệm của họ về dân chủ. Vì vậy họ ghét sự kiểm soát và can
thiệp quá đáng . Đặc biệt là của chính phủ và các lực lượng bên ngoài. Họ tin
vào lý tưởng mọi người đều sinh ra bình đẳng. Mặc dù đôi khi họ lại không thể
hoàn toàn làm theo đúng lý tưởng đó. Họ cố gắng thông qua Luật pháp để đề
cao cơ hội bình đẳng và đối mặt chính sự. Sự phân biệt chủng tộc và định kiến
của họ .Người Mỹ cũng lý tưởng hóa một con người tự lực cánh sinh đi lên từ
đói nghèo và bất hạnh. Việc kiểm soát được số phận của mình thì thường được
gọi là đi theo con đường riêng [ lối đi riêng ]. Quan trọng nhất người Mỹ nghĩ
rằng với sự quyết tâm và dấn thân người ta có thể đạt tới những gì người ta

muốn và vị thế có thể khai thác hết tiềm năng của mỗi con người
3. Công việc đã được định hướng và đạt hiệu quả cao
Người Mỹ sở hữu quy tắc làm việc mạnh mẽ mặc dù gần đây họ đang tận
hưởng thời gian thư giãn. Họ rất chú trọng thời gian và hiệu quả khi làm việc. Họ
mày mò tìm hiểu máy móc và hệ thống công nghệ, luôn luôn tìm cách dễ hơn, tốt
hơn, hiệu quả hơn để hoàn thành công việc.
4. Thân thiện và ít trang trọng
Người Mỹ bác bỏ những đặc quyền truyền thống hoàng gia và tầng lớp nhưng
khá tôn trọng sự giàu sang và quyền lực. Một số người Mỹ bị ấn tượng bởi
những người nỗi tiếng được giới truyền thông Mỹ tạo nên. Mặc dù khá xuề xòa
trong cách chào hỏi và ăn mặc thì họ lại thuộc một nền văn hóa “ không tiếp
xúc” [ ví dụ họ thường tránh ôm nhau nơi công cộng] và giữ một khoảng cách
nhất định cả về thể chất và tâm lý
5. Cạnh tranh và hiếu chiến
Người Mỹ trong cả việc chơi và làm việc nói chung đều cố gắng đạt đến thành
công . Điều này phần nào bắt nguồn từ di sản văn hóa của họ, họ đã chiến
thắng hoang dã và điều kiện môi trường khắc nghiệt
6. Các giá trị đang thay đổi
Các giá trị truyền thống của Mỹ về sự chung thủy gia đình, sự tôn trọng và
chăm sóc người già, về hôn nhân và gia đình hạt nhân, lòng yêu nước, sự sở
hữu của cải vật chất, tính thẳng thắn và những thứ tương tự đang trải qua một
sự biến đổi sâu sắc.
7. Rộng rãi
Dù người Mỹ nhấn mạnh các giá trị vật chất, họ là người biết chia sẻ biểu hiện
qua “ kế hoạch Marfshall” những chương trình hổ trợ cho các nước khác, hổ
trợ người tị nạn và sự sẳn sang dù ở trong hay ngoài nước, ủng hộ một lý tưởng
tốt đẹp và giúp đở các nước láng giềng khi cần. Họ có xu hướng vị tha, có thể
nói là ngây thơ.
8. Thể chế Xã hội
Khi nói đến thể chế xã hội Mỹ có 3 điều cần lưu ý: Giáo dục được xem là một

cách để phát triển bản thân. Vì vậy việc tham gia vào công tác giáo dục vào các
hoạt động trong lớp học rất được khuyến khích. Việc đi học là bắt buộc cho
đến tuổi 16 và ít nhất là 97% hoàn thành xong bậc tiểu học, vì vậy tỷ lệ biết
chữ rất cao. Có một hệ thống trường công lập[ thường miễn phí] và trường tư
thục lên đến bậc đại học, trường tư thục có thể độc lập hoặc liên kết với một
tôn giáo nào đó.
Một gia đình thông thường là gia đình hạt nhân gồm chỉ có cha mẹ và con cái,
tuy nhiên số gia đình chỉ có cha hoặc mẹ đang tăng. Khoảng một nữa các cuộc
hôn nhân kết thúc bằng ly dị, hơn nữa số phụ nữ Mỹ đi làm ở ngoài và phụ nữ
Mỹ đang có nhiều cơ hội để phát triển bản thân và sự nghiệp, được pháp luật
đảm bảo. Xã hội hướng về giới trẻ và chăm sóc cho người già trong viện
dưỡng lão. Xã hội đang trải qua một thử nghiệm về kết cấu gia đình mới từ
những cặp chưa cưới đến sống chung với nhau cho đến những nhóm người
sống chung với nhau.
Về chính trị, chính phủ hoạt động dựa trên hiến pháp năm 1787. Hiện nay,
đang ngày càng có nhiều vấn đề làm vỡ mộng các chính trị gia: Tham nhũng
trong những văn phòng công, và việc đẩy mạnh tình trạng phân quyền. Khái
niệm về sự liên minh giữa các bang [ như là sự nhấn mạnh quyền lợi giữa các
bang và chính phủ ít chi phối cuộc sống của cá nhân hơn] .
Những thách thức đối với Hoa Kỳ:
Người Mỹ đang trải qua những thay đổi Xã hội sâu sắc và thậm chí là sự
khủng hoảng. Những nhân tố sau đây đã góp phần tạo nên sự thách thức:
- Là một siêu cường độc tôn của nền kinh tế thế giới buộc người Mỹ phải
xét lại cách họ tự nhận thức về quốc gia mình. Sau thành công của 2
cuộc thế chiến, chiến tranh Triều Tiên và chiến tranh Việt Nam tỏ ra tốn
kém và có nhiều mâu thuẫn đáng lo ngại mà giới truyền thông Mỹ đã
đặt ra. Càng lúc càng ít người Mỹ ủng hộ cuộc chiến tranh Iraq và ở
nước ngoài, cuộc chiến chưa bao giờ được ủng hộ. Những vụ ám sát
trong thập niên 60 đã làm nhụt ý chí quốc gia. Các cuộc chống đối có tổ
chức và nhu cầu thể hiện mục tiêu quốc gia. Trong những năm 1980

