Hậu quả và xử lý giao kết hợp đồng

Hậu quả pháp lý khi hợp đồng vô hiệu? Xử lý hậu quả pháp lý khi hợp đồng vô hiệu theo quy định của pháp luật dân sự Việt Nam?

Hậu quả thể được hiểu kết quả không hay về sau. Như vậy, hậu quả trước hết phải một kết quả kết quả đó phải xảy ra từ một sự kiện, một hành nào đó hậu quả hành vi hay sự kiện đó phải có mối quan hệ nhân quả với nhau

Trong khoa học pháp , hậu quả dùng để chỉ những hành vi, sự kiện gây ra bất lợi cho nhân hay pháp nhân. Người gây ra hậu quả phải chịu hậu quả pháp nhất định nhưng phải được các nhà làm luật xác định hay dữ liệu mới làm phát sinh hậu quả pháp . Một hành vi trái pháp luật thể gánh chịu hậu quả pháp của một ngành luật hoặc nhiều ngành luật khác nhau. dụ, như hành vi lừa dối trong giao kết hợp đồng thì hậu quả thể hợp đồng bị tuyên bố hiệu giải quyết hậu quả pháp của hợp đồng hiệu theo quy định của pháp luật dân sự nhưng nếu hành vi lừa dối này đủ yếu tố cấu thành tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo quy định của ngành luật hình sự thì hậu quả thể vừa xử theo pháp luật hình sự, vừa xử theo pháp luật dân sự

Mặc thuật ngữ hậu quả pháp được sử dụng rất rộng rãi nhưng chưa một ngành luật nào đưa ra khái niệm về hậu quả pháp lý cụ thể chỉ đi sâu vào nội dung của hậu quả pháp

Như đã biết, “hợp đồng căn cứ pháp phổ biến làm phát sinh các quyền nghĩa vụ dân sự. Hợp đồng bị hiệu thể nhiều do khác nhau, tức do vi phạm các điều kiện để hợp đồng hiệu lực khác nhau. Mỗi loại điều kiện hiệu lực của hợp đồng đặc trưng riêng. Chính vậy, về nguyên tắc, bên cạnh hậu quả pháp chung khi hợp đồng hiệu [như hợp đồng không hiệu lực kể từ ngày , các bên hoàn trả cho nhau những đã nhận...] còn những hậu quả pháp đặc thù, chỉ đặc trưng cho loại hợp đồng hiệu đó [dụ bồi thường thiệt hại] đương nhiên tính đặc thù này phải được thể hiện trong pháp luật. ràng, hậu quả pháp khi hợp đồng hiệu do bị lừa dối không thể hoàn toàn giống với hậu quả pháp khi hợp đồng hiệu những do khác. Trong khi đó, BLDS năm 1995, BLDS năm 2005 cả BLDS năm 2015 điều quy định hậu quả pháp khi hợp đồng hiệu chung cho tất cả các trường hợp

Một hợp đồng kinh tế bị coi hiệu khi hợp đồng kinh tế đó kết trái với quy định của pháp luật. Khi các nội dung về quyền nghĩa vụ của các bên được xác lập trái với những quy định của pháp luật thì không hiệu lực thực hiện. thể thấy rằng, hợp đồng cũng một loại giao dịch trong điều kiện luật không quy định riêng về hậu quả pháp lý khi hợp đồng hiệu, do đó, hợp đồng tuân theo các quy định chung về hậu quả pháp của giao dịch hiệu trong trường hợp hợp đồng bị tuyên bố hiệu. Bởi vậy, Điều 131 của BLDS năm 2015 quy định về hậu quả pháp của giao dịch dân sự hiệu, theo đó, Điều 131 của BLDS năm 2015 quy định như sau:

“1. Giao dịch dân sự vô hiệu không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm giao dịch được xác lập.

2. Khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận. Trường hợp không thể hoàn trả được bằng hiện vật thì trị giá thành tiền để hoàn trả.

3. Bên ngay tình trong việc thu hoa lợi, lợi tức không phải hoàn trả lại hoa lợi, lợi tức đó.

4. Bên có lỗi gây thiệt hại thì phải bồi thường.

5. Việc giải quyết hậu quả của giao dịch dân sự vô hiệu liên quan đến quyền nhân thân do Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định.”

