Những tác phẩm của Nam Cao trước cách mạng

Nhân đề xuất bỏ tác phẩm Chí Phèo khỏi SGK gây nhiều tranh cãi, Trải Nghiệm Hay mời các bạn nhìn lại 9 tác phẩm nổi tiếng nhất của nhà văn Nam Cao.

Đề xuất bỏ tác phẩm Chí Phèo khỏi SGK của Sóng Hiền

1. Tác phẩm Chí Phèo

Tác phẩm Chí Phèo là một truyện ngắn nổi tiếng nhất của nhà văn Nam Cao. Chí Phèo là một tác phẩm xuất sắc, thể hiện tài năng viết truyện độc đáo của Nam Cao. Hiện tác phẩm Chí Phèo được đưa vào chương trình sách giáo khoa Ngữ văn 11, tập 1.

Tác phẩm Chí Phèo có những tên gọi khác như:

+ Cái lò gạch cũ: Tên gọi đầu tiên của truyện, tên gọi này làm bật được sự ra đời vô cùng thảm thương của Chí Phèo không được xã hội công nhận. Cái lò gạch cũ mang giá trị hiện thực sâu sắc khi sự đầy đọa ngày ngày tháng tháng của giai cấp thống trị đối với người nông dân không cách nào thoát được. Cuối truyện, chi tiết Thị Nở nhìn nhanh xuống cái bụng đang mang Chí Phèo con.

+ Đôi lứa xứng đôi: Tên gọi này xuất hiện khi in thành sách lần đầu năm 1941. Tên gọi này gợi đến mối tình giữa Thi Nở và Chí Phèo đồng thời làm nổi bật sự tàn ác của làng Vũ Đại và Bá Kiến đối với Chí Phèo. Tên gọi này phù hợp sở thích của người đọc thời đó nhưng khiến những giá trị khác của tác phẩm bị lu mờ.

+ Chí Phèo: Đây là tên gọi do chính nhà văn Nam Cao đổi trùng với tên gọi nhân vật chính của câu chuyện. 
Nhan đề Chí Phèo thể hiện rõ nét mọi giá trị sâu sắc của tác phẩm vì đề cập đến một số phận cụ thể, số phận ấy mang cả giá trị hiện thực lẫn giá trị nhân đạo.

Năm 1943, Nam Cao viết truyện ngắn Lão Hạc thuộc dòng văn học hiện thực. Tác phẩm phản ánh được hiện trạng xã hội Việt Nam trong giai đoạn trước Cách mạng tháng Tám.

Năm 1980, người ta đã dựng tác phẩm Lão Hạc cùng Sống mòn và Chí Phèo thành một bộ phim mang tên Làng Vũ Đại ngày ấy. Diễn viên, nhà văn Kim Lân được tin tưởng giao vai Lão Hạc.

Do phim là sự kết hợp của ba tác phẩm nên có nhiều chi tiết thay đổi so với truyện gốc. Chỉ tính riêng tác phẩm Lão Hạc có những thay đổi như:

Bá Kiến muốn lão Hạc bán mảnh vườn của mình nên tìm mọi cách ép lão Hạc, Bá Kiến vu con lão Hạc theo Cộng sản và bị truy bắt… nếu muốn Bá Kiến chạy chọt thì lão Hạc đành phải bán vườn cho hắn.

+ Trong truyện, Binh Tư đưa lão Hạc bả chó thì trong phim là Chí Phèo.

+ Thầy giáo Thứ viết câu chuyện của Lão Hạc và được đăng báo.

