Nhà văn có thể viết về bóng tối nhưng từ bóng tối phải hướng đến ánh sáng

Văn mẫu lớp 12: Nghệ thuật mô tả ánh sáng và bóng tối trong Hai đứa trẻ và Chữ người tử tù là tài liệu có ích, gồm 2 dàn ý cụ thể kèm theo 5 bài văn mẫu hay nhất. Qua ấy giúp các bạn lớp 12 có thêm nhiều tư liệu tham khảo, củng cố tri thức biết cách cảm nhận hay về ánh sáng và bóng tối.

Cả 2 tác phẩm 2 tác giả không giống nhau sử dụng nghệ thuật ánh sáng bóng tối đem đến cho người đọc những liên tưởng và ý nghĩa không giống nhau. Mỗi tác phẩm mang đến cho người đọc những ý nghĩa biệt lập không những thế cũng chẳng thể phủ nhận chính nghệ thuật này góp phần vào sự thành công của 2 thiên truyện. Vậy sau đây là 5 bài văn mẫu hay nhất, mời các bạn cùng theo dõi và tải tại đây.

Dàn ý Ánh sáng và bóng tối trong Hai đứa trẻ và Chữ người tử tù

Dàn ý số 1

I. Mở bài :

Giới thiệu nói chung về 2 tác giả Thạch Lam, Nguyễn Tuân và 2 bài truyện ngắn Hai đứa trẻ, Chữ người tử tù; 2 cụ thể được đề nghị cảm nhận.

II. Thân Bài

Cảm nhận về 2 cụ thể nghệ thuật

a. Ánh sáng và bóng tối trong Hai đứa trẻ.

– Dạng thức của ánh sáng, bóng tối

+ Ánh sáng: vừa mang ý nghĩa vật lý [những nguồn sáng hiện ra trong tác phẩm như: Phương tây đỏ rực, ngọn đèn chị Tí, bếp lửa của bác Siêu, chuyến tàu…] vừa mang ý nghĩa tượng trưng cho mong ước, khát vọng

+ Bóng tối: vừa mang ý nghĩa vật lý [dãy tre làng đen lại, bóng tối mờ mịt chi chít trong đêm…]

– Tương quan ánh sáng, bóng tối: còn đó trong thế giao đấu từ đầu tới cuối tác phẩm trong ấy bóng tối càng khi càng chiếm điểm cộng để rồi thắng thế còn ánh sáng thì bé nhỏ, khổ thân. Về ý nghĩa thực nó cho thấy bức tranh phố huyện nghèo khó, tối tăm. Về ý nghĩa tượng trưng nó cho thấy những con người bé nhỏ như chị em Liên mang trong mình mong ước, khát vọng mãnh liệt vào 1 ngày mai tươi sáng nhưng mà mong ước đã tranh chấp gay gắt và có nguy cơ bị bóp nghẹt bởi hiện thực tối tăm.

b. Ánh sáng và bóng tối trong Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân

– Dạng thức của ánh sáng, bóng tối:

+ Ánh sáng: vừa có dạng thức vật lý [ ngọn đèn của Quản ngục, ánh sáng của tại sao Hôm , ngọn đuốc tẩm dầu..] vừa mang tính tượng trưng cho vẻ đẹp của nghệ thuật cao quý và thiên lương trắng trong tốt đẹp của con người.

+ Bóng tối: Vừa có dạng thức vật lý [Bóng tối bao trùm trong đêm quản ngục ngồi nghĩ suy cùng cái chật hẹp, u tối, dơ dáy của buồng giam..] vừa mang tính tượng trưng cho hiện thực bất minh, ngột ngạt, bạo tàn của nhà ngục nói riêng và xã hội khái quát

– Tương quan ánh sáng, bóng tối và ý nghĩa: Có sự giao đấu gay gắt nhưng mà ánh sáng đã nổi trội trên nền cái tối tăm, dơ dáy [ như ánh sáng của bó đuốc và màu trắng của tấm lụa nổi trội trên nền của nhà tù dơ dáy, chật chội; như vẻ đẹp trong thiên lương của Huấn Cao và Quản ngục đã nổi trội trên nền hiện thực hà khắc]

So sánh:

– Điểm đồng nhất:

+ Cả ánh sáng và bóng tối trong 2 tác phẩm đều hiện ra với 1 tần số bự

+ Ánh sáng đều tượng trưng cho những điều tốt đẹp còn bóng tối tượng trưng cho hiện thực bất minh, nghiệt ngã.

+ Ánh sáng và bóng tối ở cả 2 tác phẩm đều còn đó trong thế giao đấu với nhau 1 cách gay gắt

+ Đều được xây dựng bằng văn pháp tương phản đối lập đặc thù của chủ nghĩa lãng mạn.

– Điểm dị biệt:

+ Trong Hai đứa trẻ, ánh sáng bé nhỏ, yếu đuối còn bóng tối bao trùm, chiếm điểm cộng còn trong Chữ người tử tù ánh sáng lại nổi trội đặc sắc trên nền bóng tối.

+ Thông điệp nhưng mà Thạch Lam muốn gửi gắm là hãy chỉnh sửa hiện thực để con người có thể sống toàn vẹn với mong ước hi vọng của mình còn của Nguyễn Tuân lại là cái đẹp có 1 sức mạnh thần kì, nó có thể nối tiếp mọi khoảng cách, có thể thanh lọc tâm hồn cho con người

+ Về Nghệ thuật: Thạch Lam mô tả ánh sáng, bóng tối bằng thứ tiếng nói giàu chất thơ, giàu giai điệu hình ảnh còn Nguyễn Tuân sử dụng tiếng nói khía cạnh, giàu tính tạo hình

– Lí giải điểm đồng nhất dị biệt:

+ Có những điểm đồng nhất là do cả Nguyễn Tuân và Thạch Lam đều là những nhà văn lãng mạn, cùng sống trong hiện thực tối tăm trước 1945

+ Có điểm dị biệt là do đề nghị buộc phải của văn chương [ko cho phép sự lặp lại] và do cá tính riêng của mỗi nhà văn

III. Kết bài:

– Khẳng định đây đều là 2 cụ thể nghệ thuật rực rỡ trình bày rõ cá tính của 2 nhà văn

Dàn ý số 2

1. Mở bài

– Sơ lược về cá tính sáng tác của 2 nhà văn, đi vào chủ đề chính.

2. Thân bài

a. Hai đứa trẻ:

Ánh sáng:

– Phố huyện: Ánh hoàng hôn đỏ rực, những nguồn sáng leo lắt bé bỏng khởi hành từ ngọn đèn dầu của chị Tí, từ bếp lửa bập bùng rạng ngời 1 vùng mờ mờ của bác Siêu, hay là những hột sáng, tia sáng lọt ra từ những khe cửa của những căn nhà trên phố huyện

=> Mang đến sự yếu đuối, u ám của khu phố huyện, biểu lộ quang cảnh buồn bực u ám nơi phố huyện nghèo, nhưng mà còn là tượng trưng cho những kiếp người tàn, đang sống lắt lay từng ngày.

– Đoàn tàu đêm: “toa đèn sáng trưng, chiếu cả xuống đường… đồng và kền nhấp nhánh, và các cửa kính sáng”, trình bày sự giàu sang, khá giả, đưa ký ức của Liên về 1 thời tuổi thơ bóng gió nhưng mà chị đã từng có, ko chỉ vậy nó còn là tượng trưng cho sự chờ đợi, khao khát mãnh liệt, tiềm ẩn về 1 cuộc đời tươi sáng hơn của người dân phố huyện, với mong ước đổi đời.

Bóng tối:

– Bóng tối lan dần trong mắt Liên, tới hình ảnh “dãy tre làng trước mặt đen lại và cắt hình rõ rệt trên nền trời”, rồi cảnh bóng tối đen đặc tới tột cộng với hình ảnh “đường phố và các ngõ con chứa đầy bóng tối”, “tối hết cả, trục đường thăm thẳm ra sông, trục đường qua chợ về nhà, các ngõ vào làng lại càng sẫm đen hơn nữa”.

=> Tất cả đều trình bày sự tĩnh mịch, buồn bực và tĩnh lặng của phố huyện nghèo lúc trời đêm sập xuống.

*Tiểu kết:

Sự hiện ra của những thứ ánh sáng yếu đuối, leo lắt thành từng chòm, từng hột, từng vệt,… giữa ban đêm mịt mùng nơi phố huyện là 1 sự tương phản thâm thúy, tượng trưng cho những kiếp người tàn, lầm lũi, bé nhỏ nơi phố huyện, tượng trưng cho cuộc sống chán nản, nghèo nàn, và tuyệt vọng, ngột ngạt của những con người nơi đây.

b. Chữ người tử tù:

*Ánh sáng:

– “ánh sáng đỏ rực của 1 bó đuốc”, “lửa đóm cháy rừng rực”, ngọn đèn nến trên án của viên quản ngục, rồi thì ánh sáng lấp láy của những vì tinh tú, của ngôi sao Hôm,…

=> Biểu tượng cho vẻ đẹp nghệ thuật cao quý và tâm hồn trắng trong, thiện lương của con người, chúng còn đó ngay cả trong những tình cảnh u tối bẩn thỉu nhất, chiếu sáng tâm hồn của những con người có thiên lương là thứ ánh sáng trường tồn bất tử và cực kỳ mãnh liệt.

*Bóng tối:

– cảnh “trại giam tối mịt”, “trời tối mò” hiu quạnh bao phủ lên người viên quản ngục trong đêm ông thu được lệnh giam Huấn Cao, cảnh Huấn Cao cho chữ trong buồng giam chật hẹp ẩm ướt, đầy phân gián, phân chuột lộn xộn.

=> Mang ý nghĩa tả chân cảnh tù tội trong ngục thất của Huấn Cao nhưng mà suy rộng ra hơn nữa nó chính là tượng trưng cho sự bức bối, ngột ngạt, u tối của xã hội đương thời, cũng như của cái môi trường nhưng mà viên quản ngục đang làm việc và sinh sống.

* Tiểu kết:

– Ánh sáng và màu trắng bốp khôi của tấm lụa nổi trội trên cái nền bất minh, chật hẹp của ngục thất và trái lại, từ ấy suy ra mối tương quan rằng trong tình cảnh u tối, dơ dáy và gian ác thì thiên lương, tâm hồn biệt nhưỡng liên tài của viên quản ngục, cũng như vẻ đẹp tâm hồn cao quý, cộng với nghệ thuật thanh cao được đẩy lên 1 cách rõ rệt, gây ấn tượng thâm thúy với người đọc.

c. Giống và khác:

*Giống:

  • Sử dụng các cụ thể ánh sáng và bóng tối 1 cách chi chít trên tác phẩm của mình.
  • Ánh sáng biểu trưng cho vẻ đẹp trong tâm hồn con người, sự thanh cao tinh khiết, niềm chờ đợi tốt đẹp, còn bóng tối lại biểu trưng cho sự tuyệt vọng, khốn khổ chật hẹp và cái xấu xa bị động trong xã hội.
  • Ánh sáng và bóng tối đều được xây dựng ở thế giao đấu kịch liệt và gay gắt, với nghệ thuật tương phản đối lập rõ ràng.

*Khác:

  • Hai đứa trẻ cách sử dụng nghệ thuật sáng tối của Thạch Lam thiên về thiên hướng mềm mại, lãng mạn trữ tình, phảng phất sự u buồn, tịch liêu, ngược lại trong Chữ người tử tù thì ánh sáng và bóng tối được khắc họa tạo hình sắc nét, chân thực và mạnh bạo.
  • Ánh sáng ở Hai đứa trẻ được tác giả dựng lên 1 cách yếu đuối, lẻ tẻ, nhạt nhòa nghe đâu bị màn đêm xơi tái. Chữ người tử tù ánh sáng và bóng tối được tác giả mô tả ở thế cạnh tranh ngang bằng, kịch liệt, trong ấy có vẻ ánh sáng được mô tả 1 cách nổi trội, áp đảo bóng tối.

=> Từ ấy suy ra thông điệp Thạch Lam muốn gửi gắm là sự vươn lên, vẻ đẹp nhựa sống tiềm ẩn, niềm khao khát chờ đợi tốt đẹp của những kiếp người bé nhỏ trong cuộc sống còn nhiều u tối, u ám. Còn Nguyễn Tuân khẳng định chân lý vẻ đẹp thiên lương và tâm hồn thanh cao sẽ luôn thắng và rạng ngời đặc sắc, gắn kết tâm hồn con người lại với nhau dù cho có ở điều kiện hà khắc, u tối và dơ dáy tới thế nào.

3. Kết bài

– Nêu cảm nhận.

Ánh sáng và bóng tối trong Hai đứa trẻ và Chữ người tử tù – Mẫu 1

Nhắc tới văn chương Việt Nam công đoạn 1930 – 1945, người ta nghĩ ngay tới những sự chỉnh sửa mạnh bạo trên phương diện thơ. Nhưng kế bên thơ, văn xuôi trong công đoạn này cũng đạt được những thành quả đáng ghi nhận. Kế bên những phấn đấu đổi mới của Tự lực văn đoàn, người đọc còn nhớ tới 1 giọng văn tài ba thông thái của Nguyễn Tuân hay 1 chất giọng tự sự giàu cảm xúc của Thạch Lam. Sự hiện ra của Nguyễn Tuân cũng như Thạch Lam trên văn đàn Việt Nam đã mang lại những dấu ấn biệt lập ko phai nhòa theo 5 tháng. Tác phẩm mang đậm dấu ấn của Nguyễn Tuân phải đề cập là Chữ người tử tù. Và tác phẩm Hai đứa trẻ đã ghi nhận cá tính rất sâu đậm của Thạch Lam. Qua việc khắc họa ánh sáng và bóng tối, cả 2 nhà văn đã nhắn gửi người đọc bao điều.

Khi phân tách ánh sáng và bóng tối trong chữ người tử tù, ta thấy tác phẩm này thuở đầu có tên là Dòng chữ chung cuộc in 5 1938 trên báo chí Tao Đàn. Câu chuyện mở màn bằng cuộc gặp mặt ngang trái giữa Huấn Cao và viên quản ngục. Trong tác phẩm đó, người đọc ko chỉ bị lôi cuốn bởi tài năng và thiên lương của Huấn Cao và viên quản ngục nhưng mà còn bị ấn tượng bởi ánh sáng và bóng tối.

Hai đứa trẻ được trích trong tập truyện Nắng trong vườn [1938]. Tác phẩm kể về người dân nơi phố huyện nghèo với cuộc sống u tối gian nan giao thương trên ga xép, nổi trội là 2 chị em An và Liên. Hai đứa trẻ giã biệt cuộc sống Hà Nội để chuyển tới 1 ga xép nghèo.

Mẹ nghèo làm hàng xáo còn 2 chị em thì giao thương tạp hóa bé trong gian hàng thuê của người khác. Như mọi ngày, 2 đứa trẻ trong tác phẩm vẫn lặp đi lặp lại vòng tròn đơn điệu của cuộc sống giao thương vụn vặt. Niềm xoa dịu độc nhất của chúng chính là được nhận ra chuyến tàu đêm.

Với 2 tác phẩm này, ánh sáng và bóng tối trong Chữ người tử tù và Hai đứa trẻ hiện lên với những nét rất biệt lập.

Ánh sáng và bóng tối trong chữ người tử tù trước nhất tới từ quang cảnh tự nhiên cũng như quang cảnh tù túng nơi làm việc của viên quản ngục. Trước nhất chính là thời kì nghệ thuật của tình tiết. Viên quản ngục xuất hiện chỉ cần khoảng ban đêm độc thân “Trên 4 chòi canh, nhục tốt cũng mở màn điểm vào cái hiu quạnh của trời tối mò”. Đấy là 1 thời kì nghệ thuật lạ mắt thường được các nhà văn thi sĩ áp dụng làm cơ sở để phục vụ cảnh huống.

Ban đêm đó chính là khi con người sống thật với lòng mình, gạt bỏ những ngổn ngang của công tác, cuộc sống thường ngày. Đối diện với ban đêm cũng là khi con người đối diện với chính mình, với sự độc thân. Chính thành ra, con người dễ ợt thổ lộ nỗi lòng. Và thời kì đó cũng khiến ko gian phát triển thành bao la hơn. “Những tiếng kiểng và mõ đều đặn loáng thoáng” vang lên.

Ánh sáng và bóng tối trong chữ người tử tù còn trình bày ở âm thanh của ko khí mờ mịt, ảm đạm nhưng mà càng khiến lòng người lẻ loi. Giữa ko gian thời kì đó, cuộc hội thoại rời rạc, e ấp và có phần nghi nhại của thầy thư lại và viên quản ngục như tô đậm thêm ko gian tù túng nơi đây. Viên quản ngục hiện lên với những nét phác họa trong 1 quang cảnh le lói ánh sáng của cây đèn dầu.

“Nơi góc chiếc án thư cũ đã nhợt màu vàng son, 1 cây đèn đế leo lắt rọi vào 1 gương mặt nghĩ ngợi”. Đấy là gương mặt trầm mặc nghĩ suy của viên quản ngục. Khuôn mặt đó cũng như nỗi lòng của viên quản ngục bấy giờ. Ông đang băn khoăn vì 1 lẽ – nhà giam này sắp đón 1 tên tử tù vô cùng nguy nan nhưng mà quan trọng hơn ấy còn là ông mến mộ khao khát gặp lâu nay nay. Viên quản ngục đảm nhận chức quản ngục sống giữa gông cùm tội ác – nơi “người ta sống với nhau bằng lọc lừa, bằng tàn nhẫn”.

Hằng ngày viên quản ngục phải đương đầu với bao lăm gian nan, chứng kiến bao điều xấu xa chốn nhà tù tăm tối. Hoàn cảnh đó dễ đẩy con người vào đường cùng, bùn nhơ, nhấn chìm tư cách con người vào vòng xoáy tội ác của nó. Thế nhưng mà có nào ngờ cái mong ước, sở nguyện độc nhất của viên quản ngục là “có 1 ngày kia được treo ở nhà riêng mình 1 đôi câu đối do tay ông Huấn Cao viết”.

Chính thành ra, lúc biết tin Huấn Cao sẽ bị giam tới đây thì ông vừa mừng vừa lo. Ông vui tươi bởi lẽ người nhưng mà ông mến mộ lâu nay chung cuộc cũng có thể gặp gỡ. Ông lo bởi lẽ ông ko biết làm sao có thể đương đầu với Huấn Cao và phải đối xử thế nào với Huấn Cao giữa chốn lao tù này. Ánh đèn dầu leo lắt giữa ban đêm cũng như sự hiện ra của viên quản ngục nơi đây.

Ánh sáng và bóng tối trong Chữ người tử tù còn trình bày ở ánh đèn dầu tuy bé nhưng mà vẫn mang lại cho ko gian tối tăm chút ánh sáng chờ đợi. Viên quản ngục được Nguyễn Tuân nhận xét “là 1 thanh âm trong trẻo chen vào giữa 1 bản đàn nhưng mà nhạc luật đều hỗn loạn xô bồ”. 1 tâm hồn tinh khiết lại sống giữa nơi tối tăm, 1 người tốt lại sống giữa 1 vòng xoáy tội ác. Giữa ko gian chan chứa bóng tối đó ko chỉ có ánh sáng của ánh đèn dầu nhưng mà còn có sự hiện ra của 1 tại sao lạc “Trong khung cửa sổ có nhiều con sông kẻ những nét đen thẳng lên nền trời lốm đốm tinh tú, 1 ngôi sao Hôm lấp láy như muốn tụt xuống phía chân giới ko định”.

