Để có thể tăng quy mô tích luỹ, các nhà tư bản không sử dụng biện pháp:

Tích lũy tư bản là một đòi hỏi thiết yếu của nhà tư bản, vậy thực chất và các nhân tố quyết định tích lũy tư bản là gì?

Để hiểu rõ thực chất tích luỹ tư bản phải phân tích quá trình tái sản xuất tư bản chủ nghĩa.

1. Giá trị thặng dư – thực chất [hay nguồn gốc] của tích luỹ tư bản

Tái sản xuất là tất yếu khách quan của xã hội loài người. Tái sản xuất có hai hình thức chủ yếu là tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng.

Dưới chủ nghĩa tư bản, muốn tái sản xuất mở rộng, nhà tư bản phải sử dụng một phần giá trị thặng dư để tăng thêm tư bản ứng trước.

Sự chuyển hóa một phần giá trị thặng dư trở lại thành tư bản gọi là tích luỹ tư bản.

Như vậy, nguồn gốc của tích luỹ tư bản là giá trị thặng dư – là lao động của công nhân bị nhà tư bản chiếm không.

Nói cách khác, toàn bộ của cải của giai cấp tư sản đều do lao động của giai cấp công nhân tạo ra.

2. Những nhân tố ảnh hưởng đến quy mô tích luỹ tư bản

Với khối lượng giá trị thặng dư nhất định thì quy mô tích luỹ tư bản phụ thuộc vào tỷ lệ phân chia giữa tích luỹ và tiêu dùng.

Nếu tỷ lệ giữa tích luỹ và tiêu dùng đã được xác định, thì quy mô tích luỹ tư bản phụ thuộc vào khối lượng giá trị thặng dư. Có bốn nhân tố ảnh hưởng đến khối lượng giá trị thặng dư:

2.1. Trình độ bóc lột giá trị thặng dư

Thông thường, muốn tăng khối lượng giá trị thặng dư, nhà tư bản phải tăng thêm máy móc, thiết bị và công nhân.

Nhưng nhà tư bản có thể không tăng thêm công nhân mà bắt số công nhân hiện có cung cấp thêm một lượng lao động bằng cách tăng thời gian lao động và cường độ lao động. Đồng thời, tận dụng một cách triệt để công suất của số máy móc hiện có, chỉ tăng thêm nguyên liệu tương ứng.

2.2. Năng suất lao động

Năng suất lao động xã hội tăng lên thì giá cả tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng giảm. Sự giảm này đem lại hai hệ quả cho tích luỹ:

– Một là, với khối lượng giá trị thặng dư nhất định, phần dành cho tích luỹ có thể lấn sang phần tiêu dùng, trong khi sự tiêu dùng của nhà tư bản không giảm mà vẫn có thể bằng hoặc cao hơn trước.

– Hai là, một lượng giá trị thặng dư nhất định dành cho tích luỹ cũng có thể chuyển hóa thành một khối lượng tư liệu sản xuất và sức lao động phụ thêm nhiều hơn trước.

Sự tiến bộ của khoa học và công nghệ đã tạo ra nhiều yếu tố phụ thêm cho tích luỹ nhờ việc sử dụng vật liệu mới và tạo ra công dụng mới của vật liệu hiện có như những phế thải trong tiêu dùng sản xuất và tiêu dùng cá nhân của xã hội, những vật vốn không có giá trị.

Cuối cùng, năng suất lao động tăng sẽ làm cho giá trị của tư bản cũ tái hiện dưới hình thái hữu dụng mới càng nhanh.

2.3. Chênh lệch giữa tư bản sử dụng và tư bản tiêu dùng

Tư bản sử dụng là khối lượng giá trị những tư liệu lao động mà toàn bộ quy mô hiện vật của chúng đều hoạt động trong quá trình sản xuất sản phẩm.

Còn tư bản tiêu dùng là phần giá trị những tư liệu lao động ấy được chuyển vào sản phẩm theo từng chu kỳ sản xuất dưới dạng khấu hao.

Do đó, có sự chênh lệch giữa tư bản sử dụng và tư bản tiêu dùng. Sự chênh lệch này là thước đo sự tiến bộ của lực lượng sản xuất.

Sau khi trừ đi những tổn phí hàng ngày trong việc sử dụng máy móc và công cụ lao động – nghĩa là sau khi trừ đi giá trị hao mòn của chúng đã chuyển vào sản phẩm – nhà tư bản sử dụng những máy móc và công cụ lao động đó mà không đòi hỏi một chi phí khác.

