Nghị quyết hướng dẫn phạm tội liên tục

07/06/2019 16:08 | 1828 | 0

     Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP ngày 25/12/2001 của TAND tối cao, Viện KSND tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp hướng dẫn áp dụng một số quy định tại chương XIV “Các tội xâm phạm sở hữu” của BLHS năm 1999 đã quy định các hành vi xâm phạm sở hữu được thực hiện một cách liên tục, kế tiếp nhau về mặt thời gian thì trị giá tài sản của các lần phạm tội được cộng lại để làm căn cứ truy cứu trách nhiệm hình sự.

       Theo quy định tại khoản 2 Điều 52 BLHS năm 2015 quy định về các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: “Các tình tiết đã được Bộ luật này quy định là dấu hiệu định tội hoặc định khung hình phạt thì không được coi là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự”.

       Về nhận thức và thực tiễn áp dụng pháp luật của các Kiểm sát viên và Thẩm phán từ cấp sơ thẩm đến cấp phúc thẩm trước đây đều có sự thống nhất cao những quy định trên.

       Ví dụ: Nguyễn Văn A 02 lần phạm tội trộm cắp liên tục, mỗi lần số tiền trộm cắp là 30.000.000 đồng. Tổng số tiền chiếm đoạt của 02 lần trộm cắp là 60.000.000 đồng, nên Nguyễn Văn A bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo điểm a khoản 2 điều 173 BLHS năm 2015. Do trị giá tài sản 02 lần trộm cắp đã được cộng lại để làm căn cứ truy cứu trách nhiệm hình sự, nên hành vi 02 lần phạm tội của A không được coi tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo điểm g khoản 1 Điều 52 BLHS năm 2015.

       Tuy nhiên, ngày 03/4/2019, TAND tối cao ban hành Công văn số 64/TANDTC-PC về việc thông báo kết quả giải đáp trực tuyến một số vướng mắc về hình sự, dân sự và tố tụng hành chính, tại điểm 4 phần I - Hình sự giải thích: Trường hợp một người thực hiện nhiều lần cùng loại hành vi phạm tội sở hữu, mà trị giá tài sản của các lần phạm tội đã được cộng lại để làm căn cứ xử lý trách nhiệm hình sự theo tình tiết tăng nặng định khung, thì còn bị áp dụng thêm tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “Phạm tội 02 lần trở lên”.

       Như ví dụ nêu trên thì Nguyễn Văn A ngoài việc bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo điểm a khoản 2 Điều 173 BLHS năm 2015 thì A còn bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là “Phạm tội 02 lần trở lên” theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 BLHS năm 2015.

       Tại nội dung hướng dẫn lập luận tại điểm 4 phần I: Nếu chỉ xem xét trị giá tài sản để áp dụng tình tiết định khung “Chiếm đoạt tài sản có trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng”, mà không căn cứ vào nhân thân và thái độ chấp hành pháp luật của người phạm tội để áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “Phạm tội 02 lần trở lên” thì người phạm tội có thể được hưởng án treo, như vậy sẽ không nghiêm và không công bằng so với trường hợp một người phạm tội 02 lần, mỗi lần phạm tội trị giá tài sản là 2.000.000 đồng, bởi trong trường hợp này người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 1 Điều 173 BLHS năm 2015 và bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “Phạm tội 02 lần trở lên” theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 BLHS năm 2015. Đồng thời trong trường hợp này người phạm tội không được hưởng án treo theo quy định tại Nghị Quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15 tháng 3 năm 2018 của TAND tối cao hướng dẫn áp dụng điều 65 của BLHS về án treo [điểm 5 Điều 3]. Đây là nội dung hoàn toàn mới với nhận thức của các người tiến hành tố tụng.