Xem thêm: Hướng dẫn đấu thầu qua mạng, quy trình lựa chọn nhà thầu qua mạng

Như vậy, theo quy định tại khoản 1, khoản 2, Điều 131 của BLDS năm 2015 thì khi hợp đồng hiệu sẽ không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền nghĩa vụ của các bên kể từ thời điểm giao dịch được xác lập. Điều đó nghĩa nếu việc kết hợp đồng nhằm làm phát sinh quyền nghĩa vụ thì khi hợp đồng hiệu, những thỏa thuận về quyền nghĩa vụ trong hợp đồng sẽ không giá trị pháp , không ràng buộc các bên. dụ, hai bên xác lập hợp đồng mua nhà nếu hợp đồng này hiệu thì bên bán không phải giao nhà, bên mua không quyền được nhận nhà như thỏa thuận trong hợp đồng không nghĩa vụ giao tiền cho bên bán nhà

Khi hợp đồng bị hiệu, nếu các bên chưa thực hiện hợp đồng thì không được thực hiện nữa, nếu hợp đồng đã được thực hiện thì sẽ khôi phục lại tình trạng ban đầu của hợp đồng, các bên hoàn trả cho nhau những đã nhận. Tuy nhiên, trên thực tế những trường hợp các bên đã thực hiện hợp đồng, khi hợp đồng bị tuyên bố hiệu thì đối tượng của hợp đồng, giấy tờ... các bên trao cho nhau theo thỏa thuận trong hợp đồng đã những biến động, không còn tồn tại hoặc những biến đổi không thể khôi phục lại tình trạng ban đầuđể hoàn trả.

Trong trường hợp này, theo quy định tại khoản 2, Điều 131 của BLDS năm 2015 thì sẽ xác định giá trị của hiện vật đó hoàn trả bằng tiền. Việc BLDS năm 2015 quy định Khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những đã nhậnquy định tính chất nguyên tắc chung, phải hiểu một cách linh hoạt chứ không nên áp dụng một cách máy móc như trước đây, việc xử hậu quả của hợp đồng phải phù hợp với tính chất của hợp đồng.

dụ: hợp đồng thuê nhà giữa ông X ông Y theo thỏa thuận thời hạn thuê 5 năm, giá thuê mỗi năm 100.000.000đ, đưa trước một năm, thời hạn giao tiền 10 ngày kể từ ngày nhận được tài sản thuê. Hai bên đã thực hiện hợp đồng, tức bên thuê đã nhận nhà, bên cho thuê đã nhận số tiền 100.000.000đ tiền thuê nhà của một năm. Hợp đồng thực hiện được 6 tháng, bên thuê đang sử dụng tài sản thuê để làm địa điểm kinh doanh thì hợp đồng thuê nhà này bị tuyên bố hiệu do lừa dối. Trong trường hợp này, nếu hiểu áp dụng một cách máy móc quy định này sẽ bên thuê phải trả lại tài sản thuế căn nhà, bên cho thuê phải trả lại số tiền 100.000.000đ đã nhận.

Tuy nhiên, trong trường hợp này không thể xử buộc bên cho thuê trả lại 100.000.000đ để nhận lại tài sản, bên thuê trả lại nhà nhận lại 100.000.000đ, cần xử theo hướng tuyên bố hợp đồng thuê nhà hiệu do lừa dối, bên thuê trả lại tài sản cho bên cho thuê, còn bên cho thuê chỉ trả lại cho bên thuê số tiền 50.000.000đ. Sẽ một vấn đề đặt ra: tại sao quy định của pháp luật dân sự hiện hành khi hợp đồng bị tuyên bố hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những đã nhận tại sao bên thuê đã trả lại tài sản bên cho thuê chỉ trả lại cho bên thuê số tiền 50.000.000đ không đúng với quy định của pháp luật?

Để giải quyết vấn đề này, về thuyết, ràng bên cho thuê đã giao tài sản cho bên thuê để khai thác công dụng của tài sản [cụ thể sử dụng căn nhà để làm địa điểm kinh doanh] đã đồng ý để bên thuế tiêu dùng một phần giá trị của tài sản, bên thuê đã sử dụng 06 tháng, đã tiêu dùng phần giá trị này. Do đó, khi hợp đồng thuê này bị tuyên bố hiệu thì bên thuê không thể hoàn trả lại cho bên thuê phần giá trị bên thuê đã khai thác, sử dụng tài sản thuế, phần đó tương đương giá trị 50.000.000đ.

