Những phẩm chất đạo đức cơ bản của người cách mạng

Skip to content

Trong mối quan hệ đạo đức thì mối quan hệ giữa mỗi người với đất nước, với nhân dân, với dân tộc là mối quan hệ lớn nhất. Trung, hiếu là phẩm chất đạo đức quan trọng nhất, bao trùm nhất.

Trung, hiếu là những khái niệm đã có trong tư tưởng đạo đức truyền thống Việt Nam và phương Đông, xong có nội dung hạn hẹp. “Trung với vua, hiếu với cha mẹ”, phản ánh bổn phận của dân đối với vua, con đối với cha mẹ. Hồ Chí Minh đã vận dụng và đưa vào nội dung mới. Hồ Chí Minh đã kế thừa những giá trị đạo đức truyền thống và vượt trội. Trung với nước là trung thành với sự nghiệp giữ nước và dựng nước. Nước là của dân, còn nhân dân là chủ của đất nước. “Bao nhiêu quyền hạn đều của dân, bao nhiêu lợi ích đều vì dân”. Đây là chuẩn mực đạo đức có ý nghĩa quan trọng hàng đầu.

Trung với nước, hiếu với dân là suốt đời phấn đấu hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì CNXH, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng. Bác vừa kêu gọi hành động vừa định hướng chính trị- đạo đức cho mỗi người Việt Nam.

Đối với cán bộ đảng viên phải suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho cách mạng, đó là điều chủ chốt của đạo đức cách mạng. Phải tuyệt đối trung thàmh với Đảng, với dân, phải tận trung, tận hiếu, thì mới xứng đáng vừa là đầy tớ trung thành, vừa là người lãnh đạo của dân; dân là đối tượng để phục vụ hết lòng. Phải nắm vững dân tình, hiểu rõ dân tâm, cải thiện dân sinh, nâng cao dân trí để dân hiểu được quyền và trách nhiệm của người chủ đất nước.

Nội dung chủ yếu của trung với nước là:

– Đặt lợi ích của đảng, của Tổ quốc, của cách mạng lên trên hết. – Quyết tâm phấn đấu thực hiện mục tiêu của cách mạng.

– Thực hiện tốt chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.

Nội dung của hiếu với dân là:

– Khẳng định vai trò sức mạnh thực sự của nhân dân. – Tin dân, lắng nghe dân, học dân, tổ chức vận động nhân dân cùng thực hiện tốt đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước.

– Chăm lo đến đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.

Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư

Cần là lao động cần cù, siêng năng, lao động có kế hoạch, sáng tạo năng suất cao; lao động với tinh thần tự lực cánh sinh, không lười biếng, không ỷ lại, không dựa dẫm. Lao động là nghĩa vụ thiêng liêng, là nguồn sống, nguồn hạnh phúc của con người.

Kiệm là tiết kiệm sức lao động, tiết kiệm thì giờ, tiết kiệm tiền của của nhân dân, của đất nước, của bản thân mình. Tiết kiệm từ cái nhỏ đến cái to; “Không xa sỉ, không hoang phí, không bừa bãi,”

READ:  Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về CNXH ở Việt Nam - TT HCM

Liêm là “luôn luôn tôn trọng giữ gìn của công và của dân; không xâm phạm một đồng xu, hạt thóc của nhà nước, của nhân dân”. Phải trong sạch, không tham lam địa vị, tiền của, danh tiếng, sung sướng. Không tâng bốc mình. Chỉ có một thứ ham là ham học, ham làm, ham tiến bộ. Hành vi trái với chữ liêm là:… cậy quyền thế mà đục khoét, ăn của dân, hoặc trộm của công làm của riêng. Dìm người giỏi, để giữ địa vị và danh tiếng của mình là trộm vị. Gặp việc phải, mà sợ khó nhọc nguy hiểm, không dám làm là tham uý lạo. Cụ Khổng nói: người mà không liêm, không bằng súc vật. Cụ Mạnh nói: ai cũng tham lợi thì nước sẽ nguy.

Chính là không tà, thẳng thắn, đứng đắn. Đối với mình, với người, với việc.

Đối với mình, không tự cao, tự đại, luôn chịu khó học tập cầu tiến bộ, luôn kiểm điểm mình để phát huy điều hay, sửa đổi điều dở.

Đối với người, không nịnh hót người trên, xem khinh người dưới; luôn giữ thái độ chân thành, khiêm tốn, đoàn kết, không dối trá, lừa lọc.

