Người có thu nhập trung bình cao năm 2024

Một quốc gia dễ mắc kẹt trong bẫy thu nhập trung bình là khi quốc gia đó có nền kinh tế đạt mức thu nhập trung bình nhất định nhưng không được xếp vào nhóm các quốc gia có thu nhập cao, trong khi các quốc gia khác đã đạt được những tiến bộ đáng kể.

Theo tiêu chuẩn của Ngân hàng Thế giới [WB], nền kinh tế có thu nhập trung bình thấp, sở hữu GDP bình quân đầu người từ 1.036-4.045 USD; nền kinh tế thu nhập trung bình cao, sở hữu GDP bình quân đầu người từ 4.046-12.535 USD và nhóm nền kinh tế thu nhập cao, có GDP bình quân đầu người trên 12.536 USD.

Tốc độ tăng trưởng GDP của Việt Nam thời gian qua thấp hơn các nước trong cùng thời kỳ đầu công nghiệp hóa. Ảnh: Nam Khánh.

Việt Nam từ năm 2008 đã đạt ngưỡng 1.000 USD/người/năm và tăng đều hàng năm nhưng luôn nằm trong giới hạn thu nhập trung bình thấp. Sau 14 năm, tức năm 2022, GDP bình quân đầu người của Việt Nam là 4.100 USD/năm.

Vì vậy, Việt Nam thuộc nhóm có nền kinh tế có thu nhập trung bình thấp suốt nhiều năm qua. Theo đánh giá của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, tăng trưởng kinh tế Việt Nam thời gian qua chưa đủ nhanh để thu hẹp khoảng cách phát triển, bắt kịp các quốc gia tiên tiến trong khu vực. Tốc độ tăng trưởng GDP thấp hơn các nước trong cùng thời kỳ đầu công nghiệp hóa. Nguy cơ rơi vào “bẫy thu nhập trung bình” là khá lớn.

Nhìn lại 50 năm qua, trên thế giới chỉ có một số rất ít quốc gia, có thể chuyển từ vị trí thu nhập trung bình lên vị trí thu nhập cao. Hàn Quốc là một ví dụ thành công nhất, đạt thu nhập bình quân đầu người 1.000 USD/năm vào năm 1977 và đến nay đạt 31.761 USD/năm.

Tại khu vực Đông Nam Á, Malaysia cùng có xuất phát điểm như Hàn Quốc, đạt ngưỡng thu nhập bình quân đầu người 1.000 USD/năm vào năm 1977, nhưng đến nay mới đạt 11.414 USD/năm. Thái Lan, đạt mức thu nhập bình quân đầu người 1.000 USD/người vào năm 1988 đến nay vẫn ở mức 7.500 USD/người.

Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng, thời gian trung bình để một quốc gia chuyển từ nước thu nhập trung bình thấp, lên thu nhập cao khoảng 30-40 năm.

Trong khi đó, quy hoạch tổng thể quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050, Việt Nam đặt ra kế hoạch đạt thu nhập bình quân đầu người khoảng 7.500 USD vào năm 2030 và đạt từ 27.000 - 32.000 USD vào năm 2050, trở thành một quốc gia phát triển, có thu nhập cao.

Nếu không tạo ra sự “phát triển thần kỳ” sẽ khó vượt qua bẫy thu nhập trung bình. Ảnh Hoàng Hà.

Vì vậy, các chuyên gia kinh tế đều nhận định đây là thời điểm quan trọng để Việt Nam tăng tốc để 30 năm nữa thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình và vươn lên thành quốc gia có thu nhập cao. Đây là cơ hội cực kỳ quan trọng đối với phát triển kinh tế của đất nước. Nếu không tạo ra sự “phát triển thần kỳ” sẽ khó vượt qua bẫy thu nhập trung bình, khó vươn lên quốc gia phát triển. Câu chuyện phát triển thần kì của Hàn Quốc và Nhật Bản suốt 50 năm qua đã minh chứng cho điều đó.

Việt Nam để có sự phát triển thần kì, cần tập trung thực hiện tốt 6 ưu tiên trong thời gian tới. Đó là, nâng cao giá trị gia tăng của hàng xuất khẩu và đẩy mạnh thương mại dịch vụ [tức là tăng mức độ phức hợp của quy trình sản xuất và tham gia nhiều hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu]; Đẩy nhanh số hoá nền kinh tế, giúp đất nước bứt phá; Chuyển từ “tăng trưởng bằng mọi giá” sang “xây dựng nền kinh tế xanh và bền vững”; Đẩy mạnh đầu tư cơ sở hạ tầng, bằng cách cải thiện chất lượng chi tiêu công và tăng cường các giải pháp của khu vực tư nhân; Cân bằng sự ổn định của ngành ngân hàng với việc mở rộng tài chính toàn diện và phát triển thị trường vốn về chiều sâu; Chuyển từ nỗ lực giảm nghèo từng phần sang một chương trình bảo trợ xã hội trên toàn quốc.