Như vậy, 50.000.000đ này phần bên thuê đã nhận, đã tiêu dùng không thể trả lại cho bên cho thuê nên hoàn trả giá trị bằng tiền cho bên cho thuê. Dựa trên sở luận này, với những diễn biến thực tế của vụ án nên chỉ buộc bên cho thuê trả lại cho bên thuê số tiền 50.000.000đ chứ không phải 100.000.000đ phù hợp. Nếu trường hợp, hai bên vừa bắt đầu thực hiện hợp đồng [tức là bên thuê vừa nhận tài sản thuê, bên cho thuê vừa nhận số tiền 100.000.000đ] thì hợp đồng bị tuyên bố hiệu do lừa dối thì sẽ thực hiện đúng như quy định các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những đã nhận

Hậu quả pháp của hợp đồng hiệu chỉ phát sinh khi có quyết định của quan nhà nước thẩm quyền hoặc trên sở một quyết định, bản án của Tòa án hiệu lực pháp luật

Xem thêm: Xử lý trường hợp đấu thầu qua mạng nhưng chỉ có một nhà thầu

Tóm lại, khi Tòa án tuyển một hợp đồng hiệu, thì hậu quả pháp : Hợp đồng bị coi chưa từng bao giờ tồn tại, các bên nghĩa vụ hoàn trả cho nhau những đã nhận

2. Xử lý hậu quả pháp lý khi hợp đồng vô hiệu:

BLDS năm 2005 từng quy định: ...tài sản giao dịch, hoa lợi, lợi tức thu được bị tịch thu theo quy định của pháp luật ...thì BLDS năm 2015 đã bỏ quy định tịch thu tài sản giao dịch, bỏ việc tịch thu hoa lợi, lợi tức thu được, thay vào đó tại khoản 3, Điều 131 của BLDS năm 2015 quy định bên ngay tình trong việc thu hoa lợi, lợi tức không phải hoàn trả lại hoa lợi, lợi tức đó. Từ quy định này thể hiểu khi giải quyết hợp đồng hiệu không được tịch thu tài sản giao dịch, không tịch thu hoa lợi, lợi tức từ hợp đồng hiệu, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ đối tượng của hợp đồng bên nào sẽ được hưởng phải căn cứ vào từng trường hợp cụ thể để quyết định.

Nghĩa , bên đã nhận đối tượng của hợp đồng, trong thời gian hợp đồng chưa bị tuyên bố hiệu, thời gian chưa giao trả tài sản phát sinh hoa lợi, lợi tức từ đối tượng của hợp đồng thì bên đang quản , chiếm hữu hoa lợi, lợi tức đó sẽ được hưởng, nếu người ngay tình. Tuy nhiên, quy định này chưa hợp , bởi lẽ, khoản 3, Điều 131 của BLDS năm 2015 quy định bên ngay tình trong việc thu hoa lợi, lợi tức ...đặt trong mối quan hệ giữa người thu hoa lợi, lợi tức với hoa lợi, lợi tức chứ không phải trong mối quan hệ chiếm hữu vật đã sinh ra hoa lợi, lợi tức, để xét ngay tình hay không rất khó hiểu. Thế nào là ngay tình không ngay tình trong việc thu hoa lợi? Nếu xét trong mối quan hệ giữa người thu hoa lợi hoa lợi thì người này luôn luôn ngay tình không thể không ngay tình. Tại Điều 184 của BLDS năm 2015 quy định:

“1. Người chiếm hữu được suy đoán là ngay tình; người nào cho rằng người chiếm hữu không ngay tình thì phải chứng minh.

2. Trường hợp có tranh chấp về quyền đối với tài sản thì người chiếm hữu được suy đoán là người có quyền đó. Người có tranh chấp với người chiếm hữu phải chứng minh về việc người chiếm hữu không có quyền.

3. Người chiếm hữu ngay tình, liên tục, công khai được áp dụng thời hiệu hưởng quyền và được hưởng hoa lợi, lợi tức mà tài sản mang lại theo quy định của Bộ luật này và luật khác có liên quan. Trên thực tế, hoa lợi có thể phát sinh từ đối tượng của hợp đồng bị vô hiệu [mua vườn cây ăn trái, cây ra hoa đậu quả, mua gia súc đẻ trứng, đẻ con …].”