Tác phẩm Một bữa no là câu chuyện về một người đàn bà gặp nhiều biến cố trong cuộc sống. Chồng mất sớm, một mình bà tần tảo nuôi con những mong lớn lên sẽ cưu mang bà. Thế nhưng, lớn lên hắn bỏ bà mà đi, đứa con dâu thì bỏ lại đứa con cho bà nuôi dưỡng. Bà cơ cực, bà thê thảm, nghèo khổ cùng cực phải đi ăn xin, trông chờ bữa cơm thương hại của người khác. Sau bao ngày nhịn đói, tay chân rã rời không còn sức lực, như đứa trẻ mới tập cầm đũa, không thể gắp thức ăn, làm đổ cả ra mâm. 
Dù bị chê cười, chỉ trỏ suốt buổi cơm nhưng bà mặc kệ và cố ăn một cách ngon lành. Bà ăn quên cả no, ăn như chưa bao giờ được ăn. Nhưng bà đâu ngờ đó là buổi ăn cuối cùng của mình. Bà về nhà với cái bụng no căng rồi bị đau bụng thổ tả kéo dài hơn nữa tháng thì bà chết. 
Bà chết no nhưng ôi chao  đớn đau, hèn hạ, tủi nhục làm sao. Bà không còn giữ được phẩm giá của con người khi cơn đói khát hành hạ. Âu đó cũng là số phận của người nông dân trong sự áp bức, bóc lột đến cùng cực của bọn cầm quyền hà khắc, ác độc không cho con người quyền được sống.

Trong các tác phẩm của Nam Cao đều gián tiếp hoặc trực tiếp thể hiện vấn đề trẻ em là nạn nhân của một lối sống vô cảm, thiếu trách nhiệm của người làm cha, làm mẹ. Sự thiếu nhân tính ấy bắt nguồn từ cái đói, miếng ăn, vì nghèo hèn, cùng cực mà vất bỏ nhân cách lương tâm sẵn sàng để trẻ con đói chỉ vì thà tin rằng “Trẻ con không biết đói, Trẻ con không được ăn thịt chó”.

5. Tác phẩm Một đám cưới

Những tưởng Một đám cưới thì vui vẻ, hạnh phúc nhưng lại không khác một đám ma, không bằng đám ma nhà nghèo. Ai ngờ được rằng, đám cưới mà chỉ có sáu người.
Ông bố vợ lom khom, khổ sở kéo mấy cành rào đầu ngõ để đám cưới tiện đường ra đi. Mẹ chồng áo quần chẳng lành lặn. Cô dâu vừa đi vừa khóc rưng rức, bên cạnh là chú rể dắt đứa em lớn. Ông bố thì đang cõng thằng bé lủi thủi bước đi.
“Cả bọn đi lủi thủi trong sương lạnh và bóng tối như một gia đình xẩm lẳng lặng dắt díu nhau đi tìm chỗ ngủ …” Một đám cưới nhưng thực chất là chia người ra để chạy trốn cơn đói. Sau đám cưới là gia đình phân ly. 
Ôi! Một đám cưới sao mà khổ sở thế?

Ngoài Chí Phèo thì Đôi mắt có thể xem là tác phẩm xuất sắc nhất của nhà văn Nam Cao. Đôi mắt là câu chuyện của hai nhà văn Hoàng và Độ có lối sống trái ngược nhau, cách nhìn nhận về đời sống, về người nông dân, về cuộc kháng chiến hoàn toàn khác nhau. 
Thông qua đó, Nam Cao đã khái quát vấn đề “cách nhìn cuộc sống” một cách sâu sắc, rất phù hợp với thời điểm hiện tại cũng như tình hình thời Nam Cao sống.

Trong tác phẩm Trăng Sáng, Nam Cao đã xây dựng nhân vật chính là Điền, đây có thể xem là hiện thân của cuộc đời tác giả. Điền là một ông giáo nghèo trường tư, lãnh lương tháng nào cũng không đủ nuôi bản thân và gia đình. Vợ Điền vì khó khăn, vất vả mà nhỏ nhen, ít kỷ từ lúc nào không hay. Con Điền, đứa thì phải đi chăn trâu, đứa thì phải chạy chợ kiếm ngày mấy xu rau. Chứng kiến cảnh tượng ấy hàng ngày, hàng tháng đã khiến tâm hồn Điền cằn cỗi, quên mộng văn chương để lo cơm áo gạo tiền. Cái bi kịch của người trí thức là đây chứ ở đâu bây giờ.