Bầu trời đêm vốn ảm đạm nhưng mà cũng là khi làm cho vẻ đẹp tinh tú dù bé nhỏ cũng phát triển thành nhấp nhánh hơn. Và cũng chính vì ban đêm nhưng mà người ta càng thêm trân trọng ánh sáng. Không gian kì ảo của bầu trời còn được khuấy động bởi âm thanh của “tiếng dội chó sử ma, tiếng trống thành phủ, tiếng kiểng mõ canh nổi lên. Bấy nhiêu thanh âm phức tạp bay cao lần lên khỏi mặt đất tối, nâng đỡ láy 1 ngôi sao chính vị muốn giã từ vũ trụ”. Ngôi sao đó hiện ra bất thần nhưng mà làm sáng cả bầu trời đêm, phải chăng ấy là Huấn Cao.

Nhưng tiếc thay, ngôi sao đó cũng sắp vụt tắt. Dù nhấp nhánh tới đâu cũng khó tránh khỏi căn số. Ngôi sao đó đã phần nào dự đoán căn số của Huấn Cao. Ở bức tranh tự nhiên, ko gian và thời kì phủ đầy 1 màu bất minh nhưng mà trong bóng tối vẫn ánh lên những tia sáng.

Ánh sáng và bóng tối trong Chữ người tử tù còn trình bày rõ nét rằng ấy ko chỉ là ánh sáng của ngọn đèn dầu, của tại sao nhưng mà ấy còn là ánh sáng toát lên từ viên quản ngục đặc thù này. Đấy là vẻ đẹp của thiên lương, là niềm tin của tác giả về thiên lương của con người dù trong tình cảnh nào, ta vẫn có thể bắt gặp được thiên lương của con người. ngôi sao chính vị sắp giã từ vũ trụ, tất cả như chòng chành giữa 2 thế đứng để rồi ánh sáng của thiên lương tuy bé nhoi vẫn thắng lợi, dẫn tới 1 thái độ xử sự đẹp.

Ánh sáng và bóng tối trong Chữ người tử tù nổi trội nhất là trong cảnh cho chữ – 1 quang cảnh lâu nay chưa từng thấy. Người tử tù Huấn Cao vốn là người có tâm hồn nghệ sĩ thích thú tự do và đáng ghét những kẻ nhũng nhiễu quần chúng. Chính thành ra, Huấn Cao đã đứng lên chống lại chính quyền. Ngoài ra, ông còn là người nghệ sĩ tài năng thích thú cái đẹp và luôn giữ giàng thiên lương trắng trong.

Huấn Cao trên lĩnh vực nghệ thuật cũng có nguyên lý riêng của mình, ông viết chữ nổi danh nhưng mà chỉ cho những người tình quý cái đẹp, ko bao giờ cúi đầu trước quyền uy và đồng bạc. Huấn Cao sáng tác nghệ thuật nhưng mà ko bán nghệ thuật. Thành ra, ban sơ dù viên quản ngục tốt với Huấn Cao bao lăm nhưng mà Huấn Cao vẫn hững hờ ko ân cần tới viên quản ngục.

Nhưng lúc hiểu được tấm lòng của viên quản ngục, Huấn Cao đã đồng ý cho cái sở nguyện xin chữ đó của viên quản ngục. Cảnh cho chữ nằm ở cuối truyện nhưng mà lại là phần trung tâm trình bày trị giá nghệ thuật. Khung cảnh cho chữ diễn ra vào thời kì ban đêm, lúc “chỉ còn vẳng tiếng mõ trên vọng gác”. Giây phút này quý giá hơn bởi ấy còn là những phút giây chung cuộc của con người tài ba.

Không gian cho chữ thường là nơi gác sách trang nhã, thơm mùi giấy hay 1 ko gian long trọng sang trọng nhưng mà trong quang cảnh khi bấy giờ ấy chỉ là “1 căn buồng tối chật hẹp, ẩm mốc, tường đầy màng nhện, đất lộn xộn phân chuột phân gián”. 1 ko gian u tối, 1 thời điểm sắp vĩnh biệt cuộc sống nhưng mà ấy cũng là lúc Huấn Cao sáng hình thành 1 tác phẩm nghệ thuật như 1 di ngôn của mình.

Trong ko gian đó được thắp sáng bởi “khói tỏa như đám nhà cháy, ánh sáng đỏ rực của 1 bó đuốc tẩm dầu rọi lên 3 cái đầu người đang chuyên chú trên 1 tấm lụa bạch còn nguyên lành lần hồ. Khói bốc tỏa cay mắt, làm họ dịu mắt lia lịa”. Giữa ko gian tối đen bởi màn đêm buông xuống, bởi ko gian tối tăm lao tù, nhưng mà được bừng sáng từ ánh sáng của bó đuốc, của tấm lụa.

Trong ko gian đó hiện lên là Huấn Cao “1 người tù cổ đeo gông, chân mang xiềng xích, đang giậm tô từng nét trên tấm lụa trắng bốp” – người tử tù bị mất tự do nhưng mà lại hiên ngang, biến thành người nghệ sĩ, viên quản ngục đứng chờ Huấn Cao viết xong từng nét chữ thì vội “khúm núm cất những đồng bạc kẽm ghi lại ô chữ đặt trên phiến lụa óng” và thầy thư lại run run.

Xét về phương diện xã hội Huấn Cao là người chống lại thứ tự xã hội, viên quản ngục lại là người đại diện cho thứ tự xã hội ấy. Nhưng xét trên phương diện nghệ thuật, thì Huấn Cao là người tạo ra cái đẹp, viên quản ngục là người thưởng thức và trân trọng cái đẹp. Người tưởng đang trong tư thế tự do nhất hóa ra lại “khúm núm, sợ sệt”, còn người tù mang gông cùm tưởng chừng mất tự do hóa ra lại là người tự do nhất khi này.

Khi phân tách ánh sáng và bóng tối trong Chữ người tử tù, ta thấy chỉ trong 1 cảnh cho chữ nhưng mà có sự đan xen giữa thiện và ác, giữa ánh sáng và bóng tối. Nhưng trong ko gian đầy mùi ẩm ốc, tối đen đó, Huấn Cao lại ko cảm thấy khó ở nhưng mà cái đọng lại chỉ còn là ánh sáng của bó đuốc, mùi thơm của giấy. Huấn Cao nói về mùi thơm của mực: “Thỏi mực, thầy sắm ở đâu tốt và thơm quá. Thầy có thấy mùi thơm ở chậu mực bốc lên ko?…”. như thể ông chẳng hề đang ở trong tù, ko còn bóng tối, cũng ko còn màng nhện, phân chuột, phân gián nữa. Chỉ còn lại sự thơm tho của mực, sự thuần khiết của lụa – nó là sự thơm tho và thuần khiết của thiên lương con người.

Bó đuốc đó còn là ánh sáng thiên lương của cái đẹp nhưng mà Huấn Cao đã tạo ra để soi đường ngày mai cho viên quản ngục. Bóng tối kia hay chính là cái xấu, cái ác. Hình ảnh bó đuốc xua bóng tối cũng chính là ẩn dụ cho tài năng xua đi cái ác, sinh sôi từ cái ác. Huấn Cao ko chỉ tặng chữ nhưng mà ông còn truyền giao cả lý tưởng hướng thiện tới cho viên quản ngục. Từ ấy, tô đậm chủ đề của tác phẩm – cái thiện tuy mong manh nhưng mà bất tử và có thể hướng con người về chân thiện mỹ. Cuối cùng rồi cái thiện sẽ thắng lợi cái ác, ánh sáng sẽ đẩy lùi bóng tối.

Với việc sử dụng tiếng nói giàu tính tạo hình liên kết với cái đa ngành – hội họa và điện ảnh, Nguyễn Tuân đã hình thành 1 quang cảnh lâu nay chưa từng có trong 1 cảnh huống đầy ngang trái, trớ trêu. Đặc trưng là những liệu pháp sử dụng để trình bày ánh sáng và bóng tối trong Chữ người tử tù.

Bức cảnh đó tuy chỉ được sử dụng 2 màu sắc tương phản đối lập nhau của ánh sáng và bóng tối, nhưng mà quang cảnh đó ko nhạt nhòa nhưng mà càng thêm nổi trội và khắc sâu vào lòng người. Ánh sáng tới từ thiên lương chính là ánh sáng đặc sắc nhất, cũng chính là ánh sáng của sự giao hòa giữa cái đẹp và cái thiện. Thông điệp đó tới bây giờ phút này tuy trải qua bao chỉnh sửa của thời kì nhưng mà vẫn còn nguyên trị giá của nó.

Khác với ánh sáng và bóng tối trong Chữ người tử tù, tác phẩm Hai đứa trẻ được nhà văn trình bày điều này 1 cách rất dị biệt. Ánh sáng và bóng tối trong Hai đứa trẻ được nhà văn Thạch Lam sử dụng như 1 thủ pháp chính trong nghệ thuật của tác phẩm.

Bối cảnh là ko gian phố huyện buồn tẻ với thời kì là 1 buổi chiều “êm đềm như ru” đang sắp nhường chỗ cho bóng đêm, hay “dãy tre làng trước mặt đen lại và cắt hình rõ rệt trên nền trời”. Khung cảnh phố huyện của tác phẩm là trong bóng tối gợi ko khí buồn buồn, hiu hắt, chậm chậm, đơn điệu của cuộc sống nơi đây.

Bóng tối ngập đầy trong đôi mắt của Liên lúc căn số của lũ trẻ bới rác và những công nhân nghèo ở đây cũng nhạt nhòa trong bóng tối. Bối cảnh phố huyện cộng với tâm cảnh đối tượng được Thạch Lam xây dựng vào những thời khắc không giống nhau: khi hoàng hôn, lúc đêm về và khi đêm đã khuya.

Trong ánh sáng của ngọn đèn leo lắt trên chõng hàng chị Tý, trong bếp lửa của bác Siêu và những hạt sáng lọt qua phên nứa từ ngọn đèn của chị em Liên, những con đứa ở đây hiện lên như những cái bóng vật vờ ko căn số, không kể cách. Họ như hy vọng 1 điều gì ấy mới mẻ, khác biệt so với cảnh đời buồn tẻ, quanh quẩn, tù đọng của cái “ao đời bằng vận” hàng ngày họ nếm trải.

Ánh sáng trong Hai đứa trẻ trình bày ở tự nhiên và mong ước của họ. Bầu trời kì ảo trong Hai đứa trẻ là phương tây đỏ rực như lửa cháy hay ánh sáng của nghìn sao tị nhau nhấp nhánh, ấy còn là vệt sáng của những con đom đóm, từ ngọn đèn trong nhà bác phở Mĩ, đèn hoa kì leo loét trong nhà ông Cửu hay những ánh sáng xanh trong hiệu khách…

Ánh sáng trong Hai đứa trẻ còn trình bày từ ngọn đèn của chị Tí, khe ánh sáng từ 1 vài shop còn thức hay 1 chấm lửa ở phía huyện, ánh sáng đèn lồng của những người làm thuê ở hiệu khách đi đón bà chủ về…

Nhìn chung, cả ánh sáng và bóng tối trong 2 tác phẩm trên đều hiện ra với 1 tần số lơn. Ở cả 2 thiên truyện này, ánh sáng đều tượng trưng cho những điều tốt đẹp còn bóng tối tượng trưng cho hiện thực bất minh, nghiệt ngã. Kế bên ấy, ánh sáng và bóng tối ở cả 2 tác phẩm đều còn đó trong thế giao đấu với nhau 1 cách gay gắt. Ngoài ra, ánh sáng và bóng tối trong Chữ người tử tù và Hai đứa trẻ đều được xây dựng bằng văn pháp tương phản đối lập đặc thù của chủ nghĩa lãng mạn.

Ánh sáng và bóng tối trong Chữ người tử tù vừa là ánh sáng và bóng tối của bức tranh tự nhiên, ko gian vừa là ánh sáng và bóng tối của lòng người. Bóng tối bao trùm khắp ko gian đó mang tính tượng trưng cho hiện thực bất minh của buồng giam nói riêng và của xã hội ngột ngạt ngày nay khái quát.

Trong bóng tối bao trùm đó, ánh sáng vẫn le lói hiện ra tới chung cuộc bùng cháy mãnh liệt dữ dội soi sáng cả lòng người. Cuộc chiến giữa ánh sáng và bóng tối cũng chính là ánh sáng giữa thiện và ác. Đấy là 1 trận đấu dằng dai, khốc nghiệt. Cái đẹp tuy mong manh nhưng mà có thể hồi sinh ở bất kỳ đâu, ở bất kỳ người nào. Cái đẹp phát khởi từ lòng người và sẽ đi tới lòng người.

Còn ở tác phẩm Hai đứa trẻ, ánh sáng lại bé nhỏ, yếu đuối còn bóng tối bao trùm, chiếm điểm cộng. Thông điệp nhưng mà nhà văn Thạch Lam muốn gửi gắm tới độc giả là hãy chỉnh sửa hiện thực để con người có thể sống toàn vẹn với mong ước hi vọng của mình. Nhà văn Thạch Lam đã mô tả ánh sáng cũng như bóng tối bằng thứ tiếng nói giàu chất thơ và giàu giai điệu hình ảnh.

Qua đây ta thấy có những điểm đồng nhất là do cả Thạch Lam và Nguyễn Tuân đều là những nhà văn lãng mạn, cùng sống trong hiện thực tối tăm trước 1945. Và điểm dị biệt là bởi đề nghị buộc phải của văn chương [ko cho phép sự lặp lại] và cũng bởi cá tính sáng tác riêng của mỗi nhà văn

Cả 2 tác phẩm 2 tác giả không giống nhau sử dụng nghệ thuật ánh sáng bóng tối đem đến cho người đọc những liên tưởng và ý nghĩa không giống nhau. Mỗi tác phẩm mang đến cho người đọc những ý nghĩa biệt lập không những thế cũng chẳng thể phủ nhận chính nghệ thuật này góp phần vào sự thành công của 2 thiên truyện.

Ánh sáng và bóng tối trong Hai đứa trẻ và Chữ người tử tù – Mẫu 2

Ánh sáng và bóng tối vốn là 2 bình diện quan trọng của cuộc sống, xoành xoạch còn đó kế bên nhau, bổ sung cho nhau. Trong hội họa, ánh sáng và bóng tối là 1 thủ pháp căn bản được dùng để khắc họa con người và sự vật trong cuộc sống.

Trong văn học, ánh sáng và bóng tối cũng được sử dụng như 1 thủ pháp nghệ thuật nhằm tạo cảnh huống truyện, chuyển tải nội dung tư tưởng, chủ đề của tác phẩm. Với Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân và Hai đứa trẻ của Thạch Lam, ánh sáng và bóng tối được sử dụng như 1 thủ pháp nghệ thuật cốt cán “biểu lộ cách khai thác hình tượng đối với cuộc sống, như thủ pháp thuyết phục và lôi cuốn bạn đọc” của tác giả. Nguyễn Tuân và Thạch Lam tuy cùng thuộc dòng văn chương lãng mạn nhưng mà mỗi người có 1 cách sử dụng các thủ pháp nghệ thuật hoàn toàn không giống nhau, hình thành những toàn cầu nghệ thuật biệt lập và lạ mắt, mang đậm cá tính tư nhân của tác giả.

Miệt mài trong hành trình tìm kiếm cái đẹp, ca tụng cái đẹp, Nguyễn Tuân và Thạch Lam, trong Chữ người tử tù và Hai đứa trẻ, ánh sáng và bóng tối được sử dụng ko chỉ như 1 nguyên lý tạo cảnh huống truyện nhưng mà còn vươn tới ý nghĩa tượng trưng về cái đẹp trong cuộc đời. Nguyễn Tuân viết Chữ người tử tù từ cảm hứng về 1 thú chơi thanh tao của người xưa, trong 1 cảnh huống đặc thù nhưng mà người viết chữ và game thủ chữ là người tử tù và người quản ngục. Hai đối tượng này hiện ra trong tác phẩm như 1 kiểu song trùng của sự còn đó chẳng thể thiếu nhau giữa 2 khách thể đối cực, như ánh sáng và bóng tối, thậm chí là kẻ địch trong 1 tình cảnh đặc thù. Song chính vì là đối cực như ánh sáng với bóng tối nên bản thân sự không giống nhau này cũng đã hàm chứa 1 sự tương liên, bổ sung cho nhau, thậm chí chuyển hóa từ tối ra sáng như 1 quy luật thế tất.

“Chữ” hiểu theo nghĩa của tác phẩm chính là Thư pháp, 1 “nghệ thuật trình bày chữ viết và là dụng cụ để biểu thị tiềm thức của con người… Thư pháp gắn với tính cách, tâm sự, tình cảm, quan niệm triết học, nhân sinh quan của người viết”. Từ nét chữ, người ta có thể đọc được tâm tính, tư cách, khí phách người viết, nó trình bày toàn cầu nội tâm của người viết chữ. Thành ra người xưa coi việc chơi chữ như 1 cách di dưỡng tâm tính, un đúc ý thức. Viên quản ngục yêu chữ của Huấn Cao là yêu tư cách, khí phách, tài ba của người viết chữ, yêu cái đẹp tỏa ra từ toàn cầu nội tâm của con người này.

Không gian nghệ thuật của Chữ người tử tù chính yếu được xây dựng dựa trên ko gian nhà giam – 1 “trại giam tối mịt”, quang cảnh nền đó chan chứa bóng tối, “hiu quạnh” và “tối mò”, tất cả đều nhuốm vẻ lặng thầm, ảm đạm. Mẩu hội thoại ngắn đầy e ngại, giữ giàng, nghi ngờ lẫn nhau giữa quản ngục và thầy thư lại như khắc họa rõ hơn căn số những con người quanh 5 trong bóng tối, tuy tự do về nhân thân nhưng mà lại bị tù đày về tư cách. Không gian nghệ thuật của tác phẩm được giới hạn ở 1 nhà giam bé, 1 cõi nhân sinh nhưng mà bóng tối nhiều hơn ánh sáng, ánh sáng chỉ là 1 ngọn đèn leo lắt lọt thỏm giữa bóng tối mịt mờ và hiu quạnh, chỉ là 1 vài vì tinh tú lấp láy xa xa, trong ấy có 1 “ngôi sao chính vị muốn giã từ vũ trụ”. Chút ánh sáng đó quá bé nhoi so với toàn thể màn đêm bao phủ nơi đây, nhưng mà giữa sự tương phản có vẻ ko hợp lý đó, tác giả muốn gửi gắm niềm tin về thiên lương con người, dù ở bất cứ tình cảnh nào, dù le lói nhưng mà ko bao giờ tắt, và nếu có dịp nó lại bùng lên mạnh bạo như niềm tin của con người vào cái tốt cái đẹp, vào ánh sáng. Đấy là nét đẹp, là chút ánh sáng còn sót lại trong tâm hồn ngục quan. Con người đang còn đó ở 1 nơi nhưng mà những vẻ đẹp và những điều xấu xa luôn kế cận nhau, ánh sáng luôn có nguy cơ bị dập tắt bởi bóng tối.