Kỹ thuật càng hiện đại, sự chênh lệch giữa tư bản sử dụng và tư bản tiêu dùng càng lớn, thì sự phục vụ không công của tư liệu lao động càng lớn. Có thể minh họa điều đó bằng số liệu sau:

2.4. Đại lượng tư bản ứng trước

Trong công thức

M = m’.V

nếu m’ [tỷ suất giá trị thặng du] không thay đổi thì M [khối lượng giá trị thặng dư] chỉ có thể tăng khi V [tổng tư bản khả biến] tăng. Và, tất nhiên tư bản bất biến cũng phải tăng lên theo quan hệ tỷ lệ nhất định.

Do đó, muốn tăng khối lượng giá trị thặng dư phải tăng quy mô tư bản ứng trước.

Đại lượng tư bản ứng trước càng lớn thì quy mô sản xuất càng được mở rộng theo chiều rộng và theo chiều sâu.

Tóm lại, để nâng cao quy mô tích luỹ, cần khai thác tốt nhất lực lượng lao động xã hội, tăng năng suất lao động, sử dụng triệt để năng lực sản xuất của máy móc, thiết bị và tăng quy mô vốn đầu tư ban đầu.

 8910X.com

Bài liên quan: Tích lũy tư bản: Thực chất và các nhân tố quyết định?

Tích lũy tư bản là cách thức tạo ra nhiều giá trị thặng dư hơn cho nhà tư bản. Tính chất đầu tư được thực hiện bằng các lợi ích tìm kiếm được trước đó. Nhà tư bản trong hoạt động thực hiện để tìm kiếm thặng dư trên thị trường. Và rồi một phần thặng dư đó lại quay ngược trở lại đầu tư tìm kiếm thặng dư mới. Các giá trị nhà tư bản có thể tích lũy ngày một nhiều cũng phản ánh quy luật được thực hiện. Vậy “Tích lũy tư bản là gì? Bản chất và quy luật tích lũy tư bản?”. 

Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài trực tuyến 24/7: 1900.6568

1. Tích lũy tư bản là gì?

Tích lũy tư bản tiếng Anh là Capital formation.

Tích lũy tư bản mang bản chất của tích lũy thông thường. Với hoạt động được thực hiện trong sản xuất, kinh doanh của nhà tư bản. Đây là phần đầu tư ròng, bổ sung thêm vào khối lượng tư bản. Người ta còn gọi quá trình tích lũy tư bản là hình thành tư bản. Các hoạt động của nhà tư bản giúp tìm kiếm được giá trị thặng dư. Trong nhu cầu kinh doanh của mình, các giá trị này được sử dụng trong mục đích tìm kiếm những lợi ích mới. Giá trị mang vào tích lũy sau khi cân nhắc và sử dụng cho những nhu cầu tiêu dùng cần thiết.

Có thể thể hiện tích lũy tư bản với công thức sau:

Tích lũy tư bản = Giá trị thặng dư – Tiêu dùng cá nhân.

Các tiêu dùng cá nhân được hiểu theo nghĩa rộng là tất cả các chi tiêu cho nhu cầu của nhà tư bản. Nó thực hiện như với ý nghĩa không tìm kiếm lợi nhuận hay thặng dư mới. Trong khi phần tích lũy tư bản lại đóng góp với vai trò khác. Trong nhu cầu của nhà tư bản luôn muốn sản xuất hay kinh doanh để tìm kiếm lợi ích và thặng dư mới mà hiện tại xác định là lợi nhuận trong kinh doanh. Muốn tìm kiếm thặng dư, phải có những khoản vốn ban đầu với vai trò là chi phí. Do đó, các tích lũy tư bản phản ánh kết quả của đầu tư, đóng góp thêm vào khối lượng tư bản.

Tích lũy tư bản trong kinh tế chính trị Mác – Lênin.

Phản ánh tính chất biến một bộ phận giá trị thặng dư trở lại thành tư bản. Khi các giá trị đó được tham gia vào những hoạt động tìm kiếm giá trị thặng dư mới. Công việc này cũng chính là cách thức thực hiện lao động của nhà tư bản.

Xem thêm: Tích tụ tư bản là gì? Lý luận tích tụ tư bản và tập trung tư bản?