Muốn thực hiện tốt những ưu tiên kể trên, điều quan trọng nhất là phải đẩy mạnh cải cách thể chế. Dựa trên thực tiễn ở Việt Nam và tham khảo những cách làm tốt nhất trên thế giới, một nền tảng gồm 5 cải cách thể chế cần thúc đẩy đó là: Khung định chế vững chắc; Thủ tục hành chính tinh giản; Công cụ thị trường thông minh; Tăng cường hiệu lực thực thi và Quy trình có sự tham gia, tham vấn.

Nhìn lại lịch sử, trong lúc cấp bách Việt Nam đã có quyết định táo bạo chuyển đổi nền kinh tế. Chẳng hạn như câu chuyện khoán hộ trong nông nghiệp vào năm 1981, hay chuyển nền kinh tế từ kế hoạch hóa tập trung sang thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa vào năm 1986.

Đứng trước sự cấp bách luôn tạo áp lực để đổi mới đất nước. Một nhà tri thức đã từng nói, áp lực thay đổi luôn đến từ những nhà lãnh đạo xuất chúng. Chỉ có như vậy mới tạo ra được bứt phá đưa đất nước vươn lên cùng các quốc gia văn minh, phát triển.

Ngày 1/3/2023, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân phối hợp với Viện Fraser Institute [Canada] tổ chức buổi toạ đàm đối thoại chính sách: “Đổi mới thể chế kinh tế tại Việt Nam, hướng tới nước thu nhập có trung bình cao trước năm 2030” nhằm phát hiện những nút thắt về thể chế kinh tế thị trường và đề xuất chính sách nhằm giúp Việt Nam tiếp tục duy trì được đà tăng trưởng khi trở thành nước có thu nhập trung bình cao.

LỘ DIỆN NHỮNG THÁCH THỨC

Theo ông Phạm Hồng Chương, Hiệu trưởng Trường Đại học Kinh tế Quốc dân, Việt Nam từng thuộc nhóm quốc gia kém phát triển nhưng đã vươn lên quốc gia có quy mô GDP trong nhóm 30 nền kinh tế lớn nhất thế giới và ngày càng hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế toàn cầu.

Chính những nỗ lực xây dựng thể chế kinh tế thị trường trong suốt chặng đường vừa qua đã góp phần quan trọng vào việc đưa Việt Nam từ một nước có thu nhập bình quân đầu người chỉ khoảng 200 USD vào đầu những năm 1990 tăng lên 3.590 USD vào năm 2021, theo số liệu của Ngân hàng thế giới [WB]. Với mức thu nhập bình quân đầu người như hiện nay, Việt Nam có khả năng gia nhập nhóm nước có thu nhập trung bình cao trước năm 2030 nếu không vướng bẫy thu nhập trung bình thấp.

Ông Phạm Hồng Chương, Hiệu trưởng Trường Đại học Kinh tế Quốc dân phát biểu tại toạ đàm.

"Kinh nghiệm của Việt Nam từ những lần suy giảm kinh tế trước đây, từ khủng hoảng tài chính châu Á 1997-1998 hay đại suy giảm toàn cầu 2008-2009, cho thấy không phải các chương trình kích cầu, đầu tư công mang lại thành tựu phát triển kinh tế trong những năm tiếp theo mà chính là cải cách thể chế kinh tế mới là chìa khoá", ông Chương nhấn mạnh.

Tuy nhiên, điều đáng quan ngại là sự vận hành của nền kinh tế thị trường Việt Nam hiện nay đang bộc lộ một số hạn chế.

Ông Chương chỉ rõ Nhà nước vẫn còn can thiệp nhiều vào cơ chế giá thị trường như giá xăng dầu, giá điện, giá vé máy bay, giá y tế... "Những can thiệp này đã bộc lộ nhiều bất cập trong thời gian vừa qua như thiếu hụt xăng dầu, hãng hàng không quốc gia và tập đoàn điện lực bị thua lỗ nặng nề, các bệnh viện công rơi vào tình trạng thu không đủ chi...", Hiệu trưởng Trường Đại học Kinh tế Quốc dân nêu rõ bất cập.