Kinh tế Mỹ phát triển mạnh mẽ và tinh thần yêu nước cao. Và việc đầu
tư vào công nghệ cao nở rộ. Vào cuối thập niên 90 thị trường chứng
khoán phát triển với cổ phiếu Internet dẫn đầu. bạo lực đường phố và
học đường vẫn tiếp diễn . Người Mỹ bị sốc bởi hành động khủng bố ở
trung tâm thương mại thế giới và tòa nhà liên bang ở thành phố
Okalahoma.
- Sự Latinh hóa nước Mỹ đang ảnh hưởng đến tính cách và sự giao tiếp
của người Mỹ.
- Tệ nạn Xã hội vẫn tiếp tục diễn ra đặc biệt là sự gia tăng bạo lực, phân
biệt chủng tộc. Và người ta lo ngại về hai xã hội: Xã hội da màu và Xã
hội da trắng cách nhìn về nước Mỹ khác nhau.
- Hoa Kỳ là nước đầu tiên chuyển sang Xã hội hậu công nghiệp và quá
trình này đang xảy ra nhanh hơn các nước khác do những sự phát triển
về khoa học và công nghệ. Những giá trị và lối sống được tạo nên bởi
công nghiệp phát triển đang xem xét lại, và người ta đang tìm kiếm
những thay đổi hiệu quả hơn trong văn hóa. Tác động của những xu thế
phụ thuộc vào việc bạn đang ở đâu trên nước Mỹ, vì vậy có sự khác biệt
về nhiều nền văn hóa ngầm. Lối sống và thái độ sống ở phía Đông và
phía Tây đặc biệt khác nhau. Phía Đông được cho là có tổ chức hơn, bảo
thủ trong suy nghĩ, tổ chức quá chặt chẻ và đang suy yếu. Phía Tây bình
dân hơn, đổi mới và linh hoạt hơn. Do vụ ngày 11 – 9 người Mỹ đang
trở nên tách biệt hơn, mang chủ nghĩa quốc gia hơn, suy nghĩ mang tính
địa phương.
- Nhiều người Canada, Nhật Bản, Châu Âu, Trung Đông và Nam Phi mua
lại các tập đoàn, tài sản của Mỹ và điều này gây ra một sự e sợ và phản
ứng cực đoan.
- Việc người tị nạn người nhập cư hợp pháp và bất hợp pháp đang đổ xô
vào nước Mỹ tạo gánh nặng cho hệ thống xã hội hiện nay.
Những nhận xét về văn hóa của các tác giả khác
Nhà nhân chủng học Margaret Mead có ý kiến rằng người Mỹ và người Anh có

thế giới quan khác nhau về bản chất. Nếu một người Mỹ được hỏi câu “ màu
sắc yêu thích nhất của anh là gì?” họ sẽ nhanh chóng nói tên một màu. Nếu đó
là người Anh câu trả lời đó có thể là “màu sắc yêu thích của cái gì? Hoa? Cà
vạt?”. Bà Mead kết luận rằng người Mỹ luôn tìm kiếm một mẫu số chung.
Mỹ là gì? Liệu có một nền văn hóa chính thống nào chung cho tất cả người
Mỹ? lý thuyết tô xà lách trộn có thực tế không? Hoa Kì có phải là một Xã hội
đa quyền không? Hay đó là một Xã hội đa văn hóa? Mỹ là gì?
Danh sách sau đây, theo Stewart và những người khác là bản tóm tắt tất cả
những gì có thể được gọi là giả thiết và giá trị văn hóa chính của Mỹ. Các mục
chính là: Các hoạt động, động cơ các mối quan hệ xã hội, cách nhìn nhận thế
giới, cách nhìn nhận bản thân.
Những câu hỏi hoạt động:
1. Tự bản thân mỗi người phải chủ động làm những việc như thế nào?
Liên quan đến công việc, quá trình, sự thay đổi môi trường bên ngoài, sự lạc
quan, sự phấn đấu
2. Tiến độ cuộc sống được mô tả như thế nào?
Nhanh, bận rộn, nhịp nhàng
3. mục tiêu của việc lập kế hoạch quan trọng như thế nào?
Nhấn mạnh đến ý nghĩa, thủ tục, phương pháp kỹ thuật
4.Mục tiêu quan trọng trong cuộc sống là gì?
Mục tiêu vật chất
Tiện nghi và không có sự đau khổ
Chủ động
5. Trách nhiệm về những quyết định sai lầm thuộc về ai?
Trách nhiệm của những quyết định sai lầm thuộc về mỗi cá nhân
6. Con người sống ở mức độ nào?
Phụ thuộc vào quá trình hoạt động, những mục tiêu ước lượng trong giới hạn
của kết quả
7. Mọi người ước lượng dựa trên nền tảng cơ sở nao?
Lợi ích

8. Ai nên đư ra các quyết định?
Những người có sự ảnh hưởng
9. Bản chất của vấn đề được giải quyết như thế nào?
Hành vi
Biết trước kết quả
10.Bản chất của việc học là gi ?
Người học nên tự học[ việc học nên lấy sinh viên làm trung tâm]
Những câu hỏi về mối quan hệ xã hội:
1. Những vai trò được định nghĩa như thế nào?
Đã đạt được
Lỏng lẻo
Chung chung
2. Con người sẽ làm như thế nào khi nằm trong những trạng thái tinh thần
khac biệt nhau?
Chú trọng đến sự công bằng
Sự khác biệt ở mức thấp nhất
Trước áp lực của bất hợp lệ và tự phát.
3. Vai trò của giới tính được định nghĩa như thế nào?
tương tự, trùng lặp
bình đẳng giới tính
bạn của cả 2 giới
ít được hợp pháp hóa
4. Quyền và nghĩa vụ của những thành viên trong cùng 1 nhóm?
thừa nhận sự tin cậy hữu hạn
gia nhập vào nhóm để tìm kiếm những mục tiêu riêng
những thành viên năng động có thể ảnh hưởng đến nhóm
5. Mọi người xét đoán những người khác như thế nào?
khả năng sở trường đặc biệt
tập trung vào nhiệm vụ
sự liên quan rời rạc

6. Ý nghĩa của tình bạn là gì?
tình bạn mang tính xã hội [ lời cam kết ngắn ngủi, chia sẻ bạn bè]
7. Bản chất của sự nhân nhượng mang tính xã hội là gì?
chỉ có thực tế
không ràng buộc [ theo cách cư xử của người Hà Lan]
bình đẳng [ theo cách cư xử của người Hà Lan]
8. Mọi người đánh giá sự xung đột thân thiện trong tương tác xã hội như thế nào?
có thể chấp nhận được, thú vị, vui
Những câu hỏi về động cơ thúc đẩy:
1. Động lực của sự thúc đẩy là gì?
Thành tựu
2. Sự cạnh tranh giữa người với người được đánh giá như thế nào?
hữu ích, lành mạnh
Những câu hỏi về sự nhận thức thế giới: [ quan điểm về thế giới]
1. Bản chất của thế giới là như thế nào?
vật chất
cơ học
2. Thế giới vận hành như thế nào?
trong một cách thức hợp lý, có thể hiểu biết được, có thể kiểm soát được
cơ hội và khả năng
3. Bản chất của con người là gì?
ngoại trừ bản chất hay thứ bậc tôn ti nào
nhất thời, không cố định, có thể thay đổi
4. Mối quan hệ giữa con người và bản chất là gì?
Điều tốt là vô hạn
Con người có thể sửa đổi bản chất vào cuối cuộc đời
Sức khỏe tốt và sung túc vật chất được mong đợi và mơ ước
5. Bản chẩt của sự thật là gì?của lòng tốt là gì?
không dứt khoát [ loại công việc]
có liên quan đến những tình huống