Trong toàn cầu tối tăm đó, quản ngục như lạc điệu cô độc trong toàn cầu riêng của mình: 1 ngọn đèn leo lắt, 1 bóng tối mịt mờ hiu quạnh, tiếng trống thu ko, tiếng kiểng tiếng mõ loáng thoáng, tiếng chó sủa vào những bóng ma mơ hồ kì bí cứ bám mãi vào màn đêm hoang hút… Những sợi dây, những vòng dây trói vô hình cứ tròng lên, thít vào cuộc đời mòn rỉ của con người nhưng mà Nguyễn Tuân nói là “đang băn khoăn ngồi bóp thái dương”, với 1 ngoại hình mỏi mòn, độc thân “tóc hoa râm, râu đã ngả màu”. Tuy vậy ẩn sâu bên trong con người này là 1 đời sống tâm hồn như “1 thanh âm trong trẻo chen vào giữa bản đàn nhưng mà nhạc luật đều hỗn loạn và xô bồ. Nguyễn Tuân đã rất thành công lúc tạo dựng bối cảnh và ko khí để xây dựng cảnh huống truyện. Nỗi băn khoăn dẫn tới quyết định biệt đãi Huấn Cao của quản ngục được đặt trong 1 ko gian nền đầy bóng tối – nơi chỉ có vài đốm sáng lấp láy trên bầu trời, thậm chí có 1 ngôi sao chính vị sắp giã từ vũ trụ, tất cả như chòng chành giữa 2 thế đứng để rồi ánh sáng của thiên lương tuy bé nhoi vẫn thắng lợi, dẫn tới 1 thái độ xử sự đẹp.

Cuộc gặp mặt giữa 2 con người tưởng như đối địch quyết liệt nhưng mà lại hòa hợp cực kỳ ở chấm dứt của truyện. Huấn Cao càng khẳng khái, cương trường, khinh thế ngạo vật bao lăm, quản ngục càng nhẫn nhịn, lễ độ, cam chịu bấy nhiêu. Tất cả chỉ vì sự ảnh hưởng của cái đẹp, của ánh sáng tỏa ra từ 1 tư cách, vì quý trọng 1 tài năng, xót xa 1 bảo bối văn hóa sắp bị chôn vùi vĩnh viễn. Mạch ca tụng nâng cao từ 2 phía đối lập của 2 thế đứng, 2 tâm cảnh, 2 thái độ xử sự, 2 mặt của cuộc sống. Chính công tác, môi trường trại giam đã buộc ràng quản ngục vào 1 giới hạn nghiệt ngã, con người này hàng ngày là dụng cụ, là người máy, còn sâu trong cõi lòng kia chất chứa 1 nỗi độc thân ko kẻ tỏ bày, ko người tri kỉ tri kỷ. 1 con người nhưng mà mới thoạt trông bên ngoài tưởng như là 1 khối bóng tối đồ sộ nhưng mà rồi cái tài ba của Nguyễn Tuân là đã biết chớp lấy cái phút giây thuận tiện nhất để chút ánh sáng le lói trong tâm hồn quản ngục có dịp bừng sáng lên. Không những thế tác giả còn dựng cảnh huống cho giây phút bừng sáng ấy thành thiên thu vĩnh viễn ở đoạn kết – sự thắng lợi của ánh sáng và bóng tối, trong “cảnh cho chữ”, “1 cảnh tượng lâu nay chưa từng có”.

Về truyện ngắn Hai đứa trẻ của Thạch Lam có thể nói đây là 1 truyện ngắn “phi tình tiết”. Đấy là điểm đặc thù cùng lúc cũng là 1 trong những nét làm nên cá tính riêng trong nghệ thuật viết truyện của Thạch Lam.

Ánh sáng và bóng tối trong Hai đứa trẻ được sử dụng như 1 thủ pháp chính trong nghệ thuật dựng truyện của Thạch Lam. Sở dĩ nói tương tự bởi ánh sáng và bóng tối được tác ví thử dụng trong cách xây dựng bối cảnh tác phẩm, đối tượng lẫn trong các cụ thể bé nhằm biểu đạt chủ đề của tác phẩm.

Bối cảnh của Hai đứa trẻ là ko gian phố huyện buồn tẻ – 1 ko gian nghệ thuật đặc thù hiện ra khá nhiều trong truyện ngắn của ông. Đấy là 1 ko gian đan xen giữa làng quê và thị thành. Thời gian là 1 buổi chiều “êm đềm như ru” đang sắp nhường chỗ cho bóng đêm, “dãy tre làng trước mặt đen lại và cắt hình rõ rệt trên nền trời”. Khung cảnh phố huyện trong bóng tối gợi ko khí buồn buồn, hiu hắt, chậm chậm, đơn điệu của cuộc sống nơi đây. Bóng tối ngập đầy trong đôi mắt của Liên. Số mệnh của lũ trẻ bới rác và những công nhân nghèo ở đây cũng nhạt nhòa trong bóng tối. Bối cảnh phố huyện và tâm cảnh đối tượng được tác giả xây dựng vào những thời khắc không giống nhau: khi hoàng hôn, lúc đêm về và khi đêm đã khuya. Trong ánh sáng của ngọn đèn leo lắt trên chõng hàng chị Tý, trong bếp lửa của bác Siêu và những hạt sáng lọt qua phên nứa từ ngọn đèn của chị em Liên, con người hiện lên như những cái bóng vật vờ ko căn số, không kể cách. Ngoài cuộc sống mò cua bắt ốc ban ngày ra, tối tới họ ở đây như để mở màn 1 cuộc sống thứ 2 trong bóng tối, nhưng mà là để hướng tới ánh sáng. Tất cả cùng hy vọng 1 điều gì ấy mới mẻ, khác biệt so với cảnh đời buồn tẻ, quanh quẩn, tù đọng của cái “ao đời bằng vận” hàng ngày họ nếm trải.

Hình tượng ánh sáng ở đây được xây dựng như 1 hình tượng nghệ thuật lạ mắt, gây nhiều ám ảnh. Những hạt sáng ít oi, bé nhoi lọt thỏm giữa ko gian phố huyện chan chứa bóng tối gia tăng độ mênh mang u tối, ko khí buồn lặng của quang cảnh phố huyện vào đêm. Nỗi buồn bã của 2 đứa trẻ và những người dân phố huyện nếu lúc chớm đêm mới chỉ ở chừng độ mơ hồ thì càng về khuya nó càng rõ nét. Bầu trời đầy sao và vũ trụ rộng lớn như tương phản, đối lập gay gắt với cuộc sống tù hãm đơn điệu ở phố huyện, hé mở tâm hồn khát khao hạnh phúc của chị em Liên. Khi này nỗi buồn ko còn nhòa nhạt mơ hồ nữa nhưng mà đã sắc nét, rõ rệt hơn lúc cô nhớ về Hà Nội, 1 thứ “siêu cảm giác” bởi cô đang hồi ức về dĩ vãng, cảm thấy bằng tâm hồn về 1 thời khác với thời ngày nay Liên đang sống – “1 vùng sáng rực và nhấp nhánh”.

Ánh sáng từ đoàn tàu thì đã đến, nhưng mà ánh sáng đích thực, hạnh phúc đích thực của những con người nơi đây thì mãi vẫn còn đó trong tâm khảm nhưng mà ko biết lúc nào mới thành hiện thực. Hình tượng ánh sáng và bóng tối ở Hai đứa trẻ lúc đặt vào diễn biến nội tâm tinh tế, phức tạp của Liên trong cảm nhận độ dày của bóng tối từ chiều tới đêm khuya mới thấy rõ trị giá của nó, thấy được độ “khát thèm được chiếu sáng và được thay đổi”[7] của 2 đứa trẻ và những người dân nơi đây. Giá trị nghệ thuật và trị giá tư tưởng của tác phẩm thành ra được nâng lên 1 tầm khác hẳn khiến Hai đứa trẻ của Thạch Lam biến thành 1 trong những truyện ngắn hay, rực rỡ của văn chương Việt Nam.

Nghệ thuật sử dụng ánh sáng và bóng tối như 1 thủ pháp trong Chữ người tử tù và Hai đứa trẻ vừa có điểm giống nhau lẫn không giống nhau. Cả 2 tác giả đều sử dụng ánh sáng và bóng tối như 1 nguyên lý đối lập, 1 thủ pháp nghệ thuật trong xây dựng cảnh huống truyện. Nhưng với Nguyễn Tuân ánh sáng và bóng tối vừa đối lập, vừa bổ sung, nâng đỡ nhau, cùng lúc có sự chuyển hóa từ bóng tối ra ánh sáng. Nhân vật viên quản ngục lúc được Huấn Cao “khai tâm” đã nghẹn ngào “xin bái lĩnh”, là 1 minh chứng cho sự chuyển hóa này. Ánh sáng và bóng tối ở đây từ nghĩa thực đã chuyển thành nghĩa biểu trưng. Đều hướng đến mục tiêu ca tụng cái đẹp, nhưng mà cái đẹp trong văn Nguyễn Tuân là cái đẹp thiêng liêng, cao sang đã bất biến và có trị giá như 1 bảo bối văn hóa của dân tộc, như 1 kiểu chơi đẹp, thú uống trà, chơi chữ, 1 kiểu sống đẹp, 1 tư cách đẹp… Chính thành ra ánh sáng trong Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân là ánh sáng của chân lý, của cái đẹp trong tài ba, tư cách, nên tác phẩm cũng được chấm dứt đẹp bằng sự thắng lợi của ánh sáng với bóng tối, của thiên lương con người với cái xấu cái ác. Bóng tối ở đây vừa là cuộc sống tù hãm, quanh quẩn mỏi mòn ảm đạm – là nét giống với bóng tối trong Hai đứa trẻ – nhưng mà nó cũng vừa đại diện cho cái xấu cái ác trong cuộc sống cũng như trong thực chất con người, điểm khác với truyện ngắn Hai đứa trẻ của Thạch Lam.

Với Thạch Lam, bóng tối vừa mang nghĩa tượng trưng cho cuộc sống tù hãm, quanh quẩn nơi phố huyện vừa được sử dụng như phông nền chính nhằm làm nổi trội 3 loại ánh sáng: a] Ánh sáng nơi phố huyện – những quầng sáng giới hạn, bé nhoi, leo lắt, những hạt sáng… biểu trưng cho căn số mỏi mòn của những con người nơi đây; b] Ánh sáng đô thị – vừa là dĩ vãng, vừa là ngày mai, là miền ước mơ của 2 đứa trẻ; c] Ánh sáng con tàu – ánh sáng thức tỉnh đời sống tỉnh lẻ, như 1 cầu nối từ ngày nay [ánh sáng phố huyện] về dĩ vãng [ánh sáng đô thị], rồi hướng đến ngày mai [ánh sáng đô thị]. Từ đây ánh sáng, bóng tối ko còn mang nghĩa thực nữa nhưng mà mang nghĩa tượng trưng, tượng trưng của mong ước, của khao khát hạnh phúc và những điều tốt đẹp trong cuộc sống.

Còn với Nguyễn Tuân, cảm hứng thẩm mỹ của ông bắt nguồn từ cái đẹp bự lao, cái cao cả, bi tráng hoặc miêu tả những tư cách bự… nên thủ pháp nghệ thuật cũng xây dựng dựa trên sự đối lập gay gắt, ánh sáng và bóng tối cũng được sử dụng nhằm mô tả những tương phản mạnh bạo, những chuyển biến bất thần, đột ngột. Đấy vừa là 1 thủ pháp trong xây dựng cảnh huống truyện, vừa là sự dẫn dắt đi tới chấm dứt của sự thắng lợi giữa chân lý, cái đẹp với cái xấu, cái ác. Thạch Lam do chỉ chú tâm tới những cái tầm thường, giản dị, bé nhoi trong cuộc sống nên ánh sáng và bóng tối trong tác phẩm của ông ko có sự chuyển biến dữ dội, bất thần.

Chính từ tính quy phạm của ánh sáng và bóng tối trong hội họa, vào văn học nó đã vừa kế tục vừa phá vỡ tạo ra hiệu quả thẩm mỹ mới, góp phần đắc lực cho xây dựng cảnh huống truyện, được sử dụng như 1 cốt truyện nghệ thuật rực rỡ. So sánh 2 tác phẩm để thấy sự giống nhau và không giống nhau trong nghệ thuật sử dụng ánh sáng và bóng tối, lý giải nó từ quan niệm nghệ thuật, vốn văn hóa của tác giả để thấy tài năng của nhà văn và trị giá nghệ thuật béo bự của tác phẩm. Từ ấy có thể khắc họa rõ hơn dung mạo của tác giả, tác phẩm, xác lập 1 bí quyết tiếp cận văn bản chẳng hề chỉ từ chính nó nhưng mà bằng liên văn bản. Điều này ko nằm ngoài mục tiêu khám phá các vẻ đẹp tiềm tàng của tác phẩm văn học khiến nó luôn mới mẻ, nhấp nhánh nhiều trị giá.

Ánh sáng và bóng tối trong Hai đứa trẻ và Chữ người tử tù – Mẫu 3

1 tác phẩm hay ko chỉ cần có nội dung lôi cuốn nhưng mà còn cần tới những rực rỡ nghệ thuật nhất mực. Có thể nói rằng có những rực rỡ nghệ thuật đã mang lại thành công và sự lôi cuốn cho tác phẩm. Ngoài tình tiết lôi cuốn bất thần, cụ thể nghệ thuật mang những ý nghĩa sâu xa, những tiếng nói đậm chất vùng miền nào ấy thì còn nhiều nghệ thuật khác nữa. Trong truyện ngắn Chữ người tử tù và Hai đứa trẻ cũng vậy. Hai tác phẩm có những rực rỡ nghệ thuật không giống nhau thế nhưng mà nghệ thuật chung nhưng mà cả 2 tác phẩm cùng có ấy chính là nghệ thuật sử dụng ánh sáng và bóng tối.

Trước hết nghệ thuật ấy được trình bày rất rõ trong tác phẩm chữ người tử tù. Như chúng ta đã biết thì nghệ thuật này được sử dụng thành công trong đoạn mô tả cảnh Huấn Cao cho viên quản ngục chữ. chính nghệ thuật này đã đem đến những trị giá biểu đạt nôi dung của cảnh tượng ấy và cũng có nhẽ thế nhưng mà cảnh tượng đó được xem là cảnh tượng chưa từng có.

Trước nhất là ánh sáng trong đoạn đó. Có thể nói trong cảnh cho chữ đó ánh sáng độc nhất chỉ có 1 ngọn đuốc soi sáng căn phòng. Ánh sáng đó chẳng thể đặc sắc nhưng mà chi đủ để huấn Cao có thể nhìn rõ nhưng mà viết chữ tặng quản ngục nhưng mà thôi. Thật vậy, nhà văn Nguyễn Tuân đã mô tả thật chuẩn xác cái ánh sáng đó. 3 con người chụm lại bên tờ giấy với ngọn đuốc đủ để thắp sáng cho Huấn Cao viết chữ.

Thế nhưng mà bóng tối thì lại chi chít, nghe đâu ở đây ko chỉ có sự tương phản giữa ko gian cho chữ và ko gian nhà giam, giữa người cho chữ và người nhận chữ thái độ của họ nhưng mà còn tương phản giữa ánh sáng và bóng tối. Chúng ta chẳng thể nào quên được cái ko gian bóng tối bao trùm đó. Không gian thì toàn phân gián phân chuột ẩm ướt và gớm ghê. thế nhưng mà cái đẹp đã thăng hoa lấn lướt tất cả những điều ấy. Lấy bóng tối để làm nên cho ánh sáng đó Nguyễn Tuân nhằm nói lên sự thức tỉnh của con người khỏi những “bản nhạc xô bồ” của cuộc sống kia. Và ở đây nó chính là sự thức tỉnh của viên quản ngục.

Tiếp theo nghệ thuật ấy cũng được trình bày rất rõ trong tác phẩm 2 đứa trẻ của nhà văn Thạch Lam. Có thể nói rằng qua những mô tả của Thạch Lam chúng ta thấy được rõ nghệ thuật đó nhất là cảnh chợ tàn. Hình ảnh của phố huyện trong tác phẩm hiện lên như 1 miền quê bị lãng quê hình ảnh những cảnh chiều buông xuống gợi lên sự rơi rụng tàn tã. Không chỉ thế nhưng mà lúc nó về đêm lúc những phiên chợ ồn ã chấm dứt thì nó lại càng tàn tã hơn. Nghệ thuật lấy ánh sáng để mô tả bóng tối của Thạch Lam cực kỳ thành công trong việc biểu đạt nội dung. Nhà văn tài ở chỗ nói ánh sáng nhiều hơn nhưng mà người đọc vẫn thấy được sự chi chít của bóng. Ánh sáng được nhắc đến như là hạt sáng, khe sáng, quầng sáng, bầu trời hàng nghìn ngôi sao tị nhau nhấp nhánh, ánh sáng từ ngọn đèn Liên, hột sáng từ những ngọn đèn chị Tí thế nhưng mà nó chẳng thể nào đấu lại nhưng mà bóng tối kia trong khi Thạch Lam chỉ dành cho nó có mấy câu văn. “Tối hết cả”, tối đường từ nhà ra ngõ đều thăm thẳm đen xì, có thể thấy rằng ấy chính là lấy cái ít để nói cái nhiều.

Trong tác phẩm này còn sử dụng nghệ thuật mô tả bóng tối, ánh sáng ở đoạn cuối lúc tàu đêm tới. Đấy là ánh sáng của đoàn tàu với những tia lửa như chớp, rồi ánh sáng rực trên những khoa hạng sang nhất lố nhố những người. Thế rồi lúc ánh sáng đó qua đi chỉ còn nhận ra đốm lửa hồng thì phố huyện lại chan chứa trong bóng tối.

Có thể nói chính nghệ thuật đó là vẻ ngoài cao hóa biểu lộ nội dung của tác phẩm. Cả 2 tác phẩm trên đều dùng ánh sáng và bóng tối để nói lên ý nghĩa của nội dung ấy. Giả dụ cảnh cho chữ diễn ra trong những ánh sáng bóng tối đó nhằm nói lên sự thăng hoa của cái đẹp và sự gần cận nhau của con người thì 2 đứa trẻ sử dụng nghệ thuật đó để nói lên sự u tối của cuộc sống nơi phố huyện. hay ấy chính là sự đói nghèo lam lũ cực khổ, sự cầm cự sống của những con người nơi đây.

Tuy nhiên 2 nhà văn, 2 cách sử dụng nghệ thuật không giống nhau nhằm mục tiêu để nói lên những ý tưởng của mình.

Trước hết là Nguyễn Tuân thì ở đây ông đã nhắc đến bóng tối nhiều hơn để cho thấy được sự rạng ngời của ngọn đuốc kia dẫu cho nó chỉ là 1 nguồn ánh sáng. Bóng tối kia dù chi chít nhưng mà lại chẳng thể nào che giấu được ánh sáng kia. Cùng lúc mô tả như thế nhà văn muốn gửi tới ý nghĩa của cảnh tượng đó là cái đẹp thăng hoa dù trong bất kỳ tình cảnh nào cũng như con người xóa bỏ mọi ranh giới tối tăm để xích lại gần nhau hơn.

Còn Thạch Lam thì lại khác. Ông mô tả ánh sáng nhiều hơn là bóng tối, nào khe sáng, hột sáng…bóng tối chỉ được diễn đạt trong 1 2 câu văn.