       Theo quan điểm của tác giả, việc hướng dẫn như trên không đúng với quy định tại khoản 2 Điều 52 BLHS năm 2015, bởi sẽ gây bất lợi cho người phạm tội, cụ thể bị cáo đã bị áp dụng tình tiết tăng nặng định khung hình phạt, khi áp dụng thêm tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “Phạm tội 02 lần trở lên”, về nguyên tắc bị cáo phải chịu thêm mức hình phạt khi lượng hình. Để tránh trường hợp vận dụng pháp luật tùy tiện và không trái với quy định của Nghị Quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15 tháng 3 năm 2018 của TAND tối cao hướng dẫn áp dụng Điều 65 của BLHS năm 2015 về án treo, chỉ cần hướng dẫn: Trường hợp một người thực hiện nhiều lần cùng loại hành vi phạm tội sở hữu, mà trị giá tài sản của các lần phạm tội đã được cộng lại để làm căn cứ xử lý trách nhiệm hình sự theo tình tiết tăng nặng định khung, thì không áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “ Phạm tội 02 lần trở lên” theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 BLHS năm 2015. Nhưng khi xem xét đánh giá các tình tiết của vụ án thì phải xác định người phạm tội có tình tiết “ Phạm tội 02 lần trở lên” [Lưu ý đây là tình tiết chứ không phải là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự]. Như vậy vừa đảm bảo thực hiện đúng quy định tại khoản 2 Điều 52 BLHS năm 2015 và vẫn bảo đảm về đường lối xử lý là không cho người phạm tội được hưởng án treo.

       Trên đây là quan điểm của tác giả, rất mong nhận được ý kiến trao đổi của đồng nghiệp và bạn đọc.

                                         Phan Văn Đức – Viện KSND huyện Quốc Oai

Về tình tiết “phạm tội có tính chất chuyên nghiệp” quy định tại điểm b khoản 1 Điều 48 và một số điều luật trong Phần các tội phạm của BLHS năm 1999 đã được hướng dẫn cụ thể tại tiểu mục 5 Nghị quyết số 01/2006/NQ-HĐTP ngày 12 tháng 5 năm 2006 của Hội đồng thẩm phán TANDTC [viết tắt là Nghị quyết số 01/2006] như sau:

“5. Về tình tiết “phạm tội có tính chất chuyên nghiệp” quy định tại điểm b khoản 1 Điều 48 và một số điều luật trong Phần các tội phạm của BLHS

5.1. Chỉ áp dụng tình tiết “phạm tội có tính chất chuyên nghiệp” khi có đầy đủ các điều kiện sau đây:

a. Cố ý phạm tội từ năm lần trở lên về cùng một tội phạm không phân biệt đã bị truy cứu trách nhiệm hình sự hay chưa bị truy cứu trách nhiệm hình sự, nếu chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc chưa được xóa án tích;

b. Người phạm tội đều lấy các lần phạm tội làm nghề sinh sống và lấy kết quả của việc phạm tội làm nguồn sống chính.

Ví dụ: A là một người không nghề nghiệp, chuyên sống bằng nguồn thu thập từ việc phạm tội. Trong một thời gian, A liên tiếp thực hiện năm vụ trộm cắp tài sản [tài sản chiếm đoạt được trong mỗi vụ có giá trị từ năm trăm ngàn đồng trở lên]. Trong trường hợp này, A bị truy cứu trách nhiệm hình sự và phải bị áp dụng tình tiết định khung hình phạt “phạm tội có tính chất chuyên nghiệp”.

5.2. Khi áp dụng tình tiết “phạm tội có tính chất chuyên nghiệp”, cần phân biệt:

a. Đối với trường hợp phạm tội từ năm lần trở lên mà trong đó có lần phạm tội đã bị kết án, chưa được xóa án tích thì tùy từng trường hợp cụ thể mà người phạm tội có thể bị áp dụng cả ba tình tiết là “phạm tội nhiều lần”, “tái phạm” [hoặc “tái phạm nguy hiểm”] và “phạm tội có tính chất chuyên nghiệp”.

Ví dụ: B đã bị kết án về tội “trộm cắp tài sản”, nhưng chưa chấp hành hình phạt hoặc sau khi chấp hành xong hình phạt, trong một thời gian, B lại liên tiếp thực hiện bốn vụ trộm cắp tài sản [tài sản chiếm đoạt được trong mỗi vụ có giá trị từ năm trăm ngàn đồng trở lên]. Trong trường hợp này, B phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự và phải bị áp dụng ba tình tiết tăng nặng là “phạm tội nhiều lần”, “tái phạm” [hoặc “tái phạm nguy hiểm”] và “phạm tội có tính chất chuyên nghiệp”.

b. Đối với tội phạm mà trong điều luật có quy định tình tiết “phạm tội có tính chất chuyên nghiệp” là tình tiết định khung hình phạt thì không được áp dụng tình tiết đó là tình tiết tăng nặng tương ứng quy định tại Điều 48 của BLHS. Trường hợp điều luật không có quy định tình tiết này là tình tiết định khung hình phạt thì phải áp dụng là tình tiết tăng nặng tương ứng quy định tại Điều 48 của BLHS.”