kinh nghiệm được phân tích tách biệt thành những thành phần và lưỡng phân
6. Thời gian được định nghĩa như thế nào? Được coi trọng ra sao?
tương lai [ cách phòng tránh]
những đơn vị chính xác
nguồn giới hạn
trực hệ
7. Bản chất của tài sản là gì?
Là sự sở hữu riêng tư quan trọng vì sự mở rộng của tài sản
Những câu hỏi về sự nhận thức bản thân và nhận thức cá nhân
1. Từ nào được tự xác định?
Nhập nhằn, những từ ngữ có tính chất thay đổi
Cư xử linh hoạt
2. Sự nhận diện của 1 người dường như là ở đâu?
Trong bản than họ [ thành tựu]
3. Bản chất của cá nhân
Là những khía cạnh riêng biệt [ mục đích, suy nghĩ, hành động, bối cảnh tiểu sử]
4. Một người đặt niềm tin vào ai?
Bản thân họ
Những tổ chức vô cảm
5. Người nào được đánh giá và tôn trọng? có những tính chất gì?
Trẻ trung [ hoạt bát, đầy sinh lực]
6. Điều cơ bản của việc điều chỉnh xã hội là gì?
Sự thuyết phục, yêu cầu đối với cá nhân
Tội lỗi
Trong xu thế chủ đạo của xã hội Mỹ, đa phần mọi người đều có mối quan tâm đến
“ sự làm”. Người Mỹ hay nghĩ ngợi, lo lắng về thời gian, về cơ quan tổ chức và
cách sử dụng nguồn tài nguyên. Trong quan hệ xã hội Mỹ mọi người đều được
đánh giá ngang nhau, như thế sẽ xóa đi yêu cầu về cách thức thưa gửi cầu kỳ trong
xã hội. Mối quan hệ xã hội được mô tả bằng sự thân mật và sự nhường nhịn lẫn
nhau trong xã hội được định nghĩa một cách ít rõ ràng hơn. Mainstream người Mỹ

được thúc đẩy bởi những thành tựu và thành tích. Sự nhận diện cá nhân người Mỹ
và đến một phạm vi chắc chắn nào đó, giá trị bản thân của một người được đánh
giá bởi những thành tựu mà người đó đạt được. Thế giới thuộc về vật chất hơn là
tinh thần và người Mỹ xem bản thân mình là riêng lẻ và độc nhất.
Tuy nhiên nền văn hóa Mỹ đang trong thời kỳ chuyển tiếp. Nhiều gia đình Mỹ
đang trong thời kỳ khủng hoảng đặc biệt là khu phố cổ. Vài người cho rằng đó là
vật trang trí trong cuộc sống Mỹ, lượng lớn tầng lớp trung lưu đang ăn mòn và
đang trong tình trạng đe dọa nền kinh tế. Tệ nạn bạo lực ngày càng gia tăng, đặc
biệt là ở những người trẻ tuổi – những người thiếu sự giáo dục tính cách và chăm
sóc vì mối quan tâm của ba mẹ chúng là công việc và kiếm sống. Trong những
hoàn cảnh như vậy, một cụm dân số đang mở rộng này dễ vô gia cư, lạm dụng vợ
chồng hoặc trẻ em, lạm dụng tiền của, dễ bị bẹnh hoang tưởng, dễ phạm tội, dễ thù
ghét và tính không khoan dung. Bộ phận thiểu số khốn cùng này cân bằng với đa
số những người Mỹ giàu có và được giáo dục tốt, ngược lại với phần còn lại của
dân số thế giới là những người rộng rãi hào phóng khi làm từ thiện và công ích, là
những người có chế độ ăn uống điều dưỡng đầy đủ và khỏe mạnh, là những người
đấu tranh cho chính nghĩa như bảo vệ loài vật và môi trường, là những người lạc
quan và hiện đại. Mỹ có một mối quan tâm lớn về vấn đề bạo lực và chủ nghĩa
phân biệt chủng tộc đang ngày càng gia tăng. Theo như Shusta,… bạo lực được
kích động bởi lòng căm ghét, tôn giáo, dân tộc hoặc sự hướng đến tình dục đã tồn
tại qua nhiều thế hệ ở Mỹ cũng như trên toàn thế giới và tệ nạn bạo lực này đang
ngày càng gia tăng.
Nhánh văn hóa của Mỹ:
Đầu thế kỷ thứ 20, người da trắng sẽ trở thành thiểu số ở bang California. Vào
năm 1990, bang này có 90% người da trắng. Số người Tây Ban Nha trong lưc
lượng lao động sẽ tăng từ 9% năm 1990 đến 13.3% năm 2010 và đến 24% năm
2050. Sự nổi lên của một xã hội đa dân tộc này là hiển nhiên ở Los Angeles nơi có
tạp âm của 160 ngôn ngữ được nói ngày nay. California bây giờ đã trở thành nhà
của đến 2.4% dân nhập cư bất hợp pháp. Việc biến đổi từ một bộ phận thiểu số
thành đa số như vậy cũng diễn ra tương tự ở bang Texá, Arizona, New York,

Nevada, New Jersey và Maryland. Trước năm 2050, một nửa dân số người Mỹ sẽ
có khả năng là người da màu.
Sự giống nhau một cách khác thường này đã phác họa lên xã hội Mỹ trong quá
khứ- trong giai đoạn chiến tranh Thế giới thứ 2 bị thay thế bởi tính đa dạng tột độ.
Đa số thị trường quốc gia hợp nhất trong lịch sử của thế giới tạo thành sự sắp xếp
của nhiều ngạch. Dân nhập cư, hợp pháp và bất hợp pháp, đã phá hỏng tính đồng
nhất của dân số Mỹ và làm nhân lên những mối liên hệ giữa xã hội Mỹ và những
xã hội khác trên thế giới.
Ở nước Mỹ, có những nền văn hóa thiểu số của người Mỹ gốc Phi, người Tây Ban
Nha, người Mỹ gốc Trung Quốc, người Mỹ gốc Nhật, người Do Thái, những thay
đổi thể chất, và những người dân thâm niên, có tiếng tăm nhưng chỉ có một vài
người như vậy. Mỗi người trong những nhóm này có nhiều mặt trong cuộc sống,
có những ưu thế hoặc những giá trị riêng của họ mà có thể khác với số đông trong
xu thế chủ đạo của xã hội Mỹ Để làm việc một cách hiệu quả và phát triển những
mối quan hệ đích thực với bất cứ một nhánh văn hóa nào cần thiết phải có sự ý
thức, chấp nhận, đánh giá cao và tôn trọng sự duy nhất của nền văn hóa đó.
Martin et al cho rằng những cái mác rời rạc giúp định nghĩa sự nhận diện và có
mối liên hệ với những cấu trúc quyền lực. Đa số những nhãn nhận diện này ở Mỹ
đều có mối liên hệ với những cái không phải da trắng.
Mọi người tranh luận rằng sự thiếu quan tâm chú ý đến việc nhận diện da trắng và
dán nhãn bản thân phản ánh lên quyền lực lịch sử được nắm giữ bởi người da
trắng ở Mỹ. Người da trắng với tư cách là một nhóm đặc quyền đặc lợi xem sự
nhận dạng của họ như là một quy tắc hoặc một tiêu chuẩn mà lấy đó để đo lường
đánh giá các nhóm khác, và sự nhận diên này vì thế mà tiềm ẩn, thậm chí đến một
phạm vi mà nhiều người da trắng không suy nghĩ có ý thức về sự ảnh hưởng sâu
sắc về việc bản thân là người da trắng trong cuộc sống hàng ngày của họ.
Đặc quyền da trắng và những chuẩn mực da trắng được gắn vào một cách rất văn
hóa đến nỗi mà da trắng đã trở thành “ nhập quốc tịch ”. Quy tắc chủng tộc để trở
thành người da trắng hay công nhận màu da trắng của một người nào đó không
bao giờ được người da trắng thừa nhận hoặc phân tích bởi vì người da trắng