Nguồn gốc duy nhất của tư bản tích luỹ là giá trị thặng dư. Bởi dù các giải thích có như thế nào, xuất phát từ gốc của giá trị tư bản tích lũy vẫn đến từ thặng dư. Thặng dư lớn giúp nhà tư bản nâng cao chất lượng cuộc sống. Bên cạnh nhu cầu tìm kiếm thặng dư lớn hơn cho mình thông qua tính chất tái đầu tư. Và tư bản tích luỹ chiếm tỷ lệ ngày càng lớn trong toàn bộ tư bản. Quá trình tích lũy đã làm cho quyền sở hữu trong nền kinh tế hàng hóa biến thành quyền chiếm đoạt tư bản chủ nghĩa.

Động lực thúc đẩy tích luỹ tư bản là quy luật giá trị thặng dư và cạnh tranh. Nhà tư bản có thể thực hiện các hoạt động cho phép để sản xuất hay kinh doanh. Họ có thể mang đến việc phục vụ nhu cầu cho người tham gia trong thị trường. Lại giải quyết một bộ phận việc làm nhất định. Họ xứng đáng nhận về những lợi ích thông qua tổ chức hoạt động của mình, phản ánh qua giá trị thặng dư. Cạnh tranh vừa thúc đẩy cho giá trị phản ánh tốt hơn. Nhà tư bản muốn khai thác nhu cầu thị trường phải hoàn thiện mình hơn. Cũng chính là động lực cho những vận động tích cực trên thị trường.

2. Bản chất và quy luật tích lũy tư bản:

2.1. Bản chất:

Xuất phát từ lợi ích nhà tư bản mong muốn. 

Tích luỹ tư bản là biến một phần giá trị thặng dư thành tư bản phụ thêm [tư bản mới]. Các giá trị thông qua đầu tư sẽ mang đến các giá trị mới được sinh ra. Nếu xét ở thời điểm này, nó được xem là tư bản mới. Nhưng khi sử dụng nó để thực hiện đầu tư, nó lại đóng vai trò là tích lũy tư bản. Thông thường, các giá trị thặng dư sẽ được sử dụng một phần để tham gia vào các tích lũy mới.

Nhà tư bản mong muốn giàu lên với các nắm giữ lớn hơn cho giá trị thặng dư. Cho nên nhu cầu trong đầu tư luôn được thể hiện. Trong tính chất sản xuất hay kinh doanh, họ mua giá trị từ hàng hóa sức lao động của công nhân. Từ đó tiến hành công việc để tìm kiếm giá trị từ hàng hóa được tạo ra. Cũng chính các tính toán đó mà sau khi trừ các chi phí ban đầu, họ vẫn nhận về cho mình những giá trị thặng dư.

Tính liên tục và tái sản xuất.

Các lợi ích ổn định có thể được tìm kiếm khi sản xuất hay kinh doanh được tiến hành ổn định. Nhà tư bản với nhu cầu trong tiêu dùng hay tích lũy cũng không dừng lại. Do đó mà tái sản xuất là bản chất của tích lũy tư bản.

Tái sản xuất là quá trình sản xuất được lặp đi lặp lại không ngừng. Tính chất thực hiện hoạt động bên cạnh các lợi thế và tiềm năng mà nhà tư bản xác định. Đồng thời, với tham vọng tìm kiếm lợi ích, nhà tư bản cũng xây dựng chiến lược cho việc mở rộng quy mô. Điều này thể hiện với các đổi mới trong dây chuyền sản xuất, bằng việc thay thế các tư liệu sản xuất phù hợp. Các nhân công cũng cần thiết đáp ứng tiêu chí lao động ngày càng cao. Nó giúp cho các giá trị trả cho tiền lương được thực hiện hiệu quả. Từ đó mà giá trị thặng dư có thể kiếm về cho nhà tư bản là lớn hơn.

Xem thêm: Nền kinh tế thị trường là gì? Đặc điểm và nền kinh tế thị trường hiện đại?

Hướng đến tái sản xuất mở rộng.

Hình thức tiến hành của chủ nghĩa tư bản là tái sản xuất mở rộng. Trong tính chất sản xuất quan tâm đến nhiều yếu tố lâu dài và bền vững. Đây có thể là các yếu tố tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến thặng dư. Tuy nhiên đều mang đến hiệu quả và thuận lợi cho nhà tư bản khi thu hút được nhiều nhu cầu hơn. Bao gồm:

Tái sản xuất ra của cải vật chất, quan hệ sản xuất. Mang đến các đảm bảo cho nhu cầu ổn định và phát triển của con người. Trong đó còn làm mới phù hợp và hiệu quả cho việc thu về giá trị thặng dư.