Thế nhưng mà chúng ta lại thấy được ý đồ nghệ thuật của nhà văn ấy chính là làm nổi trội bóng tối để cho thấy sự u tối nghèo đói của những con người nơi đây.

Qua đây ta khẳng định được 1 điều tác phẩm văn chương hay thì thường có những nghệ thuật rực rỡ. Hai đứa trẻ và Chữ người tử tù chính vì vậy nhưng mà rất xứng đáng là 1 tác phẩm hay. Cùng lúc 2 nhà văn ấy xứng đáng là 1 nhà văn giỏi.

Ánh sáng và bóng tối trong Hai đứa trẻ và Chữ người tử tù – Mẫu 4

Khi nhắc đến Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân người ta ắt hẳn chẳng thể quên được hình tượng của Huấn Cao và hình ảnh cho chữ của ông trong lao tù tăm tối. Hình ảnh đó như hiện lên làm sáng cả 1 vùng và cùng lúc nổi trội lên những ý nghĩa nhân bản thâm thúy.

Tác phẩm đó đã đi vào sự chú tâm của bạn đọc và cả những nhà phê bình văn chương. Có thể nói những gì nhưng mà tác phẩm đem đến ko chỉ ngừng lại ở tình tiết hay cảnh huống nhưng mà chính là rực rỡ nghệ thuật nhưng mà chẳng hề người nào cũng làm được và chạm đến được.

Đúng như những nhà phê bình văn chương đã cho thấy nội dung lôi cuốn chẳng thể kéo người đọc nhớ và ghi nhận những đóng góp của tác phẩm ấy nhưng mà phải kể đến những nét nghệ thuật rực rỡ. Và 1 trong những nghệ thuật nổi trội lên ấy chính là cách nhưng mà Nguyễn Tuân sử dụng mảng sáng tối trong tác phẩm của mình. Hay nói cách khác ấy chính là cách sử dụng ánh sáng và bóng tối ở trong tác phẩm văn chương của ông. Nó mang đến cho người đọc những cái nhìn mới lại và những cái rực rỡ cho tác phẩm về triết lí nhân bản.

1 tác phẩm hay ko chỉ cần có nội dung lôi cuốn nhưng mà còn cần tới những rực rỡ nghệ thuật nhất mực. Có thể nói rằng có những rực rỡ nghệ thuật đã mang lại thành công và sự lôi cuốn cho tác phẩm. Ngoài tình tiết lôi cuốn bất thần, cụ thể nghệ thuật mang những ý nghĩa sâu xa, những tiếng nói đậm chất vùng miền nào ấy thì còn nhiều nghệ thuật khác nữa.

Có thể nói Nguyễn Tuân và Thạch Lam là 2 nhà văn đa tài của nền văn chương Việt Nam. Chưa nói đến nội dung và tình tiết của những tác phẩm, Thạch Lam và Nguyễn Tuân luôn để lại dấu ấn cho người đọc người nghe phê duyệt những nghệ thuật rực rỡ trong ấy có nghệ thuật sử dụng ánh sáng và bóng tối trong tác phẩm Hai đứa trẻ và Chữ người tử tù.

Trong Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân thì thứ ánh sáng trước hết hiện lên trong căn phòng lao tù là ánh sáng của ngọn đuốc. Thứ ánh sáng hiếm hoi đó lại có thể chiếu sáng cho con người Huấn Cao cho chữ cho viên quản ngục và chỉ có 1 ngọn đuốc độc nhất để chiếu sáng gian phòng đó.

Nguyễn Tuân đã chọn cách lấy ánh sáng để làm lấn lướt đi ko gian vốn dĩ ẩm ướt tối tăm của lao tù. Để át đi ko gian tối tăm đầy phân chuột đó nhưng mà hình ảnh cho chữ lại được nổi trội lên với những đường nét vừa giản dị lại vô cùng thiêng liêng. Nguyễn Tuân như muốn thứ ánh sáng đó chính là cái cớ để muốn con người bật ra khỏi “bản nhạc xô bồ” của cuộc sống kia.

Ánh sáng đó cũng tạo điều kiện để tháo nút cho những mảng sáng tối trong con người của viên quản ngục. Hình ảnh và nghệ thuật ánh sáng và bóng tối của Nguyễn Tuân cũng phần nào góp phần vào sự thành công vào công cuộc lây chuyên và thức tỉnh thiên lương trắng trong của Huấn Cao dành cho viên quản ngục. Qua đây ta cũng thấy được ko chỉ có ánh sáng của bó đuốc là hiện hữu nhưng mà còn là thứ ánh sáng của tâm hồn của thiên lương luôn soi tận những tấm lòng của thiên hạ.

Còn đối với Hai đứa trẻ của Thạch Lam, ông như thổi 1 làn gió mới cho người cảm thụ văn học. Trong tác phẩm nghệ thuật sử dụng ánh sáng bóng tối cũng được ông sử dụng 1 cách triệt để.

Chúng ta có thể thấy được ánh sáng và bóng tối có sự vận động từ khi hình ảnh phiên chợ tàn ở chốn phố huyện trong khi có tàu chạy qua. Phiên chợ tàn cũng khi là những hình ảnh mờ nhòe và đáng thương biết bao lăm. Xuất hiện qua ấy là hình ảnh lúc lũ trẻ nhà nghèo lượm lặt những thứ còn sót lại trên chợ và ko gian mở màn chuyển tối

Ánh sáng trong tác phẩm như được chắp nhặt từng chút 1 chút 1 để hình thành nguồn sáng cho người dân phố huyện: hạt sáng, khe sáng, quầng sáng, bầu trời hàng nghìn ngôi sao tị nhau nhấp nhánh Kế bên ấy ánh sáng ấy còn được gom nhặt từ ánh sáng từ ngọn đèn Liên ngọn đèn chị Tí. Kế bên ấy 1 thứ ánh sáng mới lạ ấy chính là ánh sáng của đoàn tàu nhưng mà mọi người đều mong đợi để nhận ra thứ ánh sáng đó ánh sáng của 1 vùng xa xăm trên khắp mọi miền quốc gia.

Hai tác giả phê duyệt nghệ thuật sử dụng ánh sáng bóng tối tác giả khắc họa cảnh sống ở chốn phố huyện cũng như hình ảnh u tối nhưng mà bừng sáng ở trong ko gian của ngục lao. Tuy nhiên khác với Thạch Lam, Nguyễn Tuân cũng là người sử dụng nghệ thuật ánh sáng bóng tối thành công đặc thù ở đoạn trích Chữ người tử tù hình ảnh bóng tối dù chi chít hơn nhưng mà cũng chẳng thể lấn lướt đi ánh sáng của ngọn đuốc của thiên lương và những tâm hồn cao cả. Còn mặc dầu đã sử dụng nhiều hình ảnh ánh sáng trong tác phẩm nhưng mà người ta vẫn mường tưởng ra 1 phố huyện với cảnh nghèo khó trong Hai đứa trẻ của Thạch Lam

Cả 2 tác phẩm 2 tác giả không giống nhau sử dụng nghệ thuật ánh sáng bóng tối đem đến cho người đọc những liên tưởng và ý nghĩa không giống nhau. Mỗi tác phẩm mang đến cho người đọc những ý nghĩa biệt lập không những thế cũng chẳng thể phủ nhận chính nghệ thuật này góp phần vào sự thành công của 2 thiên truyện.

Ánh sáng và bóng tối trong Hai đứa trẻ và Chữ người tử tù – Mẫu 5

Thạch Lam là 1 nhà văn có lối viết văn đặc thù, viết truyện ko cần tình tiết, nhưng mà nhà văn lại có hứng thú khai thác và tìm tòi những cái đẹp ẩn mình từ những ngách ngóc của vũ trụ rộng lớn, đặc thù là vẻ đẹp tâm hồn của những con người nghèo nàn, cuộc sống u tối nhưng mà sâu trong ấy là những khao khát chờ đợi về 1 ngày mai tốt đẹp và tươi sáng ko bao giờ bị vùi dập dẫu cuộc đời đầy gian nan. Còn với Nguyễn Tuân 1 nhà văn gắn liền với 2 từ thông thái và tài ba, các sáng tác trước cách mệnh đều quay quanh 3 chủ đề với chủ nghĩa “di dịch”, vẻ đẹp “vang bóng 1 thời” và “lối sống trụy lạc”, trong ấy vẻ đẹp “vang bóng 1 thời” của nhà văn có nhẽ là gây được nhiều tên tuổi nhất. Cả Thạch Lam và Nguyễn Tuân trong văn học của mình đều thích thú việc sử dụng nghệ thuật ánh sáng và bóng tối để làm nổi trội lên chủ đề của tác phẩm, điều ấy trình bày rất rõ trong Hai đứa trẻ và Chữ người tử tù, thế nhưng mà với mỗi ngòi bút không giống nhau thì cách áp dụng loại nghệ thuật này lại cũng có những điểm rực rỡ biệt lập, in đậm dấu ấn của người sáng tác.

Trong tác phẩm Hai đứa trẻ, ánh sáng và bóng tối được tác giả mô tả 1 cách tinh tế, lãng mạn thế nhưng mà lại mang những màu sắc u buồn, trầm lắng trình bày cuộc sống nghèo khó nơi phố huyện. Ánh sáng trong tác phẩm được trình bày qua nhiều dạng thức và nhiều nguồn, với cường độ không giống nhau, nếu như ánh hoàng hôn đỏ rực, thi vị, đặc sắc thế nhưng mà lại ko mang lại sắc thái tươi vui, nhộn nhịp vốn có của màu đỏ, nhưng mà ánh nắng đó cũng là báo hiệu cho 1 buổi chiều tàn lụi, gợi cảm xúc buồn bực. Những nguồn sáng leo lắt bé bỏng khởi hành từ ngọn đèn dầu của chị Tí, từ bếp lửa bập bùng rạng ngời 1 vùng mờ mờ của bác Siêu, hay là những hột sáng, tia sáng lọt ra từ những khe cửa của những căn nhà trên phố huyện cũng đều là thứ ánh sáng mang lại sự yếu đuối, u ám của khu phố huyện. Thứ ánh sáng lù mù, lẻ tẻ đó ko chỉ biểu lộ quang cảnh buồn bực u ám nơi phố huyện nghèo, nhưng mà còn là tượng trưng cho những kiếp người tàn, đang sống lắt lay từng ngày như chị Tí, bác Siêu, vợ chồng bác Xẩm, chị em Liên, bà cụ Thi điên, những đứa trẻ khổ thân ven chợ,… Trái ngược với thứ ánh sáng lù mù từ phố huyện thì ánh sáng nhưng mà chuyến tàu đêm từ Hà Nội về lại mang những sắc thái khác hẳn, các “toa đèn sáng trưng, chiếu cả xuống đường… đồng và kền nhấp nhánh, và các cửa kính sáng”, trình bày sự giàu sang, khá giả, đưa ký ức của Liên về 1 thời tuổi thơ bóng gió nhưng mà chị đã từng có, ko chỉ vậy nó còn là tượng trưng cho sự chờ đợi, khao khát mãnh liệt, tiềm ẩn về 1 cuộc đời tươi sáng hơn của người dân phố huyện, với mong ước đổi đời, nhưng mà chỉ có điều họ vẫn chưa tìm ra cho mình được 1 trục đường sáng.

Khác với ánh sáng nơi phố huyện, thì bóng tối ở nơi đây lại chiếm điểm cộng hơn cả, Thạch Lam đã rất tinh tế và tài ba lúc diễn đạt dáng hình vật lý của bóng tối phê duyệt các hình ảnh rực rỡ, từ chuyện bóng tối lan dần trong mắt Liên, tới hình ảnh “dãy tre làng trước mặt đen lại và cắt hình rõ rệt trên nền trời”, rồi cảnh bóng tối đen đặc tới tột cộng với hình ảnh “đường phố và các ngõ con chứa đầy bóng tối”, “tối hết cả, trục đường thăm thẳm ra sông, trục đường qua chợ về nhà, các ngõ vào làng lại càng sẫm đen hơn nữa”. Tất cả đều trình bày sự tĩnh mịch, buồn bực và tĩnh lặng của phố huyện nghèo lúc trời đêm sập xuống. Không chỉ vậy sự hiện ra của những thứ ánh sáng yếu đuối, ko đủ soi sáng màn đêm, nhưng mà nghe đâu bị màn đêm xơi tái đã nói đến ở trên lại càng khiến cho màn đêm càng phát triển thành tối tăm và u ám. Như vậy tổng kết lại sự hiện ra của những thứ ánh sáng yếu đuối, leo lắt thành từng chòm, từng hột, từng vệt,… giữa ban đêm mịt mùng nơi phố huyện là 1 sự tương phản thâm thúy, tượng trưng cho những kiếp người tàn, lầm lũi, bé nhỏ nơi phố huyện, tượng trưng cho cuộc sống chán nản, nghèo nàn, và tuyệt vọng, ngột ngạt của những con người nơi đây. Nó vẫn cứ mãi u tối và u ám, dẫu rằng bản thân họ cũng có những niềm chờ đợi khao khát mãnh liệt như ánh đèn của chuyến tàu từ Hà Nội về, chỉ có điều dẫu mạnh bạo nhưng mà nó lại quá ngắn ngủi, nhưng mà lúc qua rồi thì bóng đêm nơi phố huyện lại càng trầm tĩnh và u buồn hơn tất thảy. Niềm ước mơ chờ đợi đó, vẫn chưa tìm được biện pháp để tiến hành và có nguy cơ bị bóng đêm, cũng như cuộc sống tuyệt vọng, buồn bã nơi đây bóp nghẹt.

Trong Chữ người tử tù, ánh sáng hiện lên trên bình diện vật lý với những hình ảnh khá ấn tượng, tiêu biểu là hình ảnh “ánh sáng đỏ rực của 1 bó đuốc”, “lửa đóm cháy rừng rực”, ngọn đèn nến trên án của viên quản ngục, rồi thì ánh sáng lấp láy của những vì tinh tú, của ngôi sao Hôm,… Tất cả những thứ ánh sáng đó đều biểu trưng cho vẻ đẹp nghệ thuật cao quý và tâm hồn trắng trong, thiện lương của con người, chúng còn đó ngay cả trong những tình cảnh u tối bẩn thỉu nhất, chiếu sáng tâm hồn của những con người có thiên lương là thứ ánh sáng trường tồn bất tử và cực kỳ mãnh liệt. Trái lại với ánh sáng thì bóng tối trong truyện ngắn được mô tả bằng những cụ thể khá rực rỡ từ cảnh “trại giam tối mịt”, “trời tối mò” hiu quạnh bao phủ lên người viên quản ngục trong đêm ông thu được lệnh giam Huấn Cao, rồi cái u tối còn xuất hiện trong cảnh Huấn Cao cho chữ trong buồng giam chật hẹp ẩm ướt, đầy phân gián, phân chuột lộn xộn. Bóng tối này ko chỉ mang ý nghĩa tả chân cảnh tù tội trong ngục thất của Huấn Cao nhưng mà suy rộng ra hơn nữa nó chính là tượng trưng cho sự bức bối, ngột ngạt, u tối của xã hội đương thời, cũng như của cái môi trường nhưng mà viên quản ngục đang làm việc và sinh sống. Liên kết giữa sự tương quan của ánh sáng và bóng tối, với sự cạnh tranh gay gắt, bản thân chúng đã làm nổi trội lẫn nhau ko chỉ về thực chất vật lý, nhưng mà quan trọng hơn là về ý nghĩa tượng trưng. Ánh sáng và màu trắng bốp khôi của tấm lụa nổi trội trên cái nền bất minh, chật hẹp của ngục thất và trái lại, từ ấy suy ra mối tương quan rằng trong tình cảnh u tối, dơ dáy và gian ác thì thiên lương, tâm hồn biệt nhưỡng liên tài của viên quản ngục, cũng như vẻ đẹp tâm hồn cao quý, cộng với nghệ thuật thanh cao được đẩy lên 1 cách rõ rệt, gây ấn tượng thâm thúy với người đọc.

Xét về điểm đồng nhất trong văn pháp nghệ thuật ánh sáng – bóng tối ở 2 nhà văn Thạch Lam và Nguyễn Tuân ta có thể nhìn thấy rằng cả 2 tác giả đều sử dụng các cụ thể ánh sáng và bóng tối 1 cách chi chít trên tác phẩm của mình. Về ý nghĩa tượng trưng thì ánh sáng biểu trưng cho vẻ đẹp trong tâm hồn con người, sự thanh cao tinh khiết, niềm chờ đợi tốt đẹp, còn bóng tối lại biểu trưng cho sự tuyệt vọng, khốn khổ chật hẹp và cái xấu xa bị động trong xã hội. Thêm 1 điểm nữa là ở cả 2 tác phẩm ánh sáng và bóng tối đều được xây dựng ở thế giao đấu kịch liệt và gay gắt, với nghệ thuật tương phản đối lập rõ ràng.

Về điểm dị biệt, thì trong Hai đứa trẻ cách sử dụng nghệ thuật sáng tối của Thạch Lam thiên về thiên hướng mềm mại, lãng mạn trữ tình, phảng phất sự u buồn, tịch liêu, ngược lại trong Chữ người tử tù thì ánh sáng và bóng tối được khắc họa tạo hình sắc nét, chân thực và mạnh bạo. Thêm nữa so với Chữ người tử tù thì ánh sáng ở Hai đứa trẻ được tác giả dựng lên 1 cách yếu đuối, lẻ tẻ, nhạt nhòa nghe đâu bị màn đêm xơi tái, phản ảnh đúng với cuộc sống của con người nơi phố huyện, tuyệt vọng và u tối cực kỳ. Trái lại trong Chữ người tử tù ánh sáng và bóng tối được tác giả mô tả ở thế cạnh tranh ngang bằng, kịch liệt, trong ấy có vẻ ánh sáng được mô tả 1 cách nổi trội, áp đảo bóng tối của sự xấu xa, ác nghiệt. Từ ấy suy ra thông điệp Thạch Lam muốn gửi gắm là sự vươn lên, vẻ đẹp nhựa sống tiềm ẩn, niềm khao khát chờ đợi tốt đẹp của những kiếp người bé nhỏ trong cuộc sống còn nhiều u tối, u ám. Còn Nguyễn Tuân lại muốn phê duyệt cụ thể ánh sáng và bóng tối khẳng định chân lý vẻ đẹp thiên lương và tâm hồn thanh cao sẽ luôn thắng và rạng ngời đặc sắc, gắn kết tâm hồn con người lại với nhau dù cho có ở điều kiện hà khắc, u tối và dơ dáy tới thế nào.

Như vậy có thể thấy rằng tuy cùng có chung 1 cụ thể nghệ thuật về ánh sáng và bóng tối trong tác phẩm của mình, thế nhưng mà ngoài những điểm đồng nhất chung nhất, thì bản thân mỗi tác giả lại có cách trình bày không giống nhau từ trị giá hình ảnh tới trị giá tượng trưng. Điều ấy đã khẳng định được cá tính nghệ thuật cũng như tài năng của mỗi nhà văn trong sự nghiệp sáng tác, sự phấn đấu thông minh của họ đã mang đến cho bạn đọc những tác phẩm hoàn hảo với những tầng ý nghĩa không giống nhau, góp phần là phong phú văn đàn Việt Nam đương đại.

.