thường xem bản thân họ là thước đo về chủng tộc mà theo đó dùng để so sánh các
nhóm chủng tộc khác.
Có 2 loại nhóm thiểu số: những người được phân biệt thông qua thể chất- gọi là
nhóm chủng tộc và những người được phân biệt thông qua ngôn ngữ, tôn giáo, văn
hóa và những đặc điểm dân tộc. Theo như Gudykunst va Kim, những thành viên
trong nhóm thiểu số có 5 đặc điểm : đầu tiên, những thành viên của nhóm thiểu số
bị những thành viên của nhóm đa số đối xử phân biệt. Sự mất bình đẳng này
thường dẫn đến tình trạng chia tách, có thành kiến và phân biệt chủng tộc. Thứ
hai, những thành viên của nhóm thiểu số hoặc có đặc điểm về thể chất hoặc có đặc
điểm về văn hóa khiến cho họ chịu đựng nhóm đa số số. Thứ ba, bởi vì nhóm
thiểu số chịu đựng nhóm đa số nên những thành viên của nhóm này thường không
tự nguyện. Thứ tư, thành viên của nhóm thiểu số có xu hướng làm quen và kết hôn
với những thành viên của nhóm khác. Đặc điểm cuối cùng thành viên của nhóm
thiểu số đều có ý thức về địa vị thấp của họ sẽ đưa đến sự đoàn kết mạnh mẽ trong
nhóm.
Thường thì những nhóm có địa vị thấp không được thừa nhận là hợp pháp và riêng
biệt. Thay vào đó họ tất yếu bị giải tán và bị xét đoán vì vẻ bề ngoài của họ thay vì
được thừa nhận và đánh giá đúng về nền văn hóa, ngôn ngữ đặc điểm dân tộc khác
biệt.
Người Mỹ gốc Phi
Cuộc chiến tranh dân sự diễn ra thể hiện sự liên minh hợp nhất giữa phía Bắc và
phía Nam. Chế độ nô lệ bị hủy bỏ. Tuy nhiên, người Mỹ gốc Phi vẫn đang nỗ lực
đấu tranh dành quyền công dân và cơ hội bình dẳng dưới pháp luật. Lịch sử của
địa vị thấp kém không được hủy bỏ một cách dễ dàng hay hoàn toàn. Chủ nghĩa
phân biệt chủng tộc trở nên nhạy cảm trong vấn đề thể chế, nhà cửa hay những cơ
hội giáo dục. Mặc dù họ đạt được nhiều thành tựu và sự phát triển của những tầng
lớp da đen trung lưu và có địa vị cao hơn thì tình trạng thất nghiệp ở thanh thiếu
niên da đen và những cái chết vì nạn bạo lực trong cộng đồng người da đen vẫn
đang ngày càng tăng lên. Cần có nhiều hành động hơn khi tất cả những công dân
Mỹ gốc Phi đều được chia sẻ trong giấc mơ Mỹ. Quyền lực không được chia sẻ thì

con đương dẫn đến kinh tế sẽ không còn bình đẳng.
Những sự kiện toàn cầu đã chứng minh được rằng chủ nghĩa phân biệt chủng tộc
đang là một vấn đề thế giới quan trọng chẳng hạn như xóa đi dân tộc lâu đời
Yugoslavia và nạn diệt chủng ở Rwanda cũng như “ tiểu sử dân tộc” đã trở thành
vấn đề báo động của thâe giới.
Thú vị là từ “ phân biệt chủng tộc” không được liệt kê vào từ điển năm 1939 của
Webster. Tuy nhiên, 10 năm sau, định nghĩa này đã xuất hiện trong từ điển giữa
các trường đại học của Webster có thể là do ảnh hưởng của chiến tranh thế giới
thứ 2 và triết lý của người theo chủ nghĩa phân biệt chủng tộc Nazi Germany. Liệu
rằng một người quan tâm đến chủ nghĩa phân biệt chủng tộc thuộc cá nhân, cơ
quan, văn hóa hoặc mang tính tượng trưng thì đó trở thành một hiện tượng thâm
canh cố đế, ăn sâu vào nhiều nền văn hóa.
Theo như phía Tây, chủng tộc là một vấn đề dễ bùng nổ trong đời sống Mỹ hiện
nay. Để bắt đầu một cuộc đối thoại nghiêm túc liên quan đến vấn đề chủng tộc thì
một người có thể lập ra một giới hạn cho vấn đề này. Chừng nào mà người Mỹ
gốc Phi được xem như là “ chính bản thân họ” và những gánh nặng đè lên người
da đen để thực hiện sự thỏa hiệp về đạo đức và văn hóa thì những mối quan hệ
chủng tộc lành mạnh sẽ không còn chiếm ưu thế nữa. Chúng ta có thể sẽ không
còn tin rằng chỉ có những người Mỹ mới có thể định nghĩa là gì khi trở thành một
người Mỹ và phần còn lại thì nên ăn khớp hoàn toàn.
Những nhóm thiểu số trong nhiều nền văn hóa đã chứng minh dấu hiệu của hành
động loại bỏ và tiến đến sự đồng hóa, một vài nhà khoa học xã hội tự hỏi rằng liệu
những đất nước như Mỹ có sự đồng hóa to lớn như người ta đã mong đợi và hy
vọng hay không. Con số tội ác đang ngày càng gia tăng trong nhiều xã hội. Trong
các nhóm xuất hiện một cơn thịnh nộ mà không ai có thể hiểu hay gọi tên một
cách đầy đủ.
Cơn thịnh nộ này khớp nối với nhau thường xuyên. Trong giai đoạn chương trình
TV Oprah Winfrey thịnh hành, vào ngày 15 tháng 9 năm 1995, Lee Mun Wah, đạo
diễn của bộ phim The Color of Fear, đã trình chiếu một trích đoạn trong bộ phim.
Một người Mỹ da trắng hỏi “ Chúng ta không phải cùng là người sao? Ý tôi là tại