Khu vực doanh nghiệp nhà nước vẫn còn lớn, trong khi tiến độ cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước trong những năm vừa qua bị chững lại.

Nhiều loại thị trường hiện đại chưa được hình thành hoặc còn hạn chế sự tham gia của người dân như các thị trường ngoại hối, thị trường vàng phái sinh, thị trường hàng hoá phái sinh.

Cùng với đó, việc bảo vệ quyền sở hữu vẫn chưa được tốt. Cụ thể, đất đai nhiều nơi vẫn bị thu hồi phục vụ mục đích kinh tế của các tập đoàn bất động sản tư nhân; việc bảo vệ nhà đầu tư thiểu số trong doanh nghiệp vẫn chưa được chú trọng đúng mức; chưa xây dựng được khung thể chế bảo vệ các loại tài sản mới như tiền kỹ thuật số...

Trong khi đó, hệ thống các văn bản pháp luật vẫn còn chồng chéo, khiến động kinh doanh và cán bộ quản lý luôn đối diện nguy cơ vi phạm pháp luật; hiểu sai các quy định, dẫn đến chậm trễ xử lý các thủ tục hành chính, gây khó khăn cho doanh nghiệp. Trường hợp các doanh nghiệp bất động sản gần đây là một ví dụ, rất nhiều dự án không thể triển khai vì vướng thủ tục pháp lý, bị treo nhiều năm, không được giải quyết.

Chưa kể, từ phía bên ngoài, do hậu quả của các chương trình chi tiêu khổng lồ trong giai đoạn đại dịch Covid-19 bùng phát, hầu hết các nước trên thế giới đều đang phải đối mặt với sức ép lạm phát chưa từng thấy. Vì vậy, ngân hàng trung ương các quốc gia đều nâng mạnh lãi suất điều hành, buộc Việt Nam phải tăng lãi suất, thắt chặt tiền tệ. Do đó, triển vọng phát triển kinh tế Việt Nam trong giai đoạn tới bị ảnh hưởng rõ rệt.

NGUY CƠ ĐỐI DIỆN BẪY THU NHẬP TRUNG BÌNH

Cũng theo các chuyên gia, đa số các quốc gia thế giới khi chạm đến ngưỡng thu nhập trung bình cao thì tốc độ tăng trưởng chậm dần, nhiều bất ổn kinh tế xuất hiện mang tính cơ cấu rất khó giải quyết dứt điểm, trong khi lại phải đối mặt với nhiều vấn đề về già hoá dân số, an sinh xã hội, suy thoái môi trường, cạn kiệt tài nguyên…

Hệ quả là chỉ rất ít các quốc gia vượt qua được bẫy thu nhập trung bình để trở thành nước phát triển, có thu nhập cao.

Kinh nghiệm của thế giới cho thấy, trong số 101 quốc gia có mức thu nhập trung bình trong thập niên 1960, chỉ có 13/101 quốc gia trở thành nước có thu nhập cao vào năm 2008. Thực tiễn này cho thấy để biến ước vọng thành hiện thực, Việt Nam cần phải tiếp tục con đường đã chứng tỏ mang lại thành công cho Việt Nam trong hơn 30 năm qua, đó là phát triển nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế.

Bẫy thu nhập trung bình là khái niệm được dùng để chỉ những quốc gia có thời gian tăng trưởng nhanh và sớm nhanh chóng đạt tới ngưỡng thu nhập trung bình nhưng đáng tiếc, sau đó thất bại trong vượt qua ngưỡng thu nhập trung bình để tiến lên trở thành các nền kinh tế thu nhập cao.

Nhìn lại nỗ lực cải cách, phát triển nền kinh tế thị trường từ năm 1986 tới nay, Việt Nam liên tục xây dựng và điều chỉnh hệ thống pháp luật của mình để phù hợp với các hiệp định thương mại tự do mà Việt Nam đã ký kết.

Trong giai đoạn từ năm 2011 đến nay, Chính phủ đã kiên trì cải cách thể chế kinh tế thị trường theo hướng ưu tiên ổn định kinh tế vĩ mô, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, tăng cường hội nhập quốc tế đã mang đến cho Việt Nam một thể trạng kinh tế khoẻ mạnh hơn bao giờ hết, như dự trữ ngoại hối ở mức cao, tỷ lệ nợ công/GDP ở mức thấp, đầu tư nước ngoài, kim ngạch xuất, nhập khẩu liên tục năm sau hơn năm trước…

Cùng với đó, kể từ năm 2014, Chính phủ hàng năm đều ban hành Nghị quyết 19, sau này đổi thành Nghị quyết 02, để đưa ra những nhiệm vụ, giải pháp nhằm cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia của Việt Nam.