Tái sản xuất sức lao động của con người. Thông qua các máy móc hiện đại thay thế sức lao động. Cũng như khai thác về trình độ kỹ thuật nhiều hơn. Nhờ vậy mà sức lao động được sử dụng hiệu quả và đảm bảo hơn.

Tái sản xuất môi trường sống của con người. Phản ánh với các điều kiện sống được nâng cao. Bên cạnh việc sử dụng và khai thác, tác động đến mô trường. Khắc phục những tác động đến môi trường mang đến tính chất xanh, sạch, đẹp.

2.2. Quy luật tích lũy tư bản:

Thực chất của tích luỹ tư bản là tư bản hoá giá trị thặng dư.

Quy luật này được thực hiện trong quá trình vận động và phát triển của nhà tư bản. Bên cạnh tính chất đầu tư của chủ nghĩa tư bản. Với mục tiêu của mình, nhà tư bản không cảm thấy hài lòng và duy trì thặng dư hiện tại. Bởi những thuận lợi hay quy mô phải luôn được ứng dụng và mang đến hiệu quả. Vừa khẳng định khả năng của nhà tư bản. Vừa giúp họ nhận được những giá trị xứng đáng với đầu tư và công sức của họ. Xét một cách cụ thể, tích luỹ tư bản là tái sản xuất ra tư bản với quy mô ngày càng mở rộng.

Chúng ta biết rằng, trong quy luật hoạt động của nhà tư bản. Các giá trị thặng dư sinh ra có thể được thực hiện cho các nhu cầu trong tiêu dùng. Bên cạnh những lợi ích còn lại được tham gia vào tiếp tục vào tìm kiếm thặng dư mới. Các giá trị ban đầu phải được tác động để kết quả đầu tư là một giá trị thặng dư mới lớn hơn nhiều lần. Quá trình được thực hiện bởi nhà tư bản được gọi là tư bản hóa giá trị thặng dư. Khi phần tích lũy được sử dụng để làm nguồn vốn cho những hoạt động sản xuất kinh doanh mới.

Xem thêm: Đoạn thị trường là gì? Giải thích và ví dụ về đoạn thị trường?

Thực hiện thông qua quá trình lao động. 

Nhà tư bản trong hoạt động của mình cần tạo ra hàng hóa để đáp ứng trên thị trường. Thông qua các tích lũy ban đầu để biến tư liệu sản xuất trở thành hàng hóa. Và hoạt động này sẽ được thực hiện ở nhiều công đoạn khác nhau với sự tham gia của người công nhân. Các chi phí đầu vào được xác định để đảm bảo co sở cho tìm kiếm giá trị thặng dư trên hàng hóa.

Người công nhân bán hàng hóa sức lao động của mình và nhận về lương thông qua lao động. Các giá trị tích lũy được tham gia vào một vòng chuyển hóa mới để tìm kiếm các giá trị thặng dư khác.

Kết luận:

Nguồn gốc duy nhất của tư bản tích lũy là giá trị thặng dư. Bởi vì xét với tính chất của nhu cầu tiêu dùng cơ bản, những giá trị còn lại từ tiêu dùng mới được tham gia vào sản xuất kinh doanh. Và nó chính là giá trị mà nhà tư bản tích lũy được. Tư bản tích lũy chiếm một tỷ lệ ngày càng lớn trong toàn bộ tư bản. Thể hiện cũng như khẳng định lợi ích to lớn nhà tư bản tìm kiếm được. Các tính chất thúc đẩy quy mô ngày càng lớn phản ánh trên cơ sở của khai thác nhu cầu ngày càng hiệu quả. Do đó các giá trị tích lũy luôn được phản ánh ngày càng cao.

C.Mác nói rằng: tư bản ứng trước chỉ là giọt nước trong dòng sông tích luỹ mà thôi. Bởi vì tính chất trong cân đối chi phí gốc ngày càng hiệu quả. Do đó thặng dư nhà tư bản có khả năng tìm kiếm ngày càng nhiều. Các giá trị tích lũy cũng được tăng lên khi nhà tư bản luôn có tham vọng trong tìm kiếm và khai thác các lợi ích bền vững. Đặc biệt khi nhà tư bản tổ chức hoạt động của mình hoàn toàn đáp ứng đòi hỏi. Giải quyết việc làm cho công nhân, làm tăng lên thu nhập cho họ để đáp ứng nhu cầu của tiêu dùng. Cũng như phát triển chung của nền kinh tế.

Video liên quan

Bài Viết Liên Quan

Chủ Đề