Văn mẫu lớp 12: Nghệ thuật mô tả ánh sáng và bóng tối trong Hai đứa trẻ và Chữ người tử tù

[rule_3_plain]

Văn mẫu lớp 12: Nghệ thuật mô tả ánh sáng và bóng tối trong Hai đứa trẻ và Chữ người tử tù là tài liệu có ích, gồm 2 dàn ý cụ thể kèm theo 5 bài văn mẫu hay nhất. Qua ấy giúp các bạn lớp 12 có thêm nhiều tư liệu tham khảo, củng cố tri thức biết cách cảm nhận hay về ánh sáng và bóng tối. Cả 2 tác phẩm 2 tác giả không giống nhau sử dụng nghệ thuật ánh sáng bóng tối đem đến cho người đọc những liên tưởng và ý nghĩa không giống nhau. Mỗi tác phẩm mang đến cho người đọc những ý nghĩa biệt lập không những thế cũng chẳng thể phủ nhận chính nghệ thuật này góp phần vào sự thành công của 2 thiên truyện. Vậy sau đây là 5 bài văn mẫu hay nhất, mời các bạn cùng theo dõi và tải tại đây. Dàn ý Ánh sáng và bóng tối trong Hai đứa trẻ và Chữ người tử tù Dàn ý số 1 I. Mở bài : Giới thiệu nói chung về 2 tác giả Thạch Lam, Nguyễn Tuân và 2 bài truyện ngắn Hai đứa trẻ, Chữ người tử tù; 2 cụ thể được đề nghị cảm nhận. II. Thân Bài Cảm nhận về 2 cụ thể nghệ thuật a. Ánh sáng và bóng tối trong Hai đứa trẻ. – Dạng thức của ánh sáng, bóng tối + Ánh sáng: vừa mang ý nghĩa vật lý [những nguồn sáng hiện ra trong tác phẩm như: Phương tây đỏ rực, ngọn đèn chị Tí, bếp lửa của bác Siêu, chuyến tàu…] vừa mang ý nghĩa tượng trưng cho mong ước, khát vọng + Bóng tối: vừa mang ý nghĩa vật lý [dãy tre làng đen lại, bóng tối mờ mịt chi chít trong đêm…] – Tương quan ánh sáng, bóng tối: còn đó trong thế giao đấu từ đầu tới cuối tác phẩm trong ấy bóng tối càng khi càng chiếm điểm cộng để rồi thắng thế còn ánh sáng thì bé nhỏ, khổ thân. Về ý nghĩa thực nó cho thấy bức tranh phố huyện nghèo khó, tối tăm. Về ý nghĩa tượng trưng nó cho thấy những con người bé nhỏ như chị em Liên mang trong mình mong ước, khát vọng mãnh liệt vào 1 ngày mai tươi sáng nhưng mà mong ước đã tranh chấp gay gắt và có nguy cơ bị bóp nghẹt bởi hiện thực tối tăm. b. Ánh sáng và bóng tối trong Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân – Dạng thức của ánh sáng, bóng tối: + Ánh sáng: vừa có dạng thức vật lý [ ngọn đèn của Quản ngục, ánh sáng của tại sao Hôm , ngọn đuốc tẩm dầu..] vừa mang tính tượng trưng cho vẻ đẹp của nghệ thuật cao quý và thiên lương trắng trong tốt đẹp của con người. + Bóng tối: Vừa có dạng thức vật lý [Bóng tối bao trùm trong đêm quản ngục ngồi nghĩ suy cùng cái chật hẹp, u tối, dơ dáy của buồng giam..] vừa mang tính tượng trưng cho hiện thực bất minh, ngột ngạt, bạo tàn của nhà ngục nói riêng và xã hội khái quát – Tương quan ánh sáng, bóng tối và ý nghĩa: Có sự giao đấu gay gắt nhưng mà ánh sáng đã nổi trội trên nền cái tối tăm, dơ dáy [ như ánh sáng của bó đuốc và màu trắng của tấm lụa nổi trội trên nền của nhà tù dơ dáy, chật chội; như vẻ đẹp trong thiên lương của Huấn Cao và Quản ngục đã nổi trội trên nền hiện thực hà khắc] So sánh: – Điểm đồng nhất: + Cả ánh sáng và bóng tối trong 2 tác phẩm đều hiện ra với 1 tần số bự + Ánh sáng đều tượng trưng cho những điều tốt đẹp còn bóng tối tượng trưng cho hiện thực bất minh, nghiệt ngã. + Ánh sáng và bóng tối ở cả 2 tác phẩm đều còn đó trong thế giao đấu với nhau 1 cách gay gắt + Đều được xây dựng bằng văn pháp tương phản đối lập đặc thù của chủ nghĩa lãng mạn. – Điểm dị biệt: + Trong Hai đứa trẻ, ánh sáng bé nhỏ, yếu đuối còn bóng tối bao trùm, chiếm điểm cộng còn trong Chữ người tử tù ánh sáng lại nổi trội đặc sắc trên nền bóng tối. + Thông điệp nhưng mà Thạch Lam muốn gửi gắm là hãy chỉnh sửa hiện thực để con người có thể sống toàn vẹn với mong ước hi vọng của mình còn của Nguyễn Tuân lại là cái đẹp có 1 sức mạnh thần kì, nó có thể nối tiếp mọi khoảng cách, có thể thanh lọc tâm hồn cho con người + Về Nghệ thuật: Thạch Lam mô tả ánh sáng, bóng tối bằng thứ tiếng nói giàu chất thơ, giàu giai điệu hình ảnh còn Nguyễn Tuân sử dụng tiếng nói khía cạnh, giàu tính tạo hình – Lí giải điểm đồng nhất dị biệt: + Có những điểm đồng nhất là do cả Nguyễn Tuân và Thạch Lam đều là những nhà văn lãng mạn, cùng sống trong hiện thực tối tăm trước 1945 + Có điểm dị biệt là do đề nghị buộc phải của văn chương [ko cho phép sự lặp lại] và do cá tính riêng của mỗi nhà văn III. Kết bài: – Khẳng định đây đều là 2 cụ thể nghệ thuật rực rỡ trình bày rõ cá tính của 2 nhà văn Dàn ý số 2 1. Mở bài – Sơ lược về cá tính sáng tác của 2 nhà văn, đi vào chủ đề chính. 2. Thân bài a. Hai đứa trẻ: Ánh sáng: – Phố huyện: Ánh hoàng hôn đỏ rực, những nguồn sáng leo lắt bé bỏng khởi hành từ ngọn đèn dầu của chị Tí, từ bếp lửa bập bùng rạng ngời 1 vùng mờ mờ của bác Siêu, hay là những hột sáng, tia sáng lọt ra từ những khe cửa của những căn nhà trên phố huyện => Mang đến sự yếu đuối, u ám của khu phố huyện, biểu lộ quang cảnh buồn bực u ám nơi phố huyện nghèo, nhưng mà còn là tượng trưng cho những kiếp người tàn, đang sống lắt lay từng ngày. – Đoàn tàu đêm: “toa đèn sáng trưng, chiếu cả xuống đường… đồng và kền nhấp nhánh, và các cửa kính sáng”, trình bày sự giàu sang, khá giả, đưa ký ức của Liên về 1 thời tuổi thơ bóng gió nhưng mà chị đã từng có, ko chỉ vậy nó còn là tượng trưng cho sự chờ đợi, khao khát mãnh liệt, tiềm ẩn về 1 cuộc đời tươi sáng hơn của người dân phố huyện, với mong ước đổi đời. Bóng tối: – Bóng tối lan dần trong mắt Liên, tới hình ảnh “dãy tre làng trước mặt đen lại và cắt hình rõ rệt trên nền trời”, rồi cảnh bóng tối đen đặc tới tột cộng với hình ảnh “đường phố và các ngõ con chứa đầy bóng tối”, “tối hết cả, trục đường thăm thẳm ra sông, trục đường qua chợ về nhà, các ngõ vào làng lại càng sẫm đen hơn nữa”. => Tất cả đều trình bày sự tĩnh mịch, buồn bực và tĩnh lặng của phố huyện nghèo lúc trời đêm sập xuống. *Tiểu kết: Sự hiện ra của những thứ ánh sáng yếu đuối, leo lắt thành từng chòm, từng hột, từng vệt,… giữa ban đêm mịt mùng nơi phố huyện là 1 sự tương phản thâm thúy, tượng trưng cho những kiếp người tàn, lầm lũi, bé nhỏ nơi phố huyện, tượng trưng cho cuộc sống chán nản, nghèo nàn, và tuyệt vọng, ngột ngạt của những con người nơi đây. b. Chữ người tử tù: *Ánh sáng: – “ánh sáng đỏ rực của 1 bó đuốc”, “lửa đóm cháy rừng rực”, ngọn đèn nến trên án của viên quản ngục, rồi thì ánh sáng lấp láy của những vì tinh tú, của ngôi sao Hôm,… => Biểu tượng cho vẻ đẹp nghệ thuật cao quý và tâm hồn trắng trong, thiện lương của con người, chúng còn đó ngay cả trong những tình cảnh u tối bẩn thỉu nhất, chiếu sáng tâm hồn của những con người có thiên lương là thứ ánh sáng trường tồn bất tử và cực kỳ mãnh liệt. *Bóng tối: – cảnh “trại giam tối mịt”, “trời tối mò” hiu quạnh bao phủ lên người viên quản ngục trong đêm ông thu được lệnh giam Huấn Cao, cảnh Huấn Cao cho chữ trong buồng giam chật hẹp ẩm ướt, đầy phân gián, phân chuột lộn xộn. => Mang ý nghĩa tả chân cảnh tù tội trong ngục thất của Huấn Cao nhưng mà suy rộng ra hơn nữa nó chính là tượng trưng cho sự bức bối, ngột ngạt, u tối của xã hội đương thời, cũng như của cái môi trường nhưng mà viên quản ngục đang làm việc và sinh sống. * Tiểu kết: – Ánh sáng và màu trắng bốp khôi của tấm lụa nổi trội trên cái nền bất minh, chật hẹp của ngục thất và trái lại, từ ấy suy ra mối tương quan rằng trong tình cảnh u tối, dơ dáy và gian ác thì thiên lương, tâm hồn biệt nhưỡng liên tài của viên quản ngục, cũng như vẻ đẹp tâm hồn cao quý, cộng với nghệ thuật thanh cao được đẩy lên 1 cách rõ rệt, gây ấn tượng thâm thúy với người đọc. c. Giống và khác:

*Giống:

Sử dụng các cụ thể ánh sáng và bóng tối 1 cách chi chít trên tác phẩm của mình. Ánh sáng biểu trưng cho vẻ đẹp trong tâm hồn con người, sự thanh cao tinh khiết, niềm chờ đợi tốt đẹp, còn bóng tối lại biểu trưng cho sự tuyệt vọng, khốn khổ chật hẹp và cái xấu xa bị động trong xã hội.

Ánh sáng và bóng tối đều được xây dựng ở thế giao đấu kịch liệt và gay gắt, với nghệ thuật tương phản đối lập rõ ràng.

*Khác:

Hai đứa trẻ cách sử dụng nghệ thuật sáng tối của Thạch Lam thiên về thiên hướng mềm mại, lãng mạn trữ tình, phảng phất sự u buồn, tịch liêu, ngược lại trong Chữ người tử tù thì ánh sáng và bóng tối được khắc họa tạo hình sắc nét, chân thực và mạnh bạo.
Ánh sáng ở Hai đứa trẻ được tác giả dựng lên 1 cách yếu đuối, lẻ tẻ, nhạt nhòa nghe đâu bị màn đêm xơi tái. Chữ người tử tù ánh sáng và bóng tối được tác giả mô tả ở thế cạnh tranh ngang bằng, kịch liệt, trong ấy có vẻ ánh sáng được mô tả 1 cách nổi trội, áp đảo bóng tối.