Để khắc phục những khó khăn kép từ những bất cập nội tại và thách thức bủa vây kinh tế toàn cầu, ông Phạm Hồng Chương, cho rằng trong bối cảnh Việt Nam chuẩn bị gia nhập nhóm các nước có thu nhập trung bình cao và với mục tiêu đến năm 2045 trở thành nước phát triển, có thu nhập cao, việc cần phải tiếp tục đổi mới thể chế kinh tế trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết.

Theo đó, đây là thời điểm quan trọng để Việt Nam xem xét, đánh giá thể chế kinh tế thị trường, rà soát thể chế kinh tế vĩ mô của Việt Nam như: khung khổ chính sách tín dụng, tỷ giá, tài khoá… và các thể chế liên quan đến các thị trường nhân tố, đặc biệt là thị trường vốn, để tìm ra các nút thắt có thể cản trở sự phát triển của Việt Nam khi trở thành nước thu nhập trung bình cao.

Đồng ý quan điểm trên, ông Đinh Tuấn Minh, Giám đốc nghiên cứu Trung tâm nghiên cứu giải pháp thị trường cho các vấn đề kinh tế - xã hội [MASSEI], nhìn nhận trong bối cảnh hiện nay, nền kinh tế sau một quãng thời gian phát triển và đặc biệt sau đại dịch Covid, mọi hoạt động dường như đang chững lại và tạo ra một bầu không khí tương đối bi quan về triển vọng nền kinh tế Việt Nam trong giai đoạn tiếp theo.

Vì vậy, "việc tìm được những nút thắt và tháo gỡ được thì có thể sẽ tạo ra một động lực phát triển kinh tế mới mà Việt Nam đã làm được trong những giai đoạn trước đây, đó chính là những cải cách rất mạnh mẽ về thể chế kinh tế thị trường", ông Minh chỉ rõ. Chỉ khi thể chế kinh tế mạnh mới có thể tiếp tục duy trì được đà tăng trưởng và từ đó, đạt được khát vọng đến năm 2045, Việt Nam trở thành một nước có thu nhập cao, phát triển và hiện tại.

NHỮNG ƯU TIÊN TRONG CẢI CÁCH THỂ CHẾ

Chia sẻ thêm dựa trên nghiên cứu về bộ chỉ số tự do kinh tế toàn cầu, Giám đốc MASSEI, nhấn mạnh hai điểm Việt Nam còn yếu và cần ưu tiên quan tâm trong cải cách thể chế.

Một là, duy trì đồng tiền tốt bằng cách tiếp tục kiên trì ổn định vĩ mô, đảm bảo lạm phát ổn định ở mức 3-4% trong những năm vừa qua. Bên cạnh đó, cần nghiên cứu xem xét lại chế độ tỷ giá hối đoái, cho phép nhà đầu tư cá nhân tham gia thị trường ngoại hối tại các sàn giao dịch, từ đó cải thiện tiêu chí “tự do sở hữu tài khoản ngoại tệ tại ngân hàng”.

Hai là, tự do thương mại quốc tế. Cần rà soát lại các hàng rào phi thuế quan theo hướng rõ ràng, minh bạch và ổn định; kiên trì cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực hải quan để giảm chi phí thời gian liên quan đến các thủ tục bắt buộc. Đồng thời, rà soát lại các quy định về kiểm soát vốn, để thị trường vốn của Việt Nam hấp dẫn hơn nữa nhà đầu tư nước ngoài...

Chia sẻ kinh nghiệm thế giới, TS. Fred McMahon, Trưởng nhóm nghiên cứu về tự do kinh tế tại Viện Fraser [Canada], cũng nhấn mạnh về thành tố tự do thương mại toàn cầu, tự do kinh tế sẽ tạo động lực vượt "bẫy" thu nhập trung bình.

Theo bảng phân nhóm năm 2020 của WB, các quốc gia được phân thành 4 nhóm tương ứng với mức thu nhập bình quân đầu người.

Cụ thể, nhóm nền kinh tế thu nhập thấp với thu nhập bình quân đầu người ở dưới mức 1.035 USD; nhóm nền kinh tế có thu nhập trung bình thấp với mức thu nhập bình quân đầu người từ 1.036 USD - 4.045 USD; nhóm nền kinh tế thu nhập trung bình cao với mức thu nhập bình quân đầu người từ 4.046 USD - 12.535 USD; nhóm nền kinh tế thu nhập cao với mức thu nhập bình quân đầu người trên 12.536 USD.

Chủ Đề