Theo hướng dẫn của nghị quyết trên thì “phạm tội có tính chất chuyên nghiệp” được hiểu là người phạm tội cố ý 05 lần thực hiện tội phạm trở lên [không phân biệt đã bị truy cứu trách nhiệm hình sự hay chưa bị truy cứu trách nhiệm hình sự, nếu chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc chưa được xóa án tích] và người phạm tội đều lấy các lần phạm tội làm nghề sinh sống, lấy kết quả của việc phạm tội làm nguồn sống chính. Việc hướng dẫn như trên để xử lý người phạm tội có tính chất chuyên nghiệp là rất khó khăn vì chứng minh được bị cáo 05 lần phạm tội là không khó nhưng chứng minh bị cáo lấy các lần phạm tội đó làm nghề sinh sống và lấy kết quả của việc phạm tội làm nguồn sống chính là rất khó.

Theo BLHS năm 2015 thì tình tiết “phạm tội có tính chất chuyên nghiệp” được quy định tại điểm b khoản 1 Điều 52 BLHS năm 2015 và một số điều luật trong Phần các tội phạm. Sau khi BLHS năm 2015 có hiệu lực cho đến nay, chưa có văn bản nào hướng dẫn thay thế Nghị quyết số 01/2006 trong đó có quy định thế nào là phạm tội có tính chất chuyên nghiệp.

Tuy nhiên tại điểm 3 Điều 5 Nghị quyết số 03/2019/NQ-HĐTP ngày 24/5/2019 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC [Nghị quyết 03/2019] hướng dẫn áp dụng Điều 324 BLHS 2015 về tội rửa tiền thì tình tiết “Có tính chất chuyên nghiệp” quy định tại điểm d khoản 2 Điều 324 BLHS 2015 được hướng dẫn như sau:
“3. Có tính chất chuyên nghiệp quy định tại điểm d khoản 2 Điều 324 của Bộ luật Hình sự là trường hợp người phạm tội thực hiện hành vi rửa tiền từ 05 lần trở lên [không phân biệt đã bị truy cứu trách nhiệm hình sự hay chưa bị truy cứu trách nhiệm hình sự, nếu chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc chưa được xóa án tích] và người phạm tội lấy khoản lợi bất chính thu được từ việc rửa tiền làm nguồn thu nhập.”

So sánh với hướng dẫn của Nghị quyết số 01/2006 với Nghị quyết số 03/2019, ta thấy điểm giống nhau là người phạm tội phải cùng thực hiện một tội phạm 05 lần trở lên [không phân biệt đã bị truy cứu trách nhiệm hình sự hay chưa bị truy cứu trách nhiệm hình sự, nếu chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc chưa được xóa án tích]; điểm khác nhau là Nghị quyết số 01/2006 thì người phạm tội đều lấy các lần phạm tội làm nghề sinh sống và lấy kết quả của việc phạm tội làm nguồn sống chính còn theo Nghị quyết số 03/2019 thì chỉ cần người phạm tội lấy khoản lợi bất chính thu được từ việc phạm tội làm nguồn thu nhập.
Nghị quyết số 01/2006 đã hết hiệu lực thi hành [theo khoản 4 Điều 154 Luật Ban hành văn bản], tuy nhiên việc hướng dẫn của Nghị quyết số 03/2019 thì chỉ hướng dẫn về tội “rửa tiền” quy định tại Điều 324 BLHS 2015; cũng chưa có văn bản nào hướng dẫn về tình tiết “phạm tội có tính chất chuyên nghiệp” được quy định tại điểm b khoản 1 Điều 52 BLHS năm 2015 và một số điều luật trong Phần các tội phạm.

Do đó rất mong liên ngành tư pháp trung ương sớm có hướng dẫn về tình tiết này để các cơ quan pháp luật áp dụng thống nhất.

Video liên quan

Chủ Đề