Đối với việc, để việc công lên trên việc tư, làm việc gì cho đến nơi, đến chốn, không ngại khó, nguy hiểm, cố gắng làm việc tốt cho dân cho nước.

Cần, kiệm, liêm, chính cần thiết đối với tất cả mọi người. Hồ Chí Minh viết:

“TrờI có bốn mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông Đất có bốn phương: Đông, Tây, Nam, Bắc Người có bốn đức: cần, kiệm, liêm, chính Thiếu một mùa thì không thành trời Thiếu một phương thì không thành đất

Thiếu một đức thì không thành người”.

Cần, kiệm, liêm, chính rất cần thiết đối với người cán bộ, đảng viên. Nếu đảng viên mắc sai lầm thì sẽ ảnh hưởng đến uy tín của Đảng, nhiệm vụ của cách mạng. Cần, kiệm, liêm, chính còn là thước đo sự giàu có về vật chất, vững mạnh về tinh thần, sự văn minh của dân tộc. “Nó” là cái cần để “làm việc, làm người, làm cán bộ, để phụng sự Đoàn thể, phụng sự giai cấp và nhân dân, phụng sự Tổ quốc và nhân loại”.

Chí công vô tư, là làm bất cứ việc gì cũng đừng nghĩ đến mình trước, chỉ biết vì Đảng, vì Tổ quốc, vì nhân dân, vì lợi ích của cách mạng. Thực hành chí công vô tư là quét sạch chủ nghĩa cá nhân, nâng cao đạo đức cách mạng. “phải lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ [tiên thiên hạ chi ưu nhi ưu, hậu thiên hạ chi lạc nhi lạc]. Chủ nghĩa cá nhân chỉ biết đến mình, muốn “mọi người vì mình”. Nó là giặc nội xâm, còn nguy hiểm hơn cả giặc ngoại xâm. Hồ Chí Minh viết: “ Một dân tộc, một đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân”. Hồ Chí Minh cũng phân biệt lợi ích cá nhân và chủ nghĩa cá nhân. Chí công vô tư là tính tốt có thể gồm 5 điều: nhân, nghĩa, trí, dũng, liêm. Bồi dưỡng phẩm chất đạo đức cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư là để vững vàng qua mọi thử thách : “Giàu sang không quyến rũ, nghèo khó không thể chuyển lay, uy vũ không thể khuất phục”.

READ:  Quá trình hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh - TT HCM

Yêu thương con người

Kế thừa truyền thống nhân nghĩa của dân tộc, kết hợp truyền thống nhân nghĩa với chủ nghĩa nhân đạo cộng sản, tiếp thu tinh thần nhân văn của nhân loại qua nhiều thế kỷ, qua hoạt động thực tiễn, Hồ Chí Minh đã xác định tình yêu thương con người là phẩm chất đạo đức cao đẹp nhất.

Tình yêu rộng lớn dành cho những người cùng khổ, những người lao động bị áp bức, bóc lột. Hồ Chí Minh chỉ ham muốn cho đất nước được hoàn toàn độc lập, dân được tự do, mọi người ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành. Chỉ có tình yêu thương con người bao la đến như vậy mới có cách mạng, mới nói đến CNXH và CNCS.

Nghiêm khắc với mình, độ lượng với người khác. Phải có tình nhân ái với cả những ai có sai lầm, đã nhận rõ và cố gắng sửa chữa, đánh thức những gì tốt đẹp trong mỗi con người. Bác căn dặn Đảng phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau, trên nguyên tắc tự phê bình và phê bình chân thành.

Tình yêu thương con người còn là tình yêu bạn bè, đồng chí, có thái độ tôn trọng con người, điều này có ý nghĩa đối với người lãnh đạo.

Tinh thần quốc tế trong sáng, thuỷ chung

Đó là tinh thần quốc tế vô sản, bốn phương vô sản đều là anh em. Đó là tinh thần đoàn kết với các dân tộc bị áp bức, với nhân dân lao động các nước. Đó là tinh thần đoàn kết của nhân dân Việt Nam với tất cả những người tiến bộ trên thế giới vì hoà bình, công lý và tiến bộ xã hội. Sự đoàn kết là nhằm vào mục tiêu lớn của thời đại hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.

