Nguyên nhân và hậu quả của lũ quét
– Biện pháp: + Xây dựng những công trình thủy lợi hợp lí, +Trồng và bảo vệ rừng đầu nguồn + Cần quy hoạch các điểm dân cư tránh các vùng có thể xảy ra lũ quét nguy hiểm, quản lí sử dụng đất đai hợp lí. – Nguyên nhân : Việc khai thác, chặt phá rừng nguyên sinh và rừng phòng hộ đã khiến nhiều cánh rừng trở nên trơ trụi. – Các kiểu khai thác khoáng sản từ thủ công đến công nghiệp và xây dựng các công trình lấn chiếm lòng suối, làm giảm hoặc thậm chí mất hành lang thoát lũ là nhân tố quan trọng tạo ra nguy cơ nứt núi, lở đất, lũ quét. – Xây dựng công trình hồ chứa, đập thủy điện không đủ an toàn tạo ra nguy cơ vỡ đập, gây ra dòng lũ quét nhân tạo, đe dọa cuộc sống của cư dân xung quanh. -Hậu quả : – Thiên tai ảnh hưởng với nhân họa tạo ra lũ lụt, lũ quét, sạt lở đất ngày càng nghiêm trọng hơn. – Nếu không thay đổi được tình trạng này thì lũ lụt, sạt lở vẫn tiếp tục, không thể có kết cục tốt đẹp hơn. Hậu quả nặng nề Báo cáo của Ban Chỉ đạo Phòng, chống lụt bão Trung ương cho thấy, từ năm 2000 đến 2015, đã xảy ra 250 đợt lũ quét, sạt lở ảnh hưởng tới các vùng dân cư, làm chết và mất tích 646 người, bị thương gần 351 người, hơn 9.700 căn nhà đổ trôi, hơn 100.000 căn nhà ngập, hư hại nặng; hơn 75.000 ha lúa và hoa màu bị ngập; hàng trăm ha đất canh tác vùi lấp; nhiều công trình giao thông, thủy lợi, dân sinh kinh tế hư hỏng nặng nề, tổng thiệt hại ước tính hơn 3.300 tỷ đồng…. Lũ quét, sạt lở đất thường xảy ra ở các tỉnh: Lào Cai, Hà Giang, Lai Châu, Sơn La, Cao Bằng, Bắc Kạn, Yên Bái, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Nam, Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lắk, Bình Thuận. Phân tích nguyên nhân xảy ra lũ quét và sạt lở đất cho thấy, ngoài yếu tố khách quan, còn do tác động của con người. Do sự chủ quan, bất cẩn, thiếu hiểu biết về thiên tai như: việc bạt núi mở đường chưa đáp ứng độ ổn định tạo nguy cơ sạt trượt; khai thác khoáng sản, gỗ, xây dựng công trình cơ sở hạ tầng gây cản trở, ách tắc đường thoát lũ; san lấp sông, suối để xây dựng công trình, nhà ở gây tắc nghẽn dòng chảy, các khu vực dòng suối co hẹp; do ý thức của người dân về phòng chống thiên tai còn chủ quan, bất cẩn trong khi có lũ. Bên cạnh đó, công tác tuyên truyền vận động, kiểm tra giám sát của chính quyền các cấp nhất là ở cơ sở chưa quyết liệt… Lập bản đồ khoanh vùng khu vực sạt lở đất, lũ quét Từ năm 2006 đến nay, Viện Khoa học Địa chất và Khoáng sản (Bộ TN&MT) đã triển khai đề án phân vùng cảnh báo nguy cơ sạt lở đất đá các vùng miền núi Việt Nam, các nhà khoa học của Viện đã ghi nhận tại 10 tỉnh miền núi phía Bắc, đang có khoảng 10.266 điểm nguy cơ sạt lở đất; trong đó, 2.110 điểm nguy cơ khối lượng trượt lớn, rất lớn và đặc biệt lớn. Hiện, Viện Khoa học Địa chất và Khoáng sản đã lập bản đồ hiện trạng trượt lở đất đá, bản đồ cấu trúc địa chất và bản đồ phân bố mưa cho 10 tỉnh miền núi phía Bắc, gồm: Lào Cai, Yên Bái, Hà Giang, Tuyên Quang, Bắc Kạn, Lai Châu, Điện Biên, Sơn La, Thanh Hóa, Nghệ An. Ông Trần Tân Văn, Viện trưởng Viện Khoa học Địa chất và Khoáng sản cho biết, trong giai đoạn đề án kéo dài đến năm 2020, cả bản đồ phân vùng trượt lở đất và lũ quét sẽ được xây dựng với tỷ lệ tăng dần, mức độ nghiên cứu chi tiết hơn để phục vụ cho chính quyền và người dân địa phương biết tại vùng họ đang sinh sống có xảy ra hiện tượng trượt lở đất hay không. “Trước mắt, để giảm được những nguy cơ do sạt lở đất, chúng ta phải có những thay đổi trong nhận thực cũng như hành động. Nhận thức về bão lũ thiên tai cần phải được đầy đủ. Trượt lở có thể xảy ra bất cứ lúc nào sau bão. Chính quyền địa phương cùng nhân dân phải nâng cao cảnh giác để giảm nhẹ tối đa thiệt hại” – Ông Văn khẳng định. Mặc dù các cơ quan chức năng đã nỗ lực cảnh báo các địa phương có biện pháp phòng tránh, nhưng sau mỗi cơn bão, vẫn còn tình trạng thiệt mạng do lũ quét, sạt lở đất ở nhiều địa phương. Đặc biệt, sau cơn bão số 3 vừa qua, sạt lở đất đã gây thiệt hại nặng về người và tài sản ở các tỉnh phía Bắc. Trước tình hình này, Phó Thủ tướng Chính phủ Trịnh Đình Dũng đã yêu cầu liên Bộ TN&MT, KH&ĐT, NN&PTNT phối hợp với các địa phương lập bản đồ chi tiết khu vực sạt lở đất, lũ quét để cảnh báo cho người dân. I. Đặt vấn đề cường độ lớn. Sự hình thành lũ quét có liên quan mật thiết với cường độ Lũ quét thường xuất hiện vào đầu mùa mưa. - Đông Nam gần như vuông góc với hướng gió mùa Đông Bắc - Tây Nam. Page 8 of 40 Mưa là nhân tố quyết định gây ra lũ quét, thường tập trung trong vài giờ 1giờ hoặc 2 giờ. Mưa với cường suất lớn có ý nghĩa quyết định trong sự hình không khí lạnh mạnh kết hợp với hoạt động của dải hội tụ nhiệt đới, tiếp sau kém, dễ xói mòn, sụt lở. Khi có mưa lớn, lũ quét kéo theo nhiều vật rắn: đá, Page 15 of 40 công khối lượng đất đá rất lớn, nhiều đoạn suối bị đất đá xô xuống gây co này vỡ, gây ra sóng lũ quét làm trôi 22 nhà, thiệt hại tài sản của 38 nhà khác, Ở Việt Nam cháy rừng là hiện tượng thường xuyên xảy ra, nhưng về thuỷ lợi, thuỷ điện. - Thượng nguồn sông Sre – Poc thuộc tỉnh Đaklak. |