sao chúng ta lại không là anh em?” Một người Mỹ gốc Phi đáp: “ Anh nghĩ rằng là
khi tất cả chúng ta đối xử với những người khác như là một con người thì mọi
chuyện sẽ tốt đẹp. Điều đó nói với tôi rằng : “ hãy đừng là chính bạn, hãy giống
như tôi đây, để cho tôi thoải mái. Hãy liên lạc với tôi khi nào tôi sẵn sàng. Hãy
đến với tôi”… Anh biết đấy, tôi sẽ không tin vào anh cho đến khi anh sẵn sàng bị
thay đổi và bị tác động bởi những kinh nghiệm của tôi và bị biến đổi bởi những gì
tôi đã trải qua hằng ngày bởi những con người như anh”.
Người Mỹ gốc Tây Ban Nha
Người TBN đang ngày càng phát triển trong khu vực kinh doanh của người Mỹ.
Cảm xúc và sự thích nghi văn hóa của họ cùng với tầm quan trọng của gia đình
phù hợp đúng lý tưởng với cả người Mỹ lẫn bối cảnh kinh doanh toàn cầu .
Chúng tôi kết thúc việc thảo luận về nhánh văn hóa Mỹ cùng với một sự điều tra
tóm tắt về một bộ phận đại đa số đang nổi lên. Định nghĩa một cách rộng hơn thì
một người Mỹ Latinh hay người TBN đều là dân nhập cư đến Mỹ, hoặc tổ tiên của
họ đến từ TBN hay châu Mỹ latinh. Đa số họ đều nói tiếng TBN và phản ánh lên
sự thừa hưởng văn hóa của cả TBN lẫn dân tộc bản xứ ở Mexico, ở Trung Mỹ và
Nam Mỹ. Tầm ảnh hưởng văn hóa này là hiển nhiên ở bang California, Florida,
Nevada, Arizona, Texas, Puerto Rico và đảo Guam.
Từ quan điểm của việc tạo ra hiệp lực về văn hóa do sự khác biệt về văn hóa, sự
phát triển của người Mỹ latinh và sự hòa nhập vào văn hóa Mỹ không chỉ ở tây
nam và đông nam mà còn ở những trung tâm thành phố chính như Denver,
Chicago và New york cũng như ở 2 thành phố Miama và Los Angeles, 2 thành
phố được những người thuộc dân TBN tìm thấy cách đây 200 năm. Rất nhiều
người Mỹ latinh với những cộng đồng của họ quay trở lại thế kỷ thứ 16, xem họ
như là những người Mỹ chính gốc. Đã 150 năm trôi qua kể từ khi Mỹ sáp nhập
thêm tây nam sau chiến tranh với Mexico và đã 1 thế kỷ trôi qua từ khi Mỹ chiếm
được Puerto Rico. Ngày nay, người Mỹ latinh đại diện cho 11% dân số nước Mỹ,
tăng 60% và dự kiến năm 2015 sẽ tăng đến 75%. Những nhà dự báo Cencus đã dự
báo dân số người TBN ở Mỹ là 96 triệu người trước năm 2050. Người TBN nói
tiếng Mỹ hỗn tạp giữa những người da màu và những người chính gốc: 65% đến

từ Mexico, 12% Puerto Rico, 12% Trung Mỹ và những nước latinh khác, 8%
Cuba và 5% cộng hòa Đôminich. Họ thường là nhiều người khác nhau về lịch sử,
lòng trung thành và tầng lớp. Vài người trong họ có gia cảnh quyền lực và giàu có
hay có tổ tiên là người Mexico, Mỹ latinh hay TBN, trong khi đó những người
khác đến Mỹ lại là dân lao động nhập cư, sẵn sàng làm việc lâu dài và tất nhiên họ
chỉ có những công việc lương thấp và có địa vị thấp. Khi đã được lập ra họ tạo sự
thuận lợi trong giáo dục và khả năng phát triển về mặt kinh tế và xã hội.
Người Mỹ latinh giành được quyền lực chính trị và là người đại diện bởi được
phần đông người Mỹ latinh bầu cho họ. Mặc dù có nhiều người nói 2 thứ tiếng, họ
làm gia tăng sự kết dính giữa ngôn ngữ TBN, đạo Thiên Chúa La Mã và những giá
trị gia đình. Họ đang tiến đến nhanh chóng vào địa vị tầng lớp trung lưu và sở hữu
nhà cửa. Ở đa số các bang thì con số người Mỹ latinh làm ăn kinh doanh tăng lên
gấp đôi. Từ năm 1990, quyền lực mua được của họ tăng lên 65% và được ước tính
la 380 tỷ đô la năm 1998 và trước năm 2010 sẽ tăng lên gấp ba. Thị trường người
tiêu dùng Mỹ latinh -rộng lớn và phát triển- nổi tiếng về lòng trung thành thương
hiệu. Trước năm 2000 có 6.9 triệu trẻ em đến trường và đa số bậc cha mẹ đều
muốn con cái của họ được dạy dỗ bằng tiếng Anh. Người TBN nói tiếng Mỹ là
dân tộc nói tiếng TBN lớn thứ 5 trên thế giới. Vì thế mà hàng triệu người trẻ tuổi
latinh đã lựa chọn ngôn ngữ là tiếng Spalish vì họ có thể chuyển đổi dễ dàng giữa
tiếng TBN và tiếng Anh.
Một thực tế là người Mỹ latinh đang thiếu người lãnh đạo. Mặc dù họ dành hết
tâm trí cho môn bóng chày nhưng họ lại không thể đại diện tốt cho những môn thể
thao chính thống của Mỹ đặc biệt là bóng đá. Khi người Mỹ latinh ngày càng trở
nên đồng hóa thì người latinh lại càng bước vào dòng nghệ thuật văn hóa một cách
chậm chạp. Họ bao gồm nhiều loại thảm thêu khác nhau phản ánh ngôn ngữ TBN,
những di sản thuộc Ấn Độ, Mỹ gốc Phi và da ngăm đen.
Người TBN, BĐN mua quyền lực ở Mỹ được ước tính lên đến 1 nghìn tỷ đô la
trước năm 2010. Điều này dẫn đến một sự gia tăng trong thu nhập gia đình TBN,
BĐN trung bình từ 14 712 đô la năm 1980 đến 29500 đô la năm 1996 và hơn
40000 đô la năm 2003.

Lời khuyên khi làm ăn kinh doanh và đàm phán với người Mỹ
Khái niệm cơ bản của thương lượng đàm phán:
Những nhà đàm phán Mỹ xem sự xung đột và sự đương đầu như là một thời cơ để
thay đổi quan điểm và là một phần của cách thức giải quyết, thương lượng và thỏa
thuận. Người Mỹ thích phác thảo vấn đề hay những rắc rối khó khăn và tiến hành
sử dụng cách tiếp cận trực tiếp để đưa ra những giải pháp có thể xảy ra. Họ bị thúc
đẩy tới cái xa hơn nữa về hợp tác hoặc chính quyền của họ và có tính cạnh tranh
cao liên quan đến kết quả và sự thỏa thuận.
Lựa chọn người đàm phán:
Người thỏa thuận đàm phán Mỹ thường được chọn vào một đội đàm phán dựa trên
những thành tích đàm phán thành công trong quá khứ của họ cùng với kiến thức
và sự thành thạo trong lĩnh vực mà họ đàm phán. Những cuộc đàm phán là những
kỹ thuật tự nhiên yêu cầu người Mỹ có một kiến thức chuyên môn và khả năng
giao tiếp thành thạo. Những khác biệt về cá nhân, giới tính, tuổi tác và tầng lớp xã
hội thông thường không phải là tiêu chuẩn để lựa chọn người đàm phán mà là
những sự khác biệt trong tính cách cá nhân như tính hợp tác có hiệu quả, độc
đoán, đáng tin cậy có thể sẽ được lựa chọn vào đội đàm phán Mỹ.
Vai trò của những tham vọng cá nhân:
Như là một quy tắc, người Mỹ khuyến khích tham vọng cá nhân và những thành
tích cá nhân. Khi đại diện cho sự hợp tác của họ hay đại diện cho đất nước của họ,
người Mỹ kìm chế chủ nghĩa cá nhân và để hoàn thành và/hoặc đại diện cho vị trí
của họ trong công ty hoặc đất nước.
Quan tâm đến nghi thức ngoại giao:
Người Mỹ thường rất thân thiện và cởi mở. Nghi thức của họ phần lớn là không
trang trọng, thân mật và đó là mối quan tâm cơ bản về nghi thức. Họ thoải mái
trong việc quản lý kinh doanh và thường không nghiêm khắc hay những đạo lý
luân thường và nghi lễ rõ ràng dứt khoát.
Tầm quan trọng của loại vấn đề
Sự biểu hiện phổ biến của người Mỹ là “getting the job done” phản ánh ước vọng
vươn đến một vị thế và nhận được kết quả một cách nhanh chóng. Trong những