ThS. Đinh Thị Thu Hoài
Khoa Xây dựng Đảng

Chủ tịch Hồ Chí Minh là người sáng lập và rèn luyện Đảng ta. Trong cuộc đời hoạt động của mình, lúc nào Người cũng chăm lo xây dựng Đảng ta thật sự trong sạch, vững mạnh, “là đạo đức, là văn minh”. Trong đó, vấn đề Người quan tâm hàng đầu là chăm lo giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên. Theo Hồ Chí Minh, đạo đức là gốc, nền tảng của người cách mạng: “Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân”[1].
Trên cơ sở tiếp thu sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, các giá trị tinh hoa văn hóa phương Đông, phương Tây, truyền thống văn hóa Việt Nam, Hồ Chí Minh đã nêu lên những chuẩn mực đạo đức cách mạng tựu trung ở bốn phẩm chất: Trung với nước, hiếu với dân; cần, kiệm, liêm chính, chí công, vô tư; thương yêu con người, sống có tình nghĩa; tinh thần quốc tế trong sáng. Trong những phẩm chất ấy, Người đặc biệt nhấn mạnh đến “cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”. Người nói: “Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng; thật sự cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”[2]. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi đạo đức cách mạng là tiêu chí hàng đầu, là "gốc" của người cán bộ, đảng viên. Nâng cao đạo đức cũng có nghĩa là củng cố vững chắc hơn cơ sở định hướng cho sự phát triển tài năng của người cán bộ, đảng viên vì lợi ích chung của Đảng, của giai cấp và của dân tộc. Đạo đức của người cán bộ cách mạng còn là nền tảng và là cơ sở để người cán bộ, đảng viên phát huy tài năng, trí tuệ và các phẩm chất khác, hướng năng lực của họ vào hoàn thành thắng lợi các nhiệm vụ của cách mạng. Vì vậy, theo Người, người cán bộ, đảng viên phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng. Có nghĩa là, vô luận trong hoàn cảnh nào cũng đặt lợi ích của Đảng, của dân tộc lên trên hết. Nếu khi lợi ích của Đảng và lợi ích của cá nhân mâu thuẫn với nhau thì lợi ích cá nhân phải tuyệt đối phục tùng lợi ích của Đảng và phải quyết tâm đấu tranh chống mọi kẻ thù, luôn luôn cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu, quyết không chịu khuất phục, không chịu cúi đầu. Có như thế mới thắng được địch và thực hiện được nhiệm vụ cách mạng. Điều biểu hiện rõ rệt nhất, cao quý nhất của đạo đức cách mạng là phải tôn trọng nhân dân, lắng nghe nhân dân, vì nhân dân mà phục vụ. Trong tác phẩm “Đạo đức cách mạng” viết vào tháng 12-1958, Người chỉ rõ: Đạo đức cách mạng là hòa mình với quần chúng thành một khối, tin quần chúng, hiểu quần chúng, lắng nghe ý kiến của quần chúng. Do lời nói và việc làm, đảng viên, đoàn viên và cán bộ làm cho dân tin, dân phục, dân yêu, đoàn kết quần chúng chặt chẽ chung quanh Đảng, tổ chức, tuyên truyền và động viên quần chúng hăng hái thực hiện chính sách và nghị quyết của Đảng. Thấm nhuần lợi dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh, 88 năm qua, Đảng ta đã xây dựng, bồi dưỡng đại bộ phận cán bộ, đảng viên phát huy được phẩm chất, đạo đức cách mạng. Đa số cán bộ, đảng viên luôn trau dồi và giữ được phẩm chất, đạo đức cách mạng, yêu nước, yêu dân, chí công, vô tư, gương mẫu, có lối sống trong sạch, lành mạnh. Tuyệt đại đa số cán bộ, đảng viên vững vàng trước những biến động trong nước và thế giới, kiên định mục tiêu và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội do Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn, hăng hái đi đầu trong công cuộc đổi mới, hoàn thành các nhiệm vụ được giao. Đặc biệt, nhiều cán bộ, đảng viên hoạt động trong các môi trường phức tạp, điều kiện khó khăn đã năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm trước dân, trước Đảng, mạnh dạn tìm tòi, thử nghiệm nhiều cách làm mới, đạt hiệu quả cao, được quần chúng tin yêu, ca ngợi, góp phần nâng cao uy tín, vai trò lãnh đạo của Đảng trong điều kiện mới. Đại bộ phận cán bộ, đảng viên có ý thức tổ chức kỷ luật cao, chấp hành nghiêm chỉnh đường lối, Điều lệ Đảng, pháp luật của Nhà nước, những quy định của địa phương, cơ quan, đơn vị.