=> Từ ấy suy ra thông điệp Thạch Lam muốn gửi gắm là sự vươn lên, vẻ đẹp nhựa sống tiềm ẩn, niềm khao khát chờ đợi tốt đẹp của những kiếp người bé nhỏ trong cuộc sống còn nhiều u tối, u ám. Còn Nguyễn Tuân khẳng định chân lý vẻ đẹp thiên lương và tâm hồn thanh cao sẽ luôn thắng và rạng ngời đặc sắc, gắn kết tâm hồn con người lại với nhau dù cho có ở điều kiện hà khắc, u tối và dơ dáy tới thế nào. 3. Kết bài – Nêu cảm nhận. Ánh sáng và bóng tối trong Hai đứa trẻ và Chữ người tử tù – Mẫu 1 Nhắc tới văn chương Việt Nam công đoạn 1930 – 1945, người ta nghĩ ngay tới những sự chỉnh sửa mạnh bạo trên phương diện thơ. Nhưng kế bên thơ, văn xuôi trong công đoạn này cũng đạt được những thành quả đáng ghi nhận. Kế bên những phấn đấu đổi mới của Tự lực văn đoàn, người đọc còn nhớ tới 1 giọng văn tài ba thông thái của Nguyễn Tuân hay 1 chất giọng tự sự giàu cảm xúc của Thạch Lam. Sự hiện ra của Nguyễn Tuân cũng như Thạch Lam trên văn đàn Việt Nam đã mang lại những dấu ấn biệt lập ko phai nhòa theo 5 tháng. Tác phẩm mang đậm dấu ấn của Nguyễn Tuân phải đề cập là Chữ người tử tù. Và tác phẩm Hai đứa trẻ đã ghi nhận cá tính rất sâu đậm của Thạch Lam. Qua việc khắc họa ánh sáng và bóng tối, cả 2 nhà văn đã nhắn gửi người đọc bao điều. Khi phân tách ánh sáng và bóng tối trong chữ người tử tù, ta thấy tác phẩm này thuở đầu có tên là Dòng chữ chung cuộc in 5 1938 trên báo chí Tao Đàn. Câu chuyện mở màn bằng cuộc gặp mặt ngang trái giữa Huấn Cao và viên quản ngục. Trong tác phẩm đó, người đọc ko chỉ bị lôi cuốn bởi tài năng và thiên lương của Huấn Cao và viên quản ngục nhưng mà còn bị ấn tượng bởi ánh sáng và bóng tối. Hai đứa trẻ được trích trong tập truyện Nắng trong vườn [1938]. Tác phẩm kể về người dân nơi phố huyện nghèo với cuộc sống u tối gian nan giao thương trên ga xép, nổi trội là 2 chị em An và Liên. Hai đứa trẻ giã biệt cuộc sống Hà Nội để chuyển tới 1 ga xép nghèo. Mẹ nghèo làm hàng xáo còn 2 chị em thì giao thương tạp hóa bé trong gian hàng thuê của người khác. Như mọi ngày, 2 đứa trẻ trong tác phẩm vẫn lặp đi lặp lại vòng tròn đơn điệu của cuộc sống giao thương vụn vặt. Niềm xoa dịu độc nhất của chúng chính là được nhận ra chuyến tàu đêm. Với 2 tác phẩm này, ánh sáng và bóng tối trong Chữ người tử tù và Hai đứa trẻ hiện lên với những nét rất biệt lập. Ánh sáng và bóng tối trong chữ người tử tù trước nhất tới từ quang cảnh tự nhiên cũng như quang cảnh tù túng nơi làm việc của viên quản ngục. Trước nhất chính là thời kì nghệ thuật của tình tiết. Viên quản ngục xuất hiện chỉ cần khoảng ban đêm độc thân “Trên 4 chòi canh, nhục tốt cũng mở màn điểm vào cái hiu quạnh của trời tối mò”. Đấy là 1 thời kì nghệ thuật lạ mắt thường được các nhà văn thi sĩ áp dụng làm cơ sở để phục vụ cảnh huống. Ban đêm đó chính là khi con người sống thật với lòng mình, gạt bỏ những ngổn ngang của công tác, cuộc sống thường ngày. Đối diện với ban đêm cũng là khi con người đối diện với chính mình, với sự độc thân. Chính thành ra, con người dễ ợt thổ lộ nỗi lòng. Và thời kì đó cũng khiến ko gian phát triển thành bao la hơn. “Những tiếng kiểng và mõ đều đặn loáng thoáng” vang lên. Ánh sáng và bóng tối trong chữ người tử tù còn trình bày ở âm thanh của ko khí mờ mịt, ảm đạm nhưng mà càng khiến lòng người lẻ loi. Giữa ko gian thời kì đó, cuộc hội thoại rời rạc, e ấp và có phần nghi nhại của thầy thư lại và viên quản ngục như tô đậm thêm ko gian tù túng nơi đây. Viên quản ngục hiện lên với những nét phác họa trong 1 quang cảnh le lói ánh sáng của cây đèn dầu. “Nơi góc chiếc án thư cũ đã nhợt màu vàng son, 1 cây đèn đế leo lắt rọi vào 1 gương mặt nghĩ ngợi”. Đấy là gương mặt trầm mặc nghĩ suy của viên quản ngục. Khuôn mặt đó cũng như nỗi lòng của viên quản ngục bấy giờ. Ông đang băn khoăn vì 1 lẽ – nhà giam này sắp đón 1 tên tử tù vô cùng nguy nan nhưng mà quan trọng hơn ấy còn là ông mến mộ khao khát gặp lâu nay nay. Viên quản ngục đảm nhận chức quản ngục sống giữa gông cùm tội ác – nơi “người ta sống với nhau bằng lọc lừa, bằng tàn nhẫn”. Hằng ngày viên quản ngục phải đương đầu với bao lăm gian nan, chứng kiến bao điều xấu xa chốn nhà tù tăm tối. Hoàn cảnh đó dễ đẩy con người vào đường cùng, bùn nhơ, nhấn chìm tư cách con người vào vòng xoáy tội ác của nó. Thế nhưng mà có nào ngờ cái mong ước, sở nguyện độc nhất của viên quản ngục là “có 1 ngày kia được treo ở nhà riêng mình 1 đôi câu đối do tay ông Huấn Cao viết”. Chính thành ra, lúc biết tin Huấn Cao sẽ bị giam tới đây thì ông vừa mừng vừa lo. Ông vui tươi bởi lẽ người nhưng mà ông mến mộ lâu nay chung cuộc cũng có thể gặp gỡ. Ông lo bởi lẽ ông ko biết làm sao có thể đương đầu với Huấn Cao và phải đối xử thế nào với Huấn Cao giữa chốn lao tù này. Ánh đèn dầu leo lắt giữa ban đêm cũng như sự hiện ra của viên quản ngục nơi đây. Ánh sáng và bóng tối trong Chữ người tử tù còn trình bày ở ánh đèn dầu tuy bé nhưng mà vẫn mang lại cho ko gian tối tăm chút ánh sáng chờ đợi. Viên quản ngục được Nguyễn Tuân nhận xét “là 1 thanh âm trong trẻo chen vào giữa 1 bản đàn nhưng mà nhạc luật đều hỗn loạn xô bồ”. 1 tâm hồn tinh khiết lại sống giữa nơi tối tăm, 1 người tốt lại sống giữa 1 vòng xoáy tội ác. Giữa ko gian chan chứa bóng tối đó ko chỉ có ánh sáng của ánh đèn dầu nhưng mà còn có sự hiện ra của 1 tại sao lạc “Trong khung cửa sổ có nhiều con sông kẻ những nét đen thẳng lên nền trời lốm đốm tinh tú, 1 ngôi sao Hôm lấp láy như muốn tụt xuống phía chân giới ko định”. Bầu trời đêm vốn ảm đạm nhưng mà cũng là khi làm cho vẻ đẹp tinh tú dù bé nhỏ cũng phát triển thành nhấp nhánh hơn. Và cũng chính vì ban đêm nhưng mà người ta càng thêm trân trọng ánh sáng. Không gian kì ảo của bầu trời còn được khuấy động bởi âm thanh của “tiếng dội chó sử ma, tiếng trống thành phủ, tiếng kiểng mõ canh nổi lên. Bấy nhiêu thanh âm phức tạp bay cao lần lên khỏi mặt đất tối, nâng đỡ láy 1 ngôi sao chính vị muốn giã từ vũ trụ”. Ngôi sao đó hiện ra bất thần nhưng mà làm sáng cả bầu trời đêm, phải chăng ấy là Huấn Cao. Nhưng tiếc thay, ngôi sao đó cũng sắp vụt tắt. Dù nhấp nhánh tới đâu cũng khó tránh khỏi căn số. Ngôi sao đó đã phần nào dự đoán căn số của Huấn Cao. Ở bức tranh tự nhiên, ko gian và thời kì phủ đầy 1 màu bất minh nhưng mà trong bóng tối vẫn ánh lên những tia sáng. Ánh sáng và bóng tối trong Chữ người tử tù còn trình bày rõ nét rằng ấy ko chỉ là ánh sáng của ngọn đèn dầu, của tại sao nhưng mà ấy còn là ánh sáng toát lên từ viên quản ngục đặc thù này. Đấy là vẻ đẹp của thiên lương, là niềm tin của tác giả về thiên lương của con người dù trong tình cảnh nào, ta vẫn có thể bắt gặp được thiên lương của con người. ngôi sao chính vị sắp giã từ vũ trụ, tất cả như chòng chành giữa 2 thế đứng để rồi ánh sáng của thiên lương tuy bé nhoi vẫn thắng lợi, dẫn tới 1 thái độ xử sự đẹp. Ánh sáng và bóng tối trong Chữ người tử tù nổi trội nhất là trong cảnh cho chữ – 1 quang cảnh lâu nay chưa từng thấy. Người tử tù Huấn Cao vốn là người có tâm hồn nghệ sĩ thích thú tự do và đáng ghét những kẻ nhũng nhiễu quần chúng. Chính thành ra, Huấn Cao đã đứng lên chống lại chính quyền. Ngoài ra, ông còn là người nghệ sĩ tài năng thích thú cái đẹp và luôn giữ giàng thiên lương trắng trong. Huấn Cao trên lĩnh vực nghệ thuật cũng có nguyên lý riêng của mình, ông viết chữ nổi danh nhưng mà chỉ cho những người tình quý cái đẹp, ko bao giờ cúi đầu trước quyền uy và đồng bạc. Huấn Cao sáng tác nghệ thuật nhưng mà ko bán nghệ thuật. Thành ra, ban sơ dù viên quản ngục tốt với Huấn Cao bao lăm nhưng mà Huấn Cao vẫn hững hờ ko ân cần tới viên quản ngục. Nhưng lúc hiểu được tấm lòng của viên quản ngục, Huấn Cao đã đồng ý cho cái sở nguyện xin chữ đó của viên quản ngục. Cảnh cho chữ nằm ở cuối truyện nhưng mà lại là phần trung tâm trình bày trị giá nghệ thuật. Khung cảnh cho chữ diễn ra vào thời kì ban đêm, lúc “chỉ còn vẳng tiếng mõ trên vọng gác”. Giây phút này quý giá hơn bởi ấy còn là những phút giây chung cuộc của con người tài ba. Không gian cho chữ thường là nơi gác sách trang nhã, thơm mùi giấy hay 1 ko gian long trọng sang trọng nhưng mà trong quang cảnh khi bấy giờ ấy chỉ là “1 căn buồng tối chật hẹp, ẩm mốc, tường đầy màng nhện, đất lộn xộn phân chuột phân gián”. 1 ko gian u tối, 1 thời điểm sắp vĩnh biệt cuộc sống nhưng mà ấy cũng là lúc Huấn Cao sáng hình thành 1 tác phẩm nghệ thuật như 1 di ngôn của mình. Trong ko gian đó được thắp sáng bởi “khói tỏa như đám nhà cháy, ánh sáng đỏ rực của 1 bó đuốc tẩm dầu rọi lên 3 cái đầu người đang chuyên chú trên 1 tấm lụa bạch còn nguyên lành lần hồ. Khói bốc tỏa cay mắt, làm họ dịu mắt lia lịa”. Giữa ko gian tối đen bởi màn đêm buông xuống, bởi ko gian tối tăm lao tù, nhưng mà được bừng sáng từ ánh sáng của bó đuốc, của tấm lụa. Trong ko gian đó hiện lên là Huấn Cao “1 người tù cổ đeo gông, chân mang xiềng xích, đang giậm tô từng nét trên tấm lụa trắng bốp” – người tử tù bị mất tự do nhưng mà lại hiên ngang, biến thành người nghệ sĩ, viên quản ngục đứng chờ Huấn Cao viết xong từng nét chữ thì vội “khúm núm cất những đồng bạc kẽm ghi lại ô chữ đặt trên phiến lụa óng” và thầy thư lại run run. Xét về phương diện xã hội Huấn Cao là người chống lại thứ tự xã hội, viên quản ngục lại là người đại diện cho thứ tự xã hội ấy. Nhưng xét trên phương diện nghệ thuật, thì Huấn Cao là người tạo ra cái đẹp, viên quản ngục là người thưởng thức và trân trọng cái đẹp. Người tưởng đang trong tư thế tự do nhất hóa ra lại “khúm núm, sợ sệt”, còn người tù mang gông cùm tưởng chừng mất tự do hóa ra lại là người tự do nhất khi này. Khi phân tách ánh sáng và bóng tối trong Chữ người tử tù, ta thấy chỉ trong 1 cảnh cho chữ nhưng mà có sự đan xen giữa thiện và ác, giữa ánh sáng và bóng tối. Nhưng trong ko gian đầy mùi ẩm ốc, tối đen đó, Huấn Cao lại ko cảm thấy khó ở nhưng mà cái đọng lại chỉ còn là ánh sáng của bó đuốc, mùi thơm của giấy. Huấn Cao nói về mùi thơm của mực: “Thỏi mực, thầy sắm ở đâu tốt và thơm quá. Thầy có thấy mùi thơm ở chậu mực bốc lên ko?…”. như thể ông chẳng hề đang ở trong tù, ko còn bóng tối, cũng ko còn màng nhện, phân chuột, phân gián nữa. Chỉ còn lại sự thơm tho của mực, sự thuần khiết của lụa – nó là sự thơm tho và thuần khiết của thiên lương con người. Bó đuốc đó còn là ánh sáng thiên lương của cái đẹp nhưng mà Huấn Cao đã tạo ra để soi đường ngày mai cho viên quản ngục. Bóng tối kia hay chính là cái xấu, cái ác. Hình ảnh bó đuốc xua bóng tối cũng chính là ẩn dụ cho tài năng xua đi cái ác, sinh sôi từ cái ác. Huấn Cao ko chỉ tặng chữ nhưng mà ông còn truyền giao cả lý tưởng hướng thiện tới cho viên quản ngục. Từ ấy, tô đậm chủ đề của tác phẩm – cái thiện tuy mong manh nhưng mà bất tử và có thể hướng con người về chân thiện mỹ. Cuối cùng rồi cái thiện sẽ thắng lợi cái ác, ánh sáng sẽ đẩy lùi bóng tối. Với việc sử dụng tiếng nói giàu tính tạo hình liên kết với cái đa ngành – hội họa và điện ảnh, Nguyễn Tuân đã hình thành 1 quang cảnh lâu nay chưa từng có trong 1 cảnh huống đầy ngang trái, trớ trêu. Đặc trưng là những liệu pháp sử dụng để trình bày ánh sáng và bóng tối trong Chữ người tử tù. Bức cảnh đó tuy chỉ được sử dụng 2 màu sắc tương phản đối lập nhau của ánh sáng và bóng tối, nhưng mà quang cảnh đó ko nhạt nhòa nhưng mà càng thêm nổi trội và khắc sâu vào lòng người. Ánh sáng tới từ thiên lương chính là ánh sáng đặc sắc nhất, cũng chính là ánh sáng của sự giao hòa giữa cái đẹp và cái thiện. Thông điệp đó tới bây giờ phút này tuy trải qua bao chỉnh sửa của thời kì nhưng mà vẫn còn nguyên trị giá của nó. Khác với ánh sáng và bóng tối trong Chữ người tử tù, tác phẩm Hai đứa trẻ được nhà văn trình bày điều này 1 cách rất dị biệt. Ánh sáng và bóng tối trong Hai đứa trẻ được nhà văn Thạch Lam sử dụng như 1 thủ pháp chính trong nghệ thuật của tác phẩm. Bối cảnh là ko gian phố huyện buồn tẻ với thời kì là 1 buổi chiều “êm đềm như ru” đang sắp nhường chỗ cho bóng đêm, hay “dãy tre làng trước mặt đen lại và cắt hình rõ rệt trên nền trời”. Khung cảnh phố huyện của tác phẩm là trong bóng tối gợi ko khí buồn buồn, hiu hắt, chậm chậm, đơn điệu của cuộc sống nơi đây. Bóng tối ngập đầy trong đôi mắt của Liên lúc căn số của lũ trẻ bới rác và những công nhân nghèo ở đây cũng nhạt nhòa trong bóng tối. Bối cảnh phố huyện cộng với tâm cảnh đối tượng được Thạch Lam xây dựng vào những thời khắc không giống nhau: khi hoàng hôn, lúc đêm về và khi đêm đã khuya. Trong ánh sáng của ngọn đèn leo lắt trên chõng hàng chị Tý, trong bếp lửa của bác Siêu và những hạt sáng lọt qua phên nứa từ ngọn đèn của chị em Liên, những con đứa ở đây hiện lên như những cái bóng vật vờ ko căn số, không kể cách. Họ như hy vọng 1 điều gì ấy mới mẻ, khác biệt so với cảnh đời buồn tẻ, quanh quẩn, tù đọng của cái “ao đời bằng vận” hàng ngày họ nếm trải. Ánh sáng trong Hai đứa trẻ trình bày ở tự nhiên và mong ước của họ. Bầu trời kì ảo trong Hai đứa trẻ là phương tây đỏ rực như lửa cháy hay ánh sáng của nghìn sao tị nhau nhấp nhánh, ấy còn là vệt sáng của những con đom đóm, từ ngọn đèn trong nhà bác phở Mĩ, đèn hoa kì leo loét trong nhà ông Cửu hay những ánh sáng xanh trong hiệu khách… Ánh sáng trong Hai đứa trẻ còn trình bày từ ngọn đèn của chị Tí, khe ánh sáng từ 1 vài shop còn thức hay 1 chấm lửa ở phía huyện, ánh sáng đèn lồng của những người làm thuê ở hiệu khách đi đón bà chủ về… Nhìn chung, cả ánh sáng và bóng tối trong 2 tác phẩm trên đều hiện ra với 1 tần số lơn. Ở cả 2 thiên truyện này, ánh sáng đều tượng trưng cho những điều tốt đẹp còn bóng tối tượng trưng cho hiện thực bất minh, nghiệt ngã. Kế bên ấy, ánh sáng và bóng tối ở cả 2 tác phẩm đều còn đó trong thế giao đấu với nhau 1 cách gay gắt. Ngoài ra, ánh sáng và bóng tối trong Chữ người tử tù và Hai đứa trẻ đều được xây dựng bằng văn pháp tương phản đối lập đặc thù của chủ nghĩa lãng mạn. Ánh sáng và bóng tối trong Chữ người tử tù vừa là ánh sáng và bóng tối của bức tranh tự nhiên, ko gian vừa là ánh sáng và bóng tối của lòng người. Bóng tối bao trùm khắp ko gian đó mang tính tượng trưng cho hiện thực bất minh của buồng giam nói riêng và của xã hội ngột ngạt ngày nay khái quát. Trong bóng tối bao trùm đó, ánh sáng vẫn le lói hiện ra tới chung cuộc bùng cháy mãnh liệt dữ dội soi sáng cả lòng người. Cuộc chiến giữa ánh sáng và bóng tối cũng chính là ánh sáng giữa thiện và ác. Đấy là 1 trận đấu dằng dai, khốc nghiệt. Cái đẹp tuy mong manh nhưng mà có thể hồi sinh ở bất kỳ đâu, ở bất kỳ người nào. Cái đẹp phát khởi từ lòng người và sẽ đi tới lòng người. Còn ở tác phẩm Hai đứa trẻ, ánh sáng lại bé nhỏ, yếu đuối còn bóng tối bao trùm, chiếm điểm cộng. Thông điệp nhưng mà nhà văn Thạch Lam muốn gửi gắm tới độc giả là hãy chỉnh sửa hiện thực để con người có thể sống toàn vẹn với mong ước hi vọng của mình. Nhà văn Thạch Lam đã mô tả ánh sáng cũng như bóng tối bằng thứ tiếng nói giàu chất thơ và giàu giai điệu hình ảnh. Qua đây ta thấy có những điểm đồng nhất là do cả Thạch Lam và Nguyễn Tuân đều là những nhà văn lãng mạn, cùng sống trong hiện thực tối tăm trước 1945. Và điểm dị biệt là bởi đề nghị buộc phải của văn chương [ko cho phép sự lặp lại] và cũng bởi cá tính sáng tác riêng của mỗi nhà văn Cả 2 tác phẩm 2 tác giả không giống nhau sử dụng nghệ thuật ánh sáng bóng tối đem đến cho người đọc những liên tưởng và ý nghĩa không giống nhau. Mỗi tác phẩm mang đến cho người đọc những ý nghĩa biệt lập không những thế cũng chẳng thể phủ nhận chính nghệ thuật này góp phần vào sự thành công của 2 thiên truyện. Ánh sáng và bóng tối trong Hai đứa trẻ và Chữ người tử tù – Mẫu 2 Ánh sáng và bóng tối vốn là 2 bình diện quan trọng của cuộc sống, xoành xoạch còn đó kế bên nhau, bổ sung cho nhau. Trong hội họa, ánh sáng và bóng tối là 1 thủ pháp căn bản được dùng để khắc họa con người và sự vật trong cuộc sống. Trong văn học, ánh sáng và bóng tối cũng được sử dụng như 1 thủ pháp nghệ thuật nhằm tạo cảnh huống truyện, chuyển tải nội dung tư tưởng, chủ đề của tác phẩm. Với Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân và Hai đứa trẻ của Thạch Lam, ánh sáng và bóng tối được sử dụng như 1 thủ pháp nghệ thuật cốt cán “biểu lộ cách khai thác hình tượng đối với cuộc sống, như thủ pháp thuyết phục và lôi cuốn bạn đọc” của tác giả. Nguyễn Tuân và Thạch Lam tuy cùng thuộc dòng văn chương lãng mạn nhưng mà mỗi người có 1 cách sử dụng các thủ pháp nghệ thuật hoàn toàn không giống nhau, hình thành những toàn cầu nghệ thuật biệt lập và lạ mắt, mang đậm cá tính tư nhân của tác giả. Miệt mài trong hành trình tìm kiếm cái đẹp, ca tụng cái đẹp, Nguyễn Tuân và Thạch Lam, trong Chữ người tử tù và Hai đứa trẻ, ánh sáng và bóng tối được sử dụng ko chỉ như 1 nguyên lý tạo cảnh huống truyện nhưng mà còn vươn tới ý nghĩa tượng trưng về cái đẹp trong cuộc đời. Nguyễn Tuân viết Chữ người tử tù từ cảm hứng về 1 thú chơi thanh tao của người xưa, trong 1 cảnh huống đặc thù nhưng mà người viết chữ và game thủ chữ là người tử tù và người quản ngục. Hai đối tượng này hiện ra trong tác phẩm như 1 kiểu song trùng của sự còn đó chẳng thể thiếu nhau giữa 2 khách thể đối cực, như ánh sáng và bóng tối, thậm chí là kẻ địch trong 1 tình cảnh đặc thù. Song chính vì là đối cực như ánh sáng với bóng tối nên bản thân sự không giống nhau này cũng đã hàm chứa 1 sự tương liên, bổ sung cho nhau, thậm chí chuyển hóa từ tối ra sáng như 1 quy luật thế tất. “Chữ” hiểu theo nghĩa của tác phẩm chính là Thư pháp, 1 “nghệ thuật trình bày chữ viết và là dụng cụ để biểu thị tiềm thức của con người… Thư pháp gắn với tính cách, tâm sự, tình cảm, quan niệm triết học, nhân sinh quan của người viết”. Từ nét chữ, người ta có thể đọc được tâm tính, tư cách, khí phách người viết, nó trình bày toàn cầu nội tâm của người viết chữ. Thành ra người xưa coi việc chơi chữ như 1 cách di dưỡng tâm tính, un đúc ý thức. Viên quản ngục yêu chữ của Huấn Cao là yêu tư cách, khí phách, tài ba của người viết chữ, yêu cái đẹp tỏa ra từ toàn cầu nội tâm của con người này. Không gian nghệ thuật của Chữ người tử tù chính yếu được xây dựng dựa trên ko gian nhà giam – 1 “trại giam tối mịt”, quang cảnh nền đó chan chứa bóng tối, “hiu quạnh” và “tối mò”, tất cả đều nhuốm vẻ lặng thầm, ảm đạm. Mẩu hội thoại ngắn đầy e ngại, giữ giàng, nghi ngờ lẫn nhau giữa quản ngục và thầy thư lại như khắc họa rõ hơn căn số những con người quanh 5 trong bóng tối, tuy tự do về nhân thân nhưng mà lại bị tù đày về tư cách. Không gian nghệ thuật của tác phẩm được giới hạn ở 1 nhà giam bé, 1 cõi nhân sinh nhưng mà bóng tối nhiều hơn ánh sáng, ánh sáng chỉ là 1 ngọn đèn leo lắt lọt thỏm giữa bóng tối mịt mờ và hiu quạnh, chỉ là 1 vài vì tinh tú lấp láy xa xa, trong ấy có 1 “ngôi sao chính vị muốn giã từ vũ trụ”. Chút ánh sáng đó quá bé nhoi so với toàn thể màn đêm bao phủ nơi đây, nhưng mà giữa sự tương phản có vẻ ko hợp lý đó, tác giả muốn gửi gắm niềm tin về thiên lương con người, dù ở bất cứ tình cảnh nào, dù le lói nhưng mà ko bao giờ tắt, và nếu có dịp nó lại bùng lên mạnh bạo như niềm tin của con người vào cái tốt cái đẹp, vào ánh sáng. Đấy là nét đẹp, là chút ánh sáng còn sót lại trong tâm hồn ngục quan. Con người đang còn đó ở 1 nơi nhưng mà những vẻ đẹp và những điều xấu xa luôn kế cận nhau, ánh sáng luôn có nguy cơ bị dập tắt bởi bóng tối. Trong toàn cầu tối tăm đó, quản ngục như lạc điệu cô độc trong toàn cầu riêng của mình: 1 ngọn đèn leo lắt, 1 bóng tối mịt mờ hiu quạnh, tiếng trống thu ko, tiếng kiểng tiếng mõ loáng thoáng, tiếng chó sủa vào những bóng ma mơ hồ kì bí cứ bám mãi vào màn đêm hoang hút… Những sợi dây, những vòng dây trói vô hình cứ tròng lên, thít vào cuộc đời mòn rỉ của con người nhưng mà Nguyễn Tuân nói là “đang băn khoăn ngồi bóp thái dương”, với 1 ngoại hình mỏi mòn, độc thân “tóc hoa râm, râu đã ngả màu”. Tuy vậy ẩn sâu bên trong con người này là 1 đời sống tâm hồn như “1 thanh âm trong trẻo chen vào giữa bản đàn nhưng mà nhạc luật đều hỗn loạn và xô bồ. Nguyễn Tuân đã rất thành công lúc tạo dựng bối cảnh và ko khí để xây dựng cảnh huống truyện. Nỗi băn khoăn dẫn tới quyết định biệt đãi Huấn Cao của quản ngục được đặt trong 1 ko gian nền đầy bóng tối – nơi chỉ có vài đốm sáng lấp láy trên bầu trời, thậm chí có 1 ngôi sao chính vị sắp giã từ vũ trụ, tất cả như chòng chành giữa 2 thế đứng để rồi ánh sáng của thiên lương tuy bé nhoi vẫn thắng lợi, dẫn tới 1 thái độ xử sự đẹp. Cuộc gặp mặt giữa 2 con người tưởng như đối địch quyết liệt nhưng mà lại hòa hợp cực kỳ ở chấm dứt của truyện. Huấn Cao càng khẳng khái, cương trường, khinh thế ngạo vật bao lăm, quản ngục càng nhẫn nhịn, lễ độ, cam chịu bấy nhiêu. Tất cả chỉ vì sự ảnh hưởng của cái đẹp, của ánh sáng tỏa ra từ 1 tư cách, vì quý trọng 1 tài năng, xót xa 1 bảo bối văn hóa sắp bị chôn vùi vĩnh viễn. Mạch ca tụng nâng cao từ 2 phía đối lập của 2 thế đứng, 2 tâm cảnh, 2 thái độ xử sự, 2 mặt của cuộc sống. Chính công tác, môi trường trại giam đã buộc ràng quản ngục vào 1 giới hạn nghiệt ngã, con người này hàng ngày là dụng cụ, là người máy, còn sâu trong cõi lòng kia chất chứa 1 nỗi độc thân ko kẻ tỏ bày, ko người tri kỉ tri kỷ. 1 con người nhưng mà mới thoạt trông bên ngoài tưởng như là 1 khối bóng tối đồ sộ nhưng mà rồi cái tài ba của Nguyễn Tuân là đã biết chớp lấy cái phút giây thuận tiện nhất để chút ánh sáng le lói trong tâm hồn quản ngục có dịp bừng sáng lên. Không những thế tác giả còn dựng cảnh huống cho giây phút bừng sáng ấy thành thiên thu vĩnh viễn ở đoạn kết – sự thắng lợi của ánh sáng và bóng tối, trong “cảnh cho chữ”, “1 cảnh tượng lâu nay chưa từng có”. Về truyện ngắn Hai đứa trẻ của Thạch Lam có thể nói đây là 1 truyện ngắn “phi tình tiết”. Đấy là điểm đặc thù cùng lúc cũng là 1 trong những nét làm nên cá tính riêng trong nghệ thuật viết truyện của Thạch Lam. Ánh sáng và bóng tối trong Hai đứa trẻ được sử dụng như 1 thủ pháp chính trong nghệ thuật dựng truyện của Thạch Lam. Sở dĩ nói tương tự bởi ánh sáng và bóng tối được tác ví thử dụng trong cách xây dựng bối cảnh tác phẩm, đối tượng lẫn trong các cụ thể bé nhằm biểu đạt chủ đề của tác phẩm. Bối cảnh của Hai đứa trẻ là ko gian phố huyện buồn tẻ – 1 ko gian nghệ thuật đặc thù hiện ra khá nhiều trong truyện ngắn của ông. Đấy là 1 ko gian đan xen giữa làng quê và thị thành. Thời gian là 1 buổi chiều “êm đềm như ru” đang sắp nhường chỗ cho bóng đêm, “dãy tre làng trước mặt đen lại và cắt hình rõ rệt trên nền trời”. Khung cảnh phố huyện trong bóng tối gợi ko khí buồn buồn, hiu hắt, chậm chậm, đơn điệu của cuộc sống nơi đây. Bóng tối ngập đầy trong đôi mắt của Liên. Số mệnh của lũ trẻ bới rác và những công nhân nghèo ở đây cũng nhạt nhòa trong bóng tối. Bối cảnh phố huyện và tâm cảnh đối tượng được tác giả xây dựng vào những thời khắc không giống nhau: khi hoàng hôn, lúc đêm về và khi đêm đã khuya. Trong ánh sáng của ngọn đèn leo lắt trên chõng hàng chị Tý, trong bếp lửa của bác Siêu và những hạt sáng lọt qua phên nứa từ ngọn đèn của chị em Liên, con người hiện lên như những cái bóng vật vờ ko căn số, không kể cách. Ngoài cuộc sống mò cua bắt ốc ban ngày ra, tối tới họ ở đây như để mở màn 1 cuộc sống thứ 2 trong bóng tối, nhưng mà là để hướng tới ánh sáng. Tất cả cùng hy vọng 1 điều gì ấy mới mẻ, khác biệt so với cảnh đời buồn