cuộc đàm phán, người Mỹ thường tập trung vào những khía cạnh hữu hình của
cuộc đàm phán mà không tiêu tốn quá nhiều thời gian vào những khía cạnh vô
hình chẳng hạn như xây dựng mối quan hệ trong suốt giai đoạn đàm phán.
Ngôn ngữ linh hoạt
Người Mỹ thường là những người giao tiếp trong ngữ cảnh thấp. Thông điệp chủ
yếu được sử dụng trong những lơi nói và chúy ý đến giao tiếp bằng cử chỉ như ám
hiệu của cử chỉ, tiếp xúc bằng mắt và dấu hiệu của sự im lặng.
Bản chất của tranh luận thuyết phục
Người Mỹ thường cố gắng biểu hiện những con số và sự việc chi tiết 1 cách có
chừng mực đi kèm với những tranh luận mang tinh phân tích và hợp lý khi thuyết
phục đối tác của mình.
Giá trị của thời gian
Mỗi nền văn hóa đều có cách thức khác nhau trong việc tổ chức và sử dụng thời
gian. Một vài nền văn hóa thì giới hạn cứng nhắc trong thời khóa biểu và thời hạn
cuối cùng, trong khi đó thì những nền văn hóa khác có một thái độ dễ chịu về chi
tiết kế hoạch và thời khóa biểu. Monochronic time thường nhấn mạnh đến thời
khóa biểu, sự phân chia từng khúc và sự mau mắn sốt sắng. Polychronic time lại
nhấn mạnh vào mối quan hệ giữa người và việc hoàn thành giao dịch hơn là bám
chặt vào việc điều chỉnh thời khóa biểu. Người Mỹ thường hướng đến
monochronịc và với nhiều người Mỹ thì “thời gian la tiền bạc”. Trong những cuộc
đàm phán, người Mỹ thường lập ra thời khóa biểu và cuộc hẹn và họ có xu hướng
ưu tiên cho những sự kiện và di chuyển qua giai đoạn tiến hành “quản lý kiểm
soát” thời gian đã giao cho họ.
Những nền tảng của sự thật
Trong đàm phán, người Mỹ thường tin tưởng vào sự chính xác của thông tin giao
tiếp và thương lượng, và họ thừa nhận rằng những cuộc đàm phán như vậy thường
mang lại kết quả đáng ao ước.Tuy nhiên, nếu người Mỹ đã có kinh nghiệm quá
khứ với 1 đối tác không đáng tin cậy thì họ sẽ giấu đi sự thật với đối tác.
Xu hướng chấp nhận rủi ro
Người Mỹ thường là những người thích chấp nhận rủi ro. Trong lịch sử của họ, sự

nhận thức về bản thân là những người theo chủ nghĩa cá nhân nghiêm khắc và là
phần thưởng của chủ nghĩa tư bản nên họ đã chấp nhận rủi ro và không phải là
người né tránh rủi ro.
Hệ thống tạo lập quyết định nội bộ
Đưa ra quyết định đang ngày càng trở nên phân quyền hơn với những chính trị,
trong những giới hạn đinh trước, được đưa đến những người có kinh nghiệm đàm
phán. Đa phần những quyết định cuôi cùng đều phải rõ ràng với những quan chức
cấp cao trong tổ chức.
Hình thức của sự thỏa thuận vừa ý
Bởi vì văn hóa của họ là hợp pháp, người Mỹ thích và mong đợi những thỏa thuận
bằng hợp đồng chi tiết để chính thức hóa những cuộc đàm phán. 1 cái bắt tay co
thể kết luận một cuộc đàm phán nhưng người được ủy quyền thì luôn luôn bị liên
quan dính dáng.
Kết luận:
Năm 1831, Alexis de Tocqueville người Pháp đã viết cuốn “Chế độ dân chủ ở
Mỹ”. Ông ta khám phá ra rằng cái mà ông ta gọi là “habits ò the heart” đã hình
thành nên đặc điểm của người Mỹ và duy trì những thể chế tự do như đời sống gia
đình, sự thuyết phục tôn giáo và sự tham gia vào chính trị địa phương. Bellah… đã
nghiên cứu về chủ nghĩa cá nhân và lời cam kết trong đời sống ở Mỹ và đua ra kết
luận rằng chủ nghĩa cá nhân quá khích trong văn hóa Mỹ có thể đe dọa sự tự do
của chính chủ nghĩa này, đặc biệt khi 1 cá nhân đạt được thành tựu sẽ được cộng
đồng trả phí tổn như cung cấp sự hỗ trợ, củng cố và ủng hộ tinh thần cho cá nhân.
Hơn thế nữa, ở xã hội Bắc Mỹ, sự cạnh tranh là sự bắt buộc mang tính văn hóa
nhưng không thuần túy là ích kỷ, và không dẫn đến những điều tốt lành. Vì thế mà
ông ta xem lực lượng lao động mới ở Mỹ chẳng hạn như những mối quan hệ hợp
tác trở nên cá nhân và chỉ mang tính tham dự, đóng góp để khôi phục xã hội và sự
sáng tạo một văn hóa công việc mới.
Sự căng thẳng đầu óc
Nhiều người Mỹ dường như đều lo sợ về cách mà thế giới nhận thức họ như thế
nào và bị lung túng bối rối bởi những cái dường như làm giảm đi lòng tôn trọng và

vị thế ở nhiều quốc gia.Vài người tự hỏi liệu rằng đó có phải là kêt đối với sự
thống trị của nước Mỹ không. Sau đây là 1 vài đoạn trích dẫn đáng xem được trích
từ những tài liệu mới xuất bản.
“Ở nước Hồi giáo và những đất nước đang phát triển là hình ảnh của Mỹ bị lệch
bởi mất cân bằng kinh tế ở Bắc/Nam, Đông/Tây dẫn đến những mối bất bình qua
chinh sách chính trị nước ngoài”
“Ngoài mặt, Tổng thống Bush đã thay đổi dài tuần giữa Bắc- Đông Châu Á đã trở
thành sự đối lập mạnh mẽ là một cuộc đột kích gần đây của tổng thống Bush và
chuyến tham quan Mỹ latinh. Và không có vị lãnh đạo nào sẽ mở rông quan hệ
lãnh đạo với Mỹ… dưới vẻ bề ngoài lịch sự, tuy nhiên, không có một sự thách
thức nào đối vơi mối quan hệ lãnh đạo Châu Á.”
“Ở những đất nước phát triển… có nhiều sự nhận thức cao độ hơn những nơi đã
từng là bản tính và sự lan tràn của chũ nghĩa đế quốc. Kết quả là ở 1 vài đất nước,
có sự miễn cưỡng đang gia tăng khi tuân theo ý tưởng “được sinh ra ở Mỹ”
“Một trong những hồ sơ thủ đoạn của Thủ tướng chính phủ Canada có mối liên
quan với Mỹ.2 đất nước này đi theo chiều hướng riêng lẽ.