Tuy nhiên, trong quá trình đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước, một bộ phận cán bộ, đảng viên có biểu hiện suy thoái về tư tưởng, đạo đức, lối sống, rơi vào chủ nghĩa cá nhân, ích kỷ, tình trạng “nói không đi đôi với làm”, “nói một đằng làm một nẻo”… đang gây bức xúc trong xã hội, làm mất niềm tin trong nhân dân… Hội nghị Trung ương 4 [khóa XI] cũng đã chỉ rõ: “Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có những đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ cao cấp, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống với những biểu hiện khác nhau về sự phai nhạt lý tưởng, sa vào chủ nghĩa cá nhân, ích kỷ, cơ hội, thực dụng, chạy theo danh lợi, tiền tài, kèn cựa địa vị, cục bộ, tham nhũng, lãng phí, tùy tiện, vô nguyên tắc...”[3]. Nghị quyết Trung ương 4 [khóa XII] cũng đã khẳng định: “Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên chưa bị đẩy lùi, có mặt, có bộ phận còn diễn biến tinh vi, phức tạp hơn; tham nhũng, lãng phí, tiêu cực vẫn còn nghiêm trọng, tập trung vào số đảng viên có chức vụ trong bộ máy nhà nước”[4].  Trên cơ sở đó, Nghị Quyết đã chỉ ra 27 biểu hiện, trong đó có 9 biểu hiện suy thoái về đạo đức lối sống.

Đặc biệt, trong thời gian qua, dư luận hết sức bức xúc về những việc làm sai trái, vi phạm đạo đức, thiếu tinh thần trách nhiệm trước Đảng, trước dân, nói không đi đôi với làm của một số cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ đảng viên cấp cao của Đảng đã ảnh hưởng đến uy tín của Đảng, làm giảm sút lòng tin của nhân dân, tổn thương mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân, hạ thấp sức chiến đấu và vai trò lãnh đạo của Đảng. Hiện nay, công cuộc đổi mới đất nước ta đang đứng trước cả thời cơ và thách thức đan xen. Thời cơ và thách thức đó cũng đồng thời đặt ra những yêu cầu rất cao về phẩm chất và năng lực đối với đội ngũ cán bộ, đảng viên. Sự nghiệp đổi mới đất nước không chỉ đòi hỏi cán bộ, đảng viên phải luôn nâng cao trình độ học vấn, chuyên môn nghiệp vụ, năng lực quản lý, mà còn phải thường xuyên tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng; nếu không, sẽ trở thành lạc hậu.

Vì vậy, để khắc phục chủ nghĩa cá nhân, nâng cao đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên, Đảng ta đã ban hành các văn bản quy định cụ thể về việc xử lý vi phạm đối với cán bộ, đảng viên và các tổ chức cơ sở đảng như: Quy đinh 55 QĐ/TW của Bộ Chính trị [19/12/2016] Về một số việc cần làm ngay để tăng cương vai trò nêu gương của cán bộ, đảng viên; Quy định 102-QĐ/TW của Ban Chấp hành Trung ương  [15/11/ 2017] Về việc xử lý kỷ luật đảng viên vi phạm; Quy định số 07 QĐ/TW của Ban Chấp hành Trung ương [28/ 8/2018] Về việc xử lý kỷ luật tổ chức đảng vi phạm. Đặc biệt, Hội nghị Trung ương 8 khóa XII đã quyết định việc ban hành Quy định về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, trước hết là Uỷ viên Bộ Chính trị, Uỷ viên Ban Bí thư, Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Trên cơ sở những chỉ thị, nghị quyết của Đảng, trong thời gian vừa qua Đảng đã tăng cường công tác xây dựng chỉnh đốn Đảng, qua đó phát hiện, xử lý một số cán bộ, đảng viên vi phạm trong đó kể cả những cán bộ cấp cao của Đảng. Với những việc làm đó đã củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước.

Dưới ánh sáng tư tưởng và tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, đồng thời, để thực hiện theo đúng chủ trương, đường lối của Đảng, việc giáo dục, nâng cao đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên cần tập trung vào một số vấn đề chủ yếu sau:

Thứ nhất, cần làm cho mọi cán bộ, đảng viên thấm nhuần sâu sắc hơn nữa tư tưởng của Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng “cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”.