tẻ, quanh quẩn, tù đọng của cái “ao đời bằng vận” hàng ngày họ nếm trải. Hình tượng ánh sáng ở đây được xây dựng như 1 hình tượng nghệ thuật lạ mắt, gây nhiều ám ảnh. Những hạt sáng ít oi, bé nhoi lọt thỏm giữa ko gian phố huyện chan chứa bóng tối gia tăng độ mênh mang u tối, ko khí buồn lặng của quang cảnh phố huyện vào đêm. Nỗi buồn bã của 2 đứa trẻ và những người dân phố huyện nếu lúc chớm đêm mới chỉ ở chừng độ mơ hồ thì càng về khuya nó càng rõ nét. Bầu trời đầy sao và vũ trụ rộng lớn như tương phản, đối lập gay gắt với cuộc sống tù hãm đơn điệu ở phố huyện, hé mở tâm hồn khát khao hạnh phúc của chị em Liên. Khi này nỗi buồn ko còn nhòa nhạt mơ hồ nữa nhưng mà đã sắc nét, rõ rệt hơn lúc cô nhớ về Hà Nội, 1 thứ “siêu cảm giác” bởi cô đang hồi ức về dĩ vãng, cảm thấy bằng tâm hồn về 1 thời khác với thời ngày nay Liên đang sống – “1 vùng sáng rực và nhấp nhánh”. Ánh sáng từ đoàn tàu thì đã đến, nhưng mà ánh sáng đích thực, hạnh phúc đích thực của những con người nơi đây thì mãi vẫn còn đó trong tâm khảm nhưng mà ko biết lúc nào mới thành hiện thực. Hình tượng ánh sáng và bóng tối ở Hai đứa trẻ lúc đặt vào diễn biến nội tâm tinh tế, phức tạp của Liên trong cảm nhận độ dày của bóng tối từ chiều tới đêm khuya mới thấy rõ trị giá của nó, thấy được độ “khát thèm được chiếu sáng và được thay đổi”[7] của 2 đứa trẻ và những người dân nơi đây. Giá trị nghệ thuật và trị giá tư tưởng của tác phẩm thành ra được nâng lên 1 tầm khác hẳn khiến Hai đứa trẻ của Thạch Lam biến thành 1 trong những truyện ngắn hay, rực rỡ của văn chương Việt Nam. Nghệ thuật sử dụng ánh sáng và bóng tối như 1 thủ pháp trong Chữ người tử tù và Hai đứa trẻ vừa có điểm giống nhau lẫn không giống nhau. Cả 2 tác giả đều sử dụng ánh sáng và bóng tối như 1 nguyên lý đối lập, 1 thủ pháp nghệ thuật trong xây dựng cảnh huống truyện. Nhưng với Nguyễn Tuân ánh sáng và bóng tối vừa đối lập, vừa bổ sung, nâng đỡ nhau, cùng lúc có sự chuyển hóa từ bóng tối ra ánh sáng. Nhân vật viên quản ngục lúc được Huấn Cao “khai tâm” đã nghẹn ngào “xin bái lĩnh”, là 1 minh chứng cho sự chuyển hóa này. Ánh sáng và bóng tối ở đây từ nghĩa thực đã chuyển thành nghĩa biểu trưng. Đều hướng đến mục tiêu ca tụng cái đẹp, nhưng mà cái đẹp trong văn Nguyễn Tuân là cái đẹp thiêng liêng, cao sang đã bất biến và có trị giá như 1 bảo bối văn hóa của dân tộc, như 1 kiểu chơi đẹp, thú uống trà, chơi chữ, 1 kiểu sống đẹp, 1 tư cách đẹp… Chính thành ra ánh sáng trong Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân là ánh sáng của chân lý, của cái đẹp trong tài ba, tư cách, nên tác phẩm cũng được chấm dứt đẹp bằng sự thắng lợi của ánh sáng với bóng tối, của thiên lương con người với cái xấu cái ác. Bóng tối ở đây vừa là cuộc sống tù hãm, quanh quẩn mỏi mòn ảm đạm – là nét giống với bóng tối trong Hai đứa trẻ – nhưng mà nó cũng vừa đại diện cho cái xấu cái ác trong cuộc sống cũng như trong thực chất con người, điểm khác với truyện ngắn Hai đứa trẻ của Thạch Lam. Với Thạch Lam, bóng tối vừa mang nghĩa tượng trưng cho cuộc sống tù hãm, quanh quẩn nơi phố huyện vừa được sử dụng như phông nền chính nhằm làm nổi trội 3 loại ánh sáng: a] Ánh sáng nơi phố huyện – những quầng sáng giới hạn, bé nhoi, leo lắt, những hạt sáng… biểu trưng cho căn số mỏi mòn của những con người nơi đây; b] Ánh sáng đô thị – vừa là dĩ vãng, vừa là ngày mai, là miền ước mơ của 2 đứa trẻ; c] Ánh sáng con tàu – ánh sáng thức tỉnh đời sống tỉnh lẻ, như 1 cầu nối từ ngày nay [ánh sáng phố huyện] về dĩ vãng [ánh sáng đô thị], rồi hướng đến ngày mai [ánh sáng đô thị]. Từ đây ánh sáng, bóng tối ko còn mang nghĩa thực nữa nhưng mà mang nghĩa tượng trưng, tượng trưng của mong ước, của khao khát hạnh phúc và những điều tốt đẹp trong cuộc sống. Còn với Nguyễn Tuân, cảm hứng thẩm mỹ của ông bắt nguồn từ cái đẹp bự lao, cái cao cả, bi tráng hoặc miêu tả những tư cách bự… nên thủ pháp nghệ thuật cũng xây dựng dựa trên sự đối lập gay gắt, ánh sáng và bóng tối cũng được sử dụng nhằm mô tả những tương phản mạnh bạo, những chuyển biến bất thần, đột ngột. Đấy vừa là 1 thủ pháp trong xây dựng cảnh huống truyện, vừa là sự dẫn dắt đi tới chấm dứt của sự thắng lợi giữa chân lý, cái đẹp với cái xấu, cái ác. Thạch Lam do chỉ chú tâm tới những cái tầm thường, giản dị, bé nhoi trong cuộc sống nên ánh sáng và bóng tối trong tác phẩm của ông ko có sự chuyển biến dữ dội, bất thần. Chính từ tính quy phạm của ánh sáng và bóng tối trong hội họa, vào văn học nó đã vừa kế tục vừa phá vỡ tạo ra hiệu quả thẩm mỹ mới, góp phần đắc lực cho xây dựng cảnh huống truyện, được sử dụng như 1 cốt truyện nghệ thuật rực rỡ. So sánh 2 tác phẩm để thấy sự giống nhau và không giống nhau trong nghệ thuật sử dụng ánh sáng và bóng tối, lý giải nó từ quan niệm nghệ thuật, vốn văn hóa của tác giả để thấy tài năng của nhà văn và trị giá nghệ thuật béo bự của tác phẩm. Từ ấy có thể khắc họa rõ hơn dung mạo của tác giả, tác phẩm, xác lập 1 bí quyết tiếp cận văn bản chẳng hề chỉ từ chính nó nhưng mà bằng liên văn bản. Điều này ko nằm ngoài mục tiêu khám phá các vẻ đẹp tiềm tàng của tác phẩm văn học khiến nó luôn mới mẻ, nhấp nhánh nhiều trị giá. Ánh sáng và bóng tối trong Hai đứa trẻ và Chữ người tử tù – Mẫu 3 1 tác phẩm hay ko chỉ cần có nội dung lôi cuốn nhưng mà còn cần tới những rực rỡ nghệ thuật nhất mực. Có thể nói rằng có những rực rỡ nghệ thuật đã mang lại thành công và sự lôi cuốn cho tác phẩm. Ngoài tình tiết lôi cuốn bất thần, cụ thể nghệ thuật mang những ý nghĩa sâu xa, những tiếng nói đậm chất vùng miền nào ấy thì còn nhiều nghệ thuật khác nữa. Trong truyện ngắn Chữ người tử tù và Hai đứa trẻ cũng vậy. Hai tác phẩm có những rực rỡ nghệ thuật không giống nhau thế nhưng mà nghệ thuật chung nhưng mà cả 2 tác phẩm cùng có ấy chính là nghệ thuật sử dụng ánh sáng và bóng tối. Trước hết nghệ thuật ấy được trình bày rất rõ trong tác phẩm chữ người tử tù. Như chúng ta đã biết thì nghệ thuật này được sử dụng thành công trong đoạn mô tả cảnh Huấn Cao cho viên quản ngục chữ. chính nghệ thuật này đã đem đến những trị giá biểu đạt nôi dung của cảnh tượng ấy và cũng có nhẽ thế nhưng mà cảnh tượng đó được xem là cảnh tượng chưa từng có. Trước nhất là ánh sáng trong đoạn đó. Có thể nói trong cảnh cho chữ đó ánh sáng độc nhất chỉ có 1 ngọn đuốc soi sáng căn phòng. Ánh sáng đó chẳng thể đặc sắc nhưng mà chi đủ để huấn Cao có thể nhìn rõ nhưng mà viết chữ tặng quản ngục nhưng mà thôi. Thật vậy, nhà văn Nguyễn Tuân đã mô tả thật chuẩn xác cái ánh sáng đó. 3 con người chụm lại bên tờ giấy với ngọn đuốc đủ để thắp sáng cho Huấn Cao viết chữ. Thế nhưng mà bóng tối thì lại chi chít, nghe đâu ở đây ko chỉ có sự tương phản giữa ko gian cho chữ và ko gian nhà giam, giữa người cho chữ và người nhận chữ thái độ của họ nhưng mà còn tương phản giữa ánh sáng và bóng tối. Chúng ta chẳng thể nào quên được cái ko gian bóng tối bao trùm đó. Không gian thì toàn phân gián phân chuột ẩm ướt và gớm ghê. thế nhưng mà cái đẹp đã thăng hoa lấn lướt tất cả những điều ấy. Lấy bóng tối để làm nên cho ánh sáng đó Nguyễn Tuân nhằm nói lên sự thức tỉnh của con người khỏi những “bản nhạc xô bồ” của cuộc sống kia. Và ở đây nó chính là sự thức tỉnh của viên quản ngục. Tiếp theo nghệ thuật ấy cũng được trình bày rất rõ trong tác phẩm 2 đứa trẻ của nhà văn Thạch Lam. Có thể nói rằng qua những mô tả của Thạch Lam chúng ta thấy được rõ nghệ thuật đó nhất là cảnh chợ tàn. Hình ảnh của phố huyện trong tác phẩm hiện lên như 1 miền quê bị lãng quê hình ảnh những cảnh chiều buông xuống gợi lên sự rơi rụng tàn tã. Không chỉ thế nhưng mà lúc nó về đêm lúc những phiên chợ ồn ã chấm dứt thì nó lại càng tàn tã hơn. Nghệ thuật lấy ánh sáng để mô tả bóng tối của Thạch Lam cực kỳ thành công trong việc biểu đạt nội dung. Nhà văn tài ở chỗ nói ánh sáng nhiều hơn nhưng mà người đọc vẫn thấy được sự chi chít của bóng. Ánh sáng được nhắc đến như là hạt sáng, khe sáng, quầng sáng, bầu trời hàng nghìn ngôi sao tị nhau nhấp nhánh, ánh sáng từ ngọn đèn Liên, hột sáng từ những ngọn đèn chị Tí thế nhưng mà nó chẳng thể nào đấu lại nhưng mà bóng tối kia trong khi Thạch Lam chỉ dành cho nó có mấy câu văn. “Tối hết cả”, tối đường từ nhà ra ngõ đều thăm thẳm đen xì, có thể thấy rằng ấy chính là lấy cái ít để nói cái nhiều. Trong tác phẩm này còn sử dụng nghệ thuật mô tả bóng tối, ánh sáng ở đoạn cuối lúc tàu đêm tới. Đấy là ánh sáng của đoàn tàu với những tia lửa như chớp, rồi ánh sáng rực trên những khoa hạng sang nhất lố nhố những người. Thế rồi lúc ánh sáng đó qua đi chỉ còn nhận ra đốm lửa hồng thì phố huyện lại chan chứa trong bóng tối. Có thể nói chính nghệ thuật đó là vẻ ngoài cao hóa biểu lộ nội dung của tác phẩm. Cả 2 tác phẩm trên đều dùng ánh sáng và bóng tối để nói lên ý nghĩa của nội dung ấy. Giả dụ cảnh cho chữ diễn ra trong những ánh sáng bóng tối đó nhằm nói lên sự thăng hoa của cái đẹp và sự gần cận nhau của con người thì 2 đứa trẻ sử dụng nghệ thuật đó để nói lên sự u tối của cuộc sống nơi phố huyện. hay ấy chính là sự đói nghèo lam lũ cực khổ, sự cầm cự sống của những con người nơi đây. Tuy nhiên 2 nhà văn, 2 cách sử dụng nghệ thuật không giống nhau nhằm mục tiêu để nói lên những ý tưởng của mình. Trước hết là Nguyễn Tuân thì ở đây ông đã nhắc đến bóng tối nhiều hơn để cho thấy được sự rạng ngời của ngọn đuốc kia dẫu cho nó chỉ là 1 nguồn ánh sáng. Bóng tối kia dù chi chít nhưng mà lại chẳng thể nào che giấu được ánh sáng kia. Cùng lúc mô tả như thế nhà văn muốn gửi tới ý nghĩa của cảnh tượng đó là cái đẹp thăng hoa dù trong bất kỳ tình cảnh nào cũng như con người xóa bỏ mọi ranh giới tối tăm để xích lại gần nhau hơn. Còn Thạch Lam thì lại khác. Ông mô tả ánh sáng nhiều hơn là bóng tối, nào khe sáng, hột sáng…bóng tối chỉ được diễn đạt trong 1 2 câu văn. Thế nhưng mà chúng ta lại thấy được ý đồ nghệ thuật của nhà văn ấy chính là làm nổi trội bóng tối để cho thấy sự u tối nghèo đói của những con người nơi đây. Qua đây ta khẳng định được 1 điều tác phẩm văn chương hay thì thường có những nghệ thuật rực rỡ. Hai đứa trẻ và Chữ người tử tù chính vì vậy nhưng mà rất xứng đáng là 1 tác phẩm hay. Cùng lúc 2 nhà văn ấy xứng đáng là 1 nhà văn giỏi. Ánh sáng và bóng tối trong Hai đứa trẻ và Chữ người tử tù – Mẫu 4 Khi nhắc đến Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân người ta ắt hẳn chẳng thể quên được hình tượng của Huấn Cao và hình ảnh cho chữ của ông trong lao tù tăm tối. Hình ảnh đó như hiện lên làm sáng cả 1 vùng và cùng lúc nổi trội lên những ý nghĩa nhân bản thâm thúy. Tác phẩm đó đã đi vào sự chú tâm của bạn đọc và cả những nhà phê bình văn chương. Có thể nói những gì nhưng mà tác phẩm đem đến ko chỉ ngừng lại ở tình tiết hay cảnh huống nhưng mà chính là rực rỡ nghệ thuật nhưng mà chẳng hề người nào cũng làm được và chạm đến được. Đúng như những nhà phê bình văn chương đã cho thấy nội dung lôi cuốn chẳng thể kéo người đọc nhớ và ghi nhận những đóng góp của tác phẩm ấy nhưng mà phải kể đến những nét nghệ thuật rực rỡ. Và 1 trong những nghệ thuật nổi trội lên ấy chính là cách nhưng mà Nguyễn Tuân sử dụng mảng sáng tối trong tác phẩm của mình. Hay nói cách khác ấy chính là cách sử dụng ánh sáng và bóng tối ở trong tác phẩm văn chương của ông. Nó mang đến cho người đọc những cái nhìn mới lại và những cái rực rỡ cho tác phẩm về triết lí nhân bản. 1 tác phẩm hay ko chỉ cần có nội dung lôi cuốn nhưng mà còn cần tới những rực rỡ nghệ thuật nhất mực. Có thể nói rằng có những rực rỡ nghệ thuật đã mang lại thành công và sự lôi cuốn cho tác phẩm. Ngoài tình tiết lôi cuốn bất thần, cụ thể nghệ thuật mang những ý nghĩa sâu xa, những tiếng nói đậm chất vùng miền nào ấy thì còn nhiều nghệ thuật khác nữa. Có thể nói Nguyễn Tuân và Thạch Lam là 2 nhà văn đa tài của nền văn chương Việt Nam. Chưa nói đến nội dung và tình tiết của những tác phẩm, Thạch Lam và Nguyễn Tuân luôn để lại dấu ấn cho người đọc người nghe phê duyệt những nghệ thuật rực rỡ trong ấy có nghệ thuật sử dụng ánh sáng và bóng tối trong tác phẩm Hai đứa trẻ và Chữ người tử tù. Trong Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân thì thứ ánh sáng trước hết hiện lên trong căn phòng lao tù là ánh sáng của ngọn đuốc. Thứ ánh sáng hiếm hoi đó lại có thể chiếu sáng cho con người Huấn Cao cho chữ cho viên quản ngục và chỉ có 1 ngọn đuốc độc nhất để chiếu sáng gian phòng đó. Nguyễn Tuân đã chọn cách lấy ánh sáng để làm lấn lướt đi ko gian vốn dĩ ẩm ướt tối tăm của lao tù. Để át đi ko gian tối tăm đầy phân chuột đó nhưng mà hình ảnh cho chữ lại được nổi trội lên với những đường nét vừa giản dị lại vô cùng thiêng liêng. Nguyễn Tuân như muốn thứ ánh sáng đó chính là cái cớ để muốn con người bật ra khỏi “bản nhạc xô bồ” của cuộc sống kia. Ánh sáng đó cũng tạo điều kiện để tháo nút cho những mảng sáng tối trong con người của viên quản ngục. Hình ảnh và nghệ thuật ánh sáng và bóng tối của Nguyễn Tuân cũng phần nào góp phần vào sự thành công vào công cuộc lây chuyên và thức tỉnh thiên lương trắng trong của Huấn Cao dành cho viên quản ngục. Qua đây ta cũng thấy được ko chỉ có ánh sáng của bó đuốc là hiện hữu nhưng mà còn là thứ ánh sáng của tâm hồn của thiên lương luôn soi tận những tấm lòng của thiên hạ. Còn đối với Hai đứa trẻ của Thạch Lam, ông như thổi 1 làn gió mới cho người cảm thụ văn học. Trong tác phẩm nghệ thuật sử dụng ánh sáng bóng tối cũng được ông sử dụng 1 cách triệt để. Chúng ta có thể thấy được ánh sáng và bóng tối có sự vận động từ khi hình ảnh phiên chợ tàn ở chốn phố huyện trong khi có tàu chạy qua. Phiên chợ tàn cũng khi là những hình ảnh mờ nhòe và đáng thương biết bao lăm. Xuất hiện qua ấy là hình ảnh lúc lũ trẻ nhà nghèo lượm lặt những thứ còn sót lại trên chợ và ko gian mở màn chuyển tối Ánh sáng trong tác phẩm như được chắp nhặt từng chút 1 chút 1 để hình thành nguồn sáng cho người dân phố huyện: hạt sáng, khe sáng, quầng sáng, bầu trời hàng nghìn ngôi sao tị nhau nhấp nhánh Kế bên ấy ánh sáng ấy còn được gom nhặt từ ánh sáng từ ngọn đèn Liên ngọn đèn chị Tí. Kế bên ấy 1 thứ ánh sáng mới lạ ấy chính là ánh sáng của đoàn tàu nhưng mà mọi người đều mong đợi để nhận ra thứ ánh sáng đó ánh sáng của 1 vùng xa xăm trên khắp mọi miền quốc gia. Hai tác giả phê duyệt nghệ thuật sử dụng ánh sáng bóng tối tác giả khắc họa cảnh sống ở chốn phố huyện cũng như hình ảnh u tối nhưng mà bừng sáng ở trong ko gian của ngục lao. Tuy nhiên khác với Thạch Lam, Nguyễn Tuân cũng là người sử dụng nghệ thuật ánh sáng bóng tối thành công đặc thù ở đoạn trích Chữ người tử tù hình ảnh bóng tối dù chi chít hơn nhưng mà cũng chẳng thể lấn lướt đi ánh sáng của ngọn đuốc của thiên lương và những tâm hồn cao cả. Còn mặc dầu đã sử dụng nhiều hình ảnh ánh sáng trong tác phẩm nhưng mà người ta vẫn mường tưởng ra 1 phố huyện với cảnh nghèo khó trong Hai đứa trẻ của Thạch Lam Cả 2 tác phẩm 2 tác giả không giống nhau sử dụng nghệ thuật ánh sáng bóng tối đem đến cho người đọc những liên tưởng và ý nghĩa không giống nhau. Mỗi tác phẩm mang đến cho người đọc những ý nghĩa biệt lập không những thế cũng chẳng thể phủ nhận chính nghệ thuật này góp phần vào sự thành công của 2 thiên truyện. Ánh sáng và bóng tối trong Hai đứa trẻ và Chữ người tử tù – Mẫu 5 Thạch Lam là 1 nhà văn có lối viết văn đặc thù, viết truyện ko cần tình tiết, nhưng mà nhà văn lại có hứng thú khai thác và tìm tòi những cái đẹp ẩn mình từ những ngách ngóc của vũ trụ rộng lớn, đặc thù là vẻ đẹp tâm hồn của những con người nghèo nàn, cuộc sống u tối nhưng mà sâu trong ấy là những khao khát chờ đợi về 1 ngày mai tốt đẹp và tươi sáng ko bao giờ bị vùi dập dẫu cuộc đời đầy gian nan. Còn với Nguyễn Tuân 1 nhà văn gắn liền với 2 từ thông thái và tài ba, các sáng tác trước cách mệnh đều quay quanh 3 chủ đề với chủ nghĩa “di dịch”, vẻ đẹp “vang bóng 1 thời” và “lối sống trụy lạc”, trong ấy vẻ đẹp “vang bóng 1 thời” của nhà văn có nhẽ là gây được nhiều tên tuổi nhất. Cả Thạch Lam và Nguyễn Tuân trong văn học của mình đều thích thú việc sử dụng nghệ thuật ánh sáng và bóng tối để làm nổi trội lên chủ đề của tác phẩm, điều ấy trình bày rất rõ trong Hai đứa trẻ và Chữ người tử tù, thế nhưng mà với mỗi ngòi bút không giống nhau thì cách áp dụng loại nghệ thuật này lại cũng có những điểm rực rỡ biệt lập, in đậm dấu ấn của người sáng tác. Trong tác phẩm Hai đứa trẻ, ánh sáng và bóng tối được tác giả mô tả 1 cách tinh tế, lãng mạn thế nhưng mà lại mang những màu sắc u buồn, trầm lắng trình bày cuộc sống nghèo khó nơi phố huyện. Ánh sáng trong tác phẩm được trình bày qua nhiều dạng thức và nhiều nguồn, với cường độ không giống nhau, nếu như ánh hoàng hôn đỏ rực, thi vị, đặc sắc thế nhưng mà lại ko mang lại sắc thái tươi vui, nhộn nhịp vốn có của màu đỏ, nhưng mà ánh nắng đó cũng là báo hiệu cho 1 buổi chiều tàn lụi, gợi cảm xúc buồn bực. Những nguồn sáng leo lắt bé bỏng khởi hành từ ngọn đèn dầu của chị Tí, từ bếp lửa bập bùng rạng ngời 1 vùng mờ mờ của bác Siêu, hay là những hột sáng, tia sáng lọt ra từ những khe cửa của những căn nhà trên phố huyện cũng đều là thứ ánh sáng mang lại sự yếu đuối, u ám của khu phố huyện. Thứ ánh sáng lù mù, lẻ tẻ đó ko chỉ biểu lộ quang cảnh buồn bực u ám nơi phố huyện nghèo, nhưng mà còn là tượng trưng cho những kiếp người tàn, đang sống lắt lay từng ngày như chị Tí, bác Siêu, vợ chồng bác Xẩm, chị em Liên, bà cụ Thi điên, những đứa trẻ khổ thân ven chợ,… Trái ngược với thứ ánh sáng lù mù từ phố huyện thì ánh sáng nhưng mà chuyến tàu đêm từ Hà Nội về lại mang những sắc thái khác hẳn, các “toa đèn sáng trưng, chiếu cả xuống đường… đồng và kền nhấp nhánh, và các cửa kính sáng”, trình bày sự giàu sang, khá giả, đưa ký ức của Liên về 1 thời tuổi thơ bóng gió nhưng mà chị đã từng có, ko chỉ vậy nó còn là tượng trưng cho sự chờ đợi, khao khát mãnh liệt, tiềm ẩn về 1 cuộc đời tươi sáng hơn của người dân phố huyện, với mong ước đổi đời, nhưng mà chỉ có điều họ vẫn chưa tìm ra cho mình được 1 trục đường sáng. Khác với ánh sáng nơi phố huyện, thì bóng tối ở nơi đây lại chiếm điểm cộng hơn cả, Thạch Lam đã rất tinh tế và tài ba lúc diễn đạt dáng hình vật lý của bóng tối phê duyệt các hình ảnh rực rỡ, từ chuyện bóng tối lan dần trong mắt Liên, tới hình ảnh “dãy tre làng trước mặt đen lại và cắt hình rõ rệt trên nền trời”, rồi cảnh bóng tối đen đặc tới tột cộng với hình ảnh “đường phố và các ngõ con chứa đầy bóng tối”, “tối hết cả, trục đường thăm thẳm ra sông, trục đường qua chợ về nhà, các ngõ vào làng lại càng sẫm đen hơn nữa”. Tất cả đều trình bày sự tĩnh mịch, buồn bực và tĩnh lặng của phố huyện nghèo lúc trời đêm sập xuống. Không chỉ vậy sự hiện ra của những thứ ánh sáng yếu đuối, ko đủ soi sáng màn đêm, nhưng mà nghe đâu bị màn đêm xơi tái đã nói đến ở trên lại càng khiến cho màn đêm càng phát triển thành tối tăm và u ám. Như vậy tổng kết lại sự hiện ra của những thứ ánh sáng yếu đuối, leo lắt thành từng chòm, từng hột, từng vệt,… giữa ban đêm mịt mùng nơi phố huyện là 1 sự tương phản thâm thúy, tượng trưng cho những kiếp người tàn, lầm lũi, bé nhỏ nơi phố huyện, tượng trưng cho cuộc sống chán nản, nghèo nàn, và tuyệt vọng, ngột ngạt của những con người nơi đây. Nó vẫn cứ mãi u tối và u ám, dẫu rằng bản thân họ cũng có những niềm chờ đợi khao khát mãnh liệt như ánh đèn của chuyến tàu từ Hà Nội về, chỉ có điều dẫu mạnh bạo nhưng mà nó lại quá ngắn ngủi, nhưng mà lúc qua rồi thì bóng đêm nơi phố huyện lại càng trầm tĩnh và u buồn hơn tất thảy. Niềm ước mơ chờ đợi đó, vẫn chưa tìm được biện pháp để tiến hành và có nguy cơ bị bóng đêm, cũng như cuộc sống tuyệt vọng, buồn bã nơi đây bóp nghẹt. Trong Chữ người tử tù, ánh sáng hiện lên trên bình diện vật lý với những hình ảnh khá ấn tượng, tiêu biểu là hình ảnh “ánh sáng đỏ rực của 1 bó đuốc”, “lửa đóm cháy rừng rực”, ngọn đèn nến trên án của viên quản ngục, rồi thì ánh sáng lấp láy của những vì tinh tú, của ngôi sao Hôm,… Tất cả những thứ ánh sáng đó đều biểu trưng cho vẻ đẹp nghệ thuật cao quý và tâm hồn trắng trong, thiện lương của con người, chúng còn đó ngay cả trong những tình cảnh u tối bẩn thỉu nhất, chiếu sáng tâm hồn của những con người có thiên lương là thứ ánh sáng trường tồn bất tử và cực kỳ mãnh liệt. Trái lại với ánh sáng thì bóng tối trong truyện ngắn được mô tả bằng những cụ thể khá rực rỡ từ cảnh “trại giam tối mịt”, “trời tối mò” hiu quạnh bao phủ lên người viên quản ngục trong đêm ông thu được lệnh giam Huấn Cao, rồi cái u tối còn xuất hiện trong cảnh Huấn Cao cho chữ trong buồng giam chật hẹp ẩm ướt, đầy phân gián, phân chuột lộn xộn. Bóng tối này ko chỉ mang ý nghĩa tả chân cảnh tù tội trong ngục thất của Huấn Cao nhưng mà suy rộng ra hơn nữa nó chính là tượng trưng cho sự bức bối, ngột ngạt, u tối của xã hội đương thời, cũng như của cái môi trường nhưng mà viên quản ngục đang làm việc và sinh sống. Liên kết giữa sự tương quan của ánh sáng và bóng tối, với sự cạnh tranh gay gắt, bản thân chúng đã làm nổi trội lẫn nhau ko chỉ về thực chất vật lý, nhưng mà quan trọng hơn là về ý nghĩa tượng trưng. Ánh sáng và màu trắng bốp khôi của tấm lụa nổi trội trên cái nền bất minh, chật hẹp của ngục thất và trái lại, từ ấy suy ra mối tương quan rằng trong tình cảnh u tối, dơ dáy và gian ác thì thiên lương, tâm hồn biệt nhưỡng liên tài của viên quản ngục, cũng như vẻ đẹp tâm hồn cao quý, cộng với nghệ thuật thanh cao được đẩy lên 1 cách rõ rệt, gây ấn tượng thâm thúy với người đọc. Xét về điểm đồng nhất trong văn pháp nghệ thuật ánh sáng – bóng tối ở 2 nhà văn Thạch Lam và Nguyễn Tuân ta có thể nhìn thấy rằng cả 2 tác giả đều sử dụng các cụ thể ánh sáng và bóng tối 1 cách chi chít trên tác phẩm của mình. Về ý nghĩa tượng trưng thì ánh sáng biểu trưng cho vẻ đẹp trong tâm hồn con người, sự thanh cao tinh khiết, niềm chờ đợi tốt đẹp, còn bóng tối lại biểu trưng cho sự tuyệt vọng, khốn khổ chật hẹp và cái xấu xa bị động trong xã hội. Thêm 1 điểm nữa là ở cả 2 tác phẩm ánh sáng và bóng tối đều được xây dựng ở thế giao đấu kịch liệt và gay gắt, với nghệ thuật tương phản đối lập rõ ràng. Về điểm dị biệt, thì trong Hai đứa trẻ cách sử dụng nghệ thuật sáng tối của Thạch Lam thiên về thiên hướng mềm mại, lãng mạn trữ tình, phảng phất sự u buồn, tịch liêu, ngược lại trong Chữ người tử tù thì ánh sáng và bóng tối được khắc họa tạo hình sắc nét, chân thực và mạnh bạo. Thêm nữa so với Chữ người tử tù thì ánh sáng ở Hai đứa trẻ được tác giả dựng lên 1 cách yếu đuối, lẻ tẻ, nhạt nhòa nghe đâu bị màn đêm xơi tái, phản ảnh đúng với cuộc sống của con người nơi phố huyện, tuyệt vọng và u tối cực kỳ. Trái lại trong Chữ người tử tù ánh sáng và bóng tối được tác giả mô tả ở thế cạnh tranh ngang bằng, kịch liệt, trong ấy có vẻ ánh sáng được mô tả 1 cách nổi trội, áp đảo bóng tối của sự xấu xa, ác nghiệt. Từ ấy suy ra thông điệp Thạch Lam muốn gửi gắm là sự vươn lên, vẻ đẹp nhựa sống tiềm ẩn, niềm khao khát chờ đợi tốt đẹp của những kiếp người bé nhỏ trong cuộc sống còn nhiều u tối, u ám. Còn Nguyễn Tuân lại muốn phê duyệt cụ thể ánh sáng và bóng tối khẳng định chân lý vẻ đẹp thiên lương và tâm hồn thanh cao sẽ luôn thắng và rạng ngời đặc sắc, gắn kết tâm hồn con người lại với nhau dù cho có ở điều kiện hà khắc, u tối và dơ dáy tới thế nào.