Hiểu về văn hóa Mỹ từ những điều nhỏ nhất

Nội dung bài viết này tóm tắt và hướng dẫn một số nét cơ bản về văn hóa kinh doanh ở Hoa Kỳ với hy vọng phần nào giúp các doanh nghiệp Việt Nam, nhất là các doanh nghiệp mới thiết lập quan hệ kinh doanh với các bạn hàng ở Hoa Kỳ, giao tiếp và duy trì quan hệ kinh doanh có hiệu quả hơn với các bạn hàng ở nước này.

Giờ G sắp tới, chúng ta sẽ mở cửa để đón sự hội nhập quốc tế vì vậy hiểu thêm về một nền văn hóa nói chung và văn hóa kinh doanh nói riêng của một nước sẽ có ích cho các doanh nghiệp trong quan hệ kinh doanh với các bạn hàng ở nước đó.

Nội dung bài viết này tóm tắt và hướng dẫn một số nét cơ bản về văn hóa kinh doanh ở Hoa Kỳ với hy vọng phần nào giúp các doanh nghiệp Việt Nam, nhất là các doanh nghiệp mới thiết lập quan hệ kinh doanh với các bạn hàng ở Hoa Kỳ, giao tiếp và duy trì quan hệ kinh doanh có hiệu quả hơn với các bạn hàng ở nước này.

Là một nước có diện tích lớn thứ 3 trên thế giới và với khoảng 290 triệu dân có nguồn gốc từ nhiều nơi khác nhau trên thế giới, Hoa Kỳ là một xã hội đa dạng nhất trên thế giới. Mặc dù đại bộ phận người Mỹ được coi là có nguồn gốc từ Châu Âu, song những người thiểu số như người gốc Mỹ [người da đỏ], người Mỹ gốc Phi, người Hispanic, và người Châu Á cũng rất đông. Hiện nay, mỗi năm có tới trên một triệu người nước ngoài di cư đến Hoa Kỳ sinh sống và làm ăn, và dự kiến đến năm 2050 người Mỹ da trắng chỉ còn chiếm dưới 50%. Các cộng đồng đang sinh sống ở Hoa Kỳ đều có những bản sắc riêng của họ, kể cả ngôn ngữ, tôn giáo, tín ngưỡng, và phong tục; do vậy, rất khó có thể khái quát chính xác được văn hóa nói chung và văn hóa kinh doanh nói riêng ở nước này. Phần giới thiệu dưới đây chỉ là những nét cơ bản và hướng dẫn chung.

Một số nét cơ bản

Cách viết họ tên

Tên người Mỹ được viết theo thứ tự tên riêng trước, sau đó đến tên đệm và cuối cùng là họ. Họ lấy theo họ bố; không dùng họ mẹ. Ví dụ, Bill William Clinton trong đó Bill là tên riêng, William là tên đệm, và Clinton là họ. Tên đệm thường được viết tắt hoặc thậm chí không viết. Ví dụ, Bill William Clinton thường được viết là Bill W. Clinton hoặc chỉ viết ngắn gọn là Bill Clinton. Họ tên cũng có thể viết theo tứ tự họ trước rồi đến tên riêng, và cuối cùng là tên đệm. Trong trường hợp này sau họ có dấu phẩy. Ví dụ: Clinton, Bill William.

Phụ nữ Mỹ khi lấy chồng đổi họ theo họ chồng. Có một số người dùng cả họ mình và họ chồng. Ví dụ, Hillary Rodham Clinton, trong đó Hillary là tên riêng; Rodham là họ của Hillary; và Clinton là họ của chồng.

Phụ nữ Mỹ khi lấy chồng đổi họ theo họ chồng. Có một số người dùng cả họ mình và họ chồng [Ảnh minh họa]

Cách xưng hô

Trừ một số trường hợp đặc biệt, người Mỹ thường gọi nhau bằng tên riêng. Tuy nhiên, có một số nguyên tắc phổ biến mà các nhà kinh doanh nước ngoài nên theo.

Đối với lần tiếp xúc trực tiếp hoặc qua thư từ đầu tiên, nên gọi nhau bằng Mr., Mrs., Miss, Ms. hoặc Dr. và tiếp theo là họ. Ví dụ, Mr. Clinton.

Có thể gọi tên riêng khi được cho phép hoặc sau khi đã có quan hệ thân mật.

Không gọi tên riêng [trừ phi được mời] đối với những người hơn nhiều tuổi, hoặc có địa vị hoặc cấp bậc cao hơn mình nhiều, hoặc đối với những người mà bạn muốn thể hiện sự tôn trọng.

Đối với trẻ em thì luôn luôn có thể gọi tên riêng.

Đối với quân nhân hoặc cảnh sát nên gọi bằng cấp bậc [nếu biết] hoặc gọi chung là “Officer” và tiếp theo là họ. Ví dụ, General Clark hoặc Officer Lugar.

Đối với người mới gặp lần đầu và không biết tên [ví dụ như nhân viên bán hàng, thư ký, lái xe, nhân viên khách sạn…] có thể gọi “Sir”, “Mr.”, “M’am” hoặc “Miss”.

Trừ một số trường hợp đặc biệt, người Mỹ thường gọi nhau bằng tên riêng [Ảnh minh họa]

Một số tính cách đặc trưng của người Mỹ

Khác với một số nền văn hóa khác, nhất là văn hóa Châu Á, nhìn chung, người Mỹ rất coi trọng tự do cá nhân và tính tự lập. Gia đình, cộng đồng, tôn giáo, hoặc tổ chức là thứ yếu so với các quyền cá nhân. Chủ nghĩa cá nhân này cũng dẫn đến một tính cách nổi bật của người Mỹ là cạnh tranh.

Phong cách chung của doanh nhân Mỹ là ít chú ý đến nghi lễ, đi thẳng vào vấn đề, và muốn có kết quả nhanh. Trong đàm phán, người Mỹ thường xác định trước và rõ mục tiêu cần đạt được, chiến lược và chiến thuật đàm phán, và dùng số liệu để chứng minh cho các luận điểm của mình. Họ muốn dành chiến thắng về phần mình, song cũng sẵn sàng thỏa hiệp trên cơ sở đôi bên cùng có lợi. Ở Hoa Kỳ, “có đi có lại” là nguyên tắc quan trọng trong đàm phán chính trị cũng như trong kinh doanh.