Trong tác phẩm có một chi tiết người đọc nhớ mãi đó là “Ánh trăng lừa dối”. Chi tiết này tiêu biểu cho văn chương lãng mạn thoát li, lấy “mây gió trăng hoa” làm nguồn thi hứng chủ yếu. Ánh trăng lừa dối gợi nhớ đến mặt trời chân thực.

Nam Cao đã thể hiện ngòi bút độc đáo, sắc sảo qua tác phẩm Sống mòn. Qua bức tranh sinh hoạt ở vùng ngoại ô Hà Nội là cái thế giới nơi có một cái trường tư và những chuyện xảy ra chung quanh ngôi trường tư. Nơi đó là chỗ kiếm sống của hai nhà giáo Thứ, San với Đích, Oanh là đồng nghiệp và là người chủ cái trường. 

9. Tác phẩm Đời Thừa

Ai từng đọc tác phẩm Đời thừa của Nam Cao hẳn điều có chung nhận xét truyện có kết cấu rất tự nhiên, thậm chí không có cốt truyện. Nam Cao có nhắc đến quá khứ không mấy tươi sáng của Từ cùng với thời gian Từ và Hộ quen nhau nên vợ nên chồng. Tuy nhiên, toàn bộ tác phẩm xoáy sâu vào sự dằn xé trong suy nghĩ và sự khổ tâm của Hộ vì không thể tập trung tâm trí vào văn chương mà phải dầm mưa dãi nắng lo cuộc sống hàng ngày. 


Top 9 tác phẩm nổi tiếng nhất của Nam Cao và rất nhiều tác phẩm khác đã chứng tỏ Nam Cao là cây bút hiện thực lớn [trước Cách mạng], nhà báo kháng chiến nổi bật [sau Cách mạng]. Nam Cao thật sự là nhà văn tiêu biểu nhất thế kỷ 20 và có rất nhiều đóng góp quan trọng đối với việc hoàn thiện phong cách truyện ngắn và tiểu thuyết Việt Nam nửa đầu thế kỷ 20.

Nhà văn Nam Cao [1915/1917- 28 tháng 11 năm 1951] - tên thật là Trần Hữu Tri, là một nhà văn người Việt Nam. Ông là nhà văn hiện thực lớn [trước Cách mạng], một nhà báo kháng chiến [sau Cách mạng], một trong những nhà văn tiêu biểu nhất thế kỷ 20. Nam Cao có nhiều đóng góp quan trọng đối với việc hoàn thiện phong cách truyện ngắn và tiểu thuyết Việt Nam ở nửa đầu thế kỷ 20. Dưới đây là một vài đầu sách văn học hay nhất của nhà văn Nam Cao
 

Xem Thêm: Tuyển Chọn Sách Văn Học Hay Nhất

NAM CAO - TRUYỆN NGẮN HAY CHỌN LỌC

Tuyển tập những truyện ngắn hay và đặc sắc nhất của Nam Cao, những phận người được khắc họa rõ nét giữa cái đói nghèo cùng khổ. Nam Cao đã sống trong đời sống của nhân vật, để hiểu và xót thương cho họ. Chính vì vậy mỗi truyện ngắn của Nam Cao đều chất chứa nỗi niềm, sự đồng cảm, sẻ chia, đọc xong câu chuyện lòng ta lại rưng rưng.

 


Cuốn sách văn học hay này gồm các truyện ngắn hay như: Giăng Sáng, Nửa Đêm, Đôi Mắt, Xem Bói, Ma Đưa, Chí Phèo, Đón Khách, Trần Cư, Con Mèo, Nhìn Người Ta Sung Sướng, Điếu Văn, Cái Chết Của Con Mực, Đợi Chờ,…  

CHÍ PHÈO - BÌA CỨNG [TÁI BẢN]

  Chí Phèo – Với những tình tiết hấp hẫn Nam Cao đã đưa người đọc tái hiện bức tranh chân thực nông thôn Việt Nam trước 1945, nghèo đói, xơ xác trên con đường phá sản, bần cùng, hết sức thê thảm, người nông dân bị đẩy vào con đường tha hóa, lưu manh hóa.