Như vậy có thể thấy rằng tuy cùng có chung 1 cụ thể nghệ thuật về ánh sáng và bóng tối trong tác phẩm của mình, thế nhưng mà ngoài những điểm đồng nhất chung nhất, thì bản thân mỗi tác giả lại có cách trình bày không giống nhau từ trị giá hình ảnh tới trị giá tượng trưng. Điều ấy đã khẳng định được cá tính nghệ thuật cũng như tài năng của mỗi nhà văn trong sự nghiệp sáng tác, sự phấn đấu thông minh của họ đã mang đến cho bạn đọc những tác phẩm hoàn hảo với những tầng ý nghĩa không giống nhau, góp phần là phong phú văn đàn Việt Nam đương đại.

TagsChữ người tử tù Hai đứa trẻ Nguyễn Tuân Thạch Lam Văn mẫu lớp 12

[rule_2_plain]

#Văn #mẫu #lớp #Nghệ #thuật #miêu #tả #ánh #sáng #và #bóng #tối #trong #Hai #đứa #trẻ #và #Chữ #người #tử #tù

  • Tổng hợp: Phần Mềm Portable
  • Nguồn: //bigdata-vn.com/van-mau-lop-12-nghe-thuat-mieu-ta-anh-sang-va-bong-toi-trong-hai-dua-tre-va-chu-nguoi-tu-tu/

Video liên quan

Chủ Đề