Vật mới được hình thành này sự phát triển tự nhiên mối quan hệ hữu với vật ban đầu, nên thông thường, chủ sở hữu vật ban đầu sẽ là chủ sở hữu của hoa lợi đó nếu không thỏa thuận khác. Nhưng cũng thể trong thời gian hợp đồng chưa bị tuyên bố hiệu thì người đang chiếm hữu, quản đối tượng của hợp đồng thực hiện một hợp đồng cho thuê đối với đối tượng này thu được một khoản tiền cho thuê. Nếu cho rằng việc cho thuê không ngay tình để cho rằng khoản tiền nhận được từ việc cho thuê không ngay tình thì cũng không đúng với quy định tại khoản 3, Điều 131 của BLDS năm 2015, việc không ngay tình của việc cho thuê thì đó không ngay tình đối với hợp đồng cho thuê sẽ được xử trong mối quan hệ này chứ không thuộc phạm vi không ngay tình trong việc thu hoa lợi, lợi tức.

Do đó, quy định bên ngay tình trong việc thu hoa lợi, lợi tức không phải hoàn trả lại hoa lợi, lợi tức đóphải được hiểu trong mối quan hệ hình thành, tạo ra vật chiếm hữu đã sinh ra hoa lợi, lợi tức đó. vậy, nếu ngay tình khi thực hiện hợp đồng bị xác định hiệu thì việc chiếm hữu vật ngay tình, khi vật phát sinh hoa lợi, lợi tức việc chiếm hữu hoa lợi, lợi tức đó mới ngay tình. Còn nếu khi thực hiện hợp đồng không ngay tình [dụ, thực hiện thủ đoạn lừa dối để giao kết hợp đồng] thì việc chiếm hữu đối tượng của hợp đồng không ngay tình, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ đối tượng của hợp đồng người này đang chiếm hữu cũng không ngay tình.

Xem thêm: Hợp đồng vô hiệu từng phần là gì? Quy định về hợp đồng dân sự vô hiệu từng phần?

Trong trường hợp này, bên không ngay tình khi xác lập hợp đồng, việc chiếm hữu vật của chủ thể này cũng không ngay tình, sau đó, hợp đồng này bị tuyên bố hiệu do lừa dối thì bên không ngay tình ngoài việc phải hoàn trả những đã nhận còn phải hoàn trả hoa lợi, lợi tức đó. Tuy khoản 3, Điều 131 của BLDS năm 2015 không quy định nhưng nếu trong quá trình giải quyết vụ án tại Tòa án nếu Tòa án chỉ phán quyết dừng lại việc bên không ngay tình phải hoàn trả lại hoa lợi, lợi tức đó thì thể sẽ không đúng, việc xem xét giải quyết vụ án chưa toàn diện.

Bởi lẽ, để được hoa lợi đó, phần giá trị lớn hơn từ khi hoa lợi đó được sản sinh ra phần chi phí, công sức của người thu hoa lợi. Do đó, khi Tòa án buộc họ trả lại hoa lợi cần xem xét công sức, chi phí họ đã bỏ ra để buộc bên được nhận hoa lợi này thanh toán công sức, chi phí này cho họ nếu họ yêu cầu

Khi hợp đồng bị hiệu, không chỉ khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những đã nhận còn xét đến yếu tố lỗi, bên lỗi để hợp đồng hiệu gây thiệt hại còn phải bồi thường. Bên lỗi được đề cập trong trường hợp này bên những hành vi [hành động hoặc không hành động] làm cho hợp đồng bị hiệu. Trên thực tế, nhiều trường hợp hợp đồng bị hiệu do lỗi của một bên cũng trường hợp do lỗi của cả hai bên nhưng trong trường hợp hợp đồng hiệu do lừa dối thường là lỗi của một bên hoặc bên thứ 3 làm cho hợp đồng bị hiệu.

Để xác định đánh giá đúng mức độ lỗi thì khi giải quyết tranh chấp Tòa án phải thu thập tài liệu, chứng cứ chứng minh mức độ lỗi của bên lỗi. Nhưng trong thực tiễn xét xử cho thấy, những Hội đồng xét xử chưa chú ý đúng mức vấn đề này, thu thập tài liệu, chứng cứ không đầy đủ, xác định mức độ lỗi không chính xác. Những sai sót này thường dẫn đến hậu quả bản án, quyết định bị sửa, hủy để giải quyết lại.

Chủ Đề