Trong điều kiện lịch sử mới, mở cửa và phát triển kinh tế thị trường, cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ có chức, có quyền luôn đứng trước những cám dỗ, đòi hỏi người cán bộ lãnh đạo phải luôn giữ mình liêm, chính, từ đó mới có thể vượt qua sự trói buộc của công danh, lợi lộc, để không hành động vì quyền lực, không bị ham muốn dụ dỗ. Muốn làm được điều đó, mỗi cán bộ, đảng viên phải thường xuyên tự rèn luyện, tự ý thức về hành động của mình, đồng thời, các tổ chức cơ sở đảng phải thường xuyên giáo dục phẩm chất đạo đức cách mạng đối với các đảng viên. Đặc biệt, khi phát hiện biểu hiện suy thoái thì cần có sự nhắc nhở, phê bình kịp thời, tránh trường hợp bao che, dung túng.

Thứ hai, thực hiện nói đi đôi với làm, nêu gương về đạo đức trong cán bộ, đảng viên.

Đây là hành động cơ bản thể hiện phẩm chất đạo đức cách mạng của người cán bộ, đảng viên. Hiện nay, cùng với hiện tượng suy thoái về đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên, kể cả những cán bộ có chức, có quyền, căn bệnh "nói nhiều làm ít, nói hay làm dở" đã góp phần làm giảm lòng tin của nhân dân. Để khắc phục và hạn chế căn bệnh này, cần có một cuộc vận động, giáo dục rộng rãi, để nói đi đôi được với làm, khi nói phải nghĩ đến làm, có làm được thì mới nói. Đặc biệt, việc gì có lợi cho Đảng, cho dân kể cả những việc khó khăn, nguy hiểm người cán bộ, đảng viên phải xông pha đi đầu và phải làm cho bằng được, việc gì có hại cho Đảng, cho dân phải hết sức tránh. Thông qua những hành động đó người cán bộ sẽ trở thành những tấm gương sáng cho nhân dân noi theo.

Thứ ba, giữ vững lập trường tư tưởng, bản lĩnh chính trị đối với mỗi cán bộ, đảng viên, đặc biệt đối với cán bộ cấp chiến lược.


Giữ vững lập trường tư tưởng, bản lĩnh chính trị là phẩm chất chính trị tuyệt đối cần thiết đối với cán bộ, đảng viên của Đảng. Bản lĩnh chính trị của cán bộ, đảng viện trong giai đoạn hiện nay thể hiện ở sự kiên định với mục tiêu, lý tưởng của Đảng, kiên định nền tảng tư tưởng của Đảng là chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định đường lối đổi mới của Đảng. Tuy nhiên, hiện nay với những tác động của tình hình thế giới và trong nước, bản lĩnh chính trị của người cán bộ, đảng viên đang đứng trước nhiều thách thức. Chính vì vậy, người cán bộ, đảng viên phải thường xuyên tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng, giống như “ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong”. Cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý, cán bộ cấp chiến lược phải nêu gương về đạo đức, kiên quyết chống lãng phí, quan liêu, tham nhũng, tiêu cực; tích cực học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh , phát huy tinh thần Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương khóa XII Về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ mới.
Trong thời gian tới, để tiếp tục xây dựng và nâng cao đạo đức cách mạng của người cán bộ, đảng viên theo tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, thiết nghĩ mỗi cán bộ, đảng viên phải trung thành và kiên định với đường lối độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; trau dồi kiến thức, nâng cao năng lực trí tuệ và năng lực tổ chức thực tiễn, đủ sức đảm đương nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới; giữ gìn phẩm chất và đạo đức cách mạng, đoàn kết nội bộ, đoàn kết nhân dân, đi sát cơ sở, đi đến những nơi khó khăn nhất, lắng nghe ý kiến của nhân dân, phát huy sức mạnh, sáng kiến của đảng bộ và nhân dân để giải quyết những vấn đề do cuộc sống đặt ra; có tinh thần cảnh giác, chủ động chống chủ nghĩa cá nhân, có lối sống lành mạnh, giản dị và tiết kiệm; đẩy mạnh chống tham nhũng, quan liêu và các biểu hiện tiêu cực khác; đấu tranh chống diễn biến hoà bình, các luận điệu xuyên tạc, vu cáo của các thế lực thù địch qua đó, góp phần thực hiện thắng lợi nghị quyết Đại hội Đảng các cấp.

[1] Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr 252-253 .

[2] Hồ Chí Minh: Sđd, t 12, tr 498

[3] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ IV BCHTW [khóa XI], Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2012, tr. 22.

[4] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ IV BCH TW [khóa XII], Nxb Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr. 22.

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

Video liên quan

Chủ Đề