 


Nam Cao không hề bôi nhọ người nông dân, trái lại nhà văn đi sâu vào nội tâm nhân vật để khẳng định nhân phẩm và bản chất lương thiện ngay cả khi bị vùi dập, cướp mất cà nhân hình, nhân tính của người nông dân, đồng thời kết án đanh thép cái xã hội tàn bạo đó trước 1945. Đây là một trong những cuốn sách bán chạy nhất trong số những tác phẩm của ông.  

LÃO HẠC

Lão Hạc là một truyện ngắn của nhà văn Nam Cao được viết năm 1943. Tác phẩm được đánh giá là một trong những truyện ngắn khá tiêu biểu của dòng văn học Việt Nam theo lối hiện thực, nội dung truyện đã phần nào phản ánh được hiện trạng xã hội Việt Nam trong giai đoạn trước Cách mạng tháng Tám.

 


Lão Hạc, một người nông dân chất phác, hiền lành. Lão góa vợ và có một người con trai nhưng vì quá nghèo nên không thể lấy vợ cho người con trai của mình. Người con trai lão vì thế đã rời bỏ quê hương để đến đồn điền cao su làm ăn kiếm tiền. Lão luôn trăn trở, suy nghĩ về tương lai của đứa con. Lão sống bằng nghề làm vườn, mảnh vườn mà vợ lão đã mất bao công sức để mua về và để lại cho con trai lão. So với những người khác lúc đó, gia cảnh của lão khá đầy đủ, tuy nhiên do ốm yếu hơn hai tháng và cũng vì trận bão mà lão không có việc gì để làm .   Lão có một con chó tên là Vàng - con chó do con trai lão trước khi đi đồn điền cao su đã để lại. Lão vừa coi như con vừa coi như một người thân trong gia đình. Và tiếp diễn những câu chuyện hấp dẫn phía sau, mời các bạn đón đọc nhé!  

ĐÔI MẮT [BÌA CỨNG]

Một trong những tác phẩm bán chạy nhất - '' Đôi mắt '' của Nam Cao xoay quanh cuộc đời của 2 nhân vật là Độ và Hoàng:

Khi Pháp xâm lược Việt Nam Độ trở thành một chiến sĩ thì Hoàng trở về sống ở nông thôn. Hai con người và hai suy nghĩ khác nhau, nếu như Độ tin vào tầng lớp nông dân thì  Hoàng lại không tin họ mà anh chỉ tin tưởng và ca ngợi  chủ tịch Hồ Chí Minh...

                         


Đọc “Đôi mắt”, ta như được trở về thời điểm toàn dân đoàn kết đấu tranh đánh đuổi thực dân Pháp xâm lược. Đọc “Đôi mắt”, ta có những hình dung về nông thôn Việt Nam sau cách mạng. Quan trọng hơn, đọc “Đôi mắt” ta có thêm một bài học về cách nhìn cuộc sống.  

SỐNG MÒN

Cuối năm 1944, Nam Cao viết xong Sống Mòn. Tập tiểu thuyết ấy quăng đi, ném lại, không lọt qua được lưới kiểm duyệt để xuất bản, tuy rằng soi từng chữ không có chỗ nào bắt bẻ được.

 


Sống mòn tả cuộc sống thiểu não, quẩn quanh, nhỏ nhen của mấy người trí thức tiểu tư sản nghèo, một cuộc sống mù xám cứ "mốc lên, ri đi, mòn ra, mục ra", không có lối thoát. Rộng hơn là vận mệnh mấy con người ấy, ta thấy đặt ra một cách ám ảnh vấn đề vận mệnh chung của cả một xã hội chua xót, đau đớn, buồn thảm, tủi nhục, trong đó, đời sống không còn ý nghĩa, quay về phía nào cũng thấy dựng lên những bức tường bế tắc.
 

Video liên quan

Chủ Đề