Người Mỹ thích nói thẳng, rõ ràng, và dễ hiểu. Họ không thích kiểu nói vòng vo, xa xôi, hoặc ví von. Nhìn chung, khi người Mỹ nói “được” thì có nghĩa là được và “không được” có nghĩa là không được. Người Mỹ không ngại ngùng khi trả lời “tôi không biết” nếu như họ không biết về vấn đề mà bạn quan tâm, hoặc “tôi không phụ trách việc này” nếu như vấn đề bạn quan tâm không trong phạm vi trách nhiệm của họ. Tuy nhiên, người Mỹ thường sẵn sàng chỉ cho bạn biết bạn phải hỏi ai hoặc tìm ở đâu để có những thông tin mà bạn cần, hoặc ai là người phụ trách việc mà bạn quan tâm.

Tính thẳng thắn và sự lịch thiệp cũng có mức độ khác nhau tùy theo vùng. Người New York nổi tiếng là trực tính, và thậm chí hơi thô bạo nếu so sánh với văn hóa Châu Á. Người ở vùng Trung Tây cũng thẳng thắn nhưng thường lịch sự hơn nhiều. Người California không phải lúc nào cũng nói đúng ý nghĩ của họ. Ví dụ: ở Los Angeles – miền đất của những giấc mơ – nếu ai đó nói với bạn “Tôi sẽ trở lại vấn đề này với bạn” thì cũng có thể là họ sẽ làm như vậy thật, song cũng có thể họ ngụ ý là “Bạn không có cơ hội”.

Nhìn chung, người Mỹ không có thói quen nói hoặc cười to trong khi ăn uống hoặc ở nơi công cộng. Họ rất tự giác xếp hàng đợi đến lượt mình khi có từ hai người trở lên, và không có thói quen chen ngang hàng. Tại cửa ra vào thang máy, tàu điện ngầm, hoặc xe buýt, người ở ngoài thường đợi cho người ở trong ra hết rồi mới vào. Người Mỹ có thói quen cám ơn khi được người khác giúp đỡ dù chỉ là một việc rất nhỏ như nhường đường chẳng hạn.

Cũng như ở các nơi khác, ở Hoa Kỳ, bắt tay là một cách chào phổ biến.

Chào hỏi

Cũng như ở các nơi khác, ở Hoa Kỳ, bắt tay là một cách chào phổ biến. Bạn có thể bắt tay cả đàn ông và phụ nữ ở những lần gặp nhau đầu tiên hoặc sau đó. Người Mỹ có thói quen bắt tay chặt dùng cả bàn tay chứ không phải chỉ ngón tay [không có nghĩa là bóp chặt đến mức làm đau tay người khác] để thể hiện sự thân thiện và nhiệt tình. Bắt tay lỏng lẻo có thể bị coi là không chắc chắn, thiếu tự tin, và thậm chí là hờ hững trong quan hệ. Rất ít khi thấy người Mỹ dùng cả hai tay để bắt tay. Thỉnh thoảng bạn có thể thấy đàn ông với đàn bà hoặc đàn bà với đàn bà chào nhau bằng cách ôm, và thậm chí cọ má vào nhau hoặc hôn nhẹ lên má nhau. Hình thức chào này thường chỉ dành cho những người là bạn bè lâu, hoặc ít nhất cũng đã quen nhau. Ngoài ra, người Mỹ rất ít đụng chạm vào nhau.

Không nên hỏi tuổi, hoặc thu nhập của người Mỹ. Tôn giáo, chính trị, và tình dục cũng là những lĩnh vực nhạy cảm ở Mỹ. Tốt nhất là bạn nên tránh những chủ đề này trừ phi với những người bạn thân.

Khi nói chuyện, người Mỹ thường nhìn thẳng vào người đối diện và đứng không qúa gần. Không nhìn thẳng vào người mình đang nói chuyện, nói năng nhỏ nhẹ, thái độ bẽn lẽn có thể bị coi là người không có quyền hành hoặc yếu đuối. Bạn cũng có thể nhìn thấy người Mỹ gác chân nọ lên chân kia và ngả người về phía sau khi ngồi nói chuyện với khách. Những nét văn hóa này thường mẫu thuẫn với truyền thống tôn trọng lễ phép và khiêm tốn của người Châu Á. Nói như vậy không có nghĩa là người Mỹ kiêu ngạo hoặc thô lỗ. Người Mỹ thường coi trọng tính hiệu quả hơn là sự lịch thiệp.

Cử chỉ, điệu bộ

Người Mỹ cũng sử dụng cử chỉ, điệu bộ ở những mức độ khác nhau trong giao tiếp để nhấn mạnh điều mình muốn nói hoặc có thể chỉ theo thói quen tự nhiên. Lắc đầu từ bên nọ sang bên kia có nghĩa là không đồng ý. Gật đầu có nghĩa là đồng ý. Rướn lông mày thể hiện sự ngạc nhiên. Nhún vai thể hiện sự hoài nghi hoặc không chắc chắn. Trong nhà hàng khi muốn gọi người phục vụ bạn có thể giơ tay lên cao và chìa ngón tay trỏ ra để thu hút sự chú ý của họ. Tuy nhiên, nếu vẫy hoặc chỉ thẳng ngón tay trỏ vào người khác lại có nghĩa là buộc tội hoặc thách thức người đó. Giơ tay ra với lòng bàn tay hướng về phía trước có nghĩa là dừng lại. Đối với người Mỹ giơ ngón tay giữa lên bị coi là tục tĩu và thách đố.

Nhún vai thể hiện sự hoài nghi hoặc không chắc chắn.

Thời gian là tiền bạc

Ở Hoa Kỳ, “thời gian là tiền bạc”. Thời gian cũng được coi là một loại hàng hóa như tất cả các loại hàng hóa khác. Người Mỹ tiết kiệm thời gian cũng như tiết kiệm tiền bạc. Những người cung cấp dịch vụ như luật sư, kế toán, tư vấn, các nhà tâm lý học, thợ sửa chữa cơ khí… thường tính phí hoặc tiền công dựa trên số giờ làm việc cho khách hàng, đôi khi kể cả thời gian tiếp và/hoặc nói chuyện qua điện thoại với khách hàng. Do vậy, các nhà kinh doanh, khi cần sử dụng luật sư, cần phải chuẩn bị rất kỹ các câu hỏi và nội dung cần tư vấn, và đi thẳng vào vấn đề để tiết kiệm tối đa thời gian sử dụng luật sư, tức là tiết kiệm chi phí cho chính mình.

Tương tự như vây, các nhà kinh doanh Mỹ không có nhiều thời gian để nói chuyện rông dài hoặc đọc những bức thư dài hoặc chờ đợi sự trả lời chậm trễ. Các bức thư chào hàng hoặc giao dịch trước hết phải thu hút được sự chú ý của người đọc, và phải ngắn gọn và rõ ràng, trả lời thẳng vào các vấn đề hoặc cung cấp đúng những thông tin mà đối tác yêu cầu. Sự chậm trễ trả lời các thư hỏi hàng của đối tác Mỹ chắc chắn sẽ làm mất cơ hội kinh doanh.

Hết phần 1

Bemec Media st.

Video liên quan

Chủ Đề