Nội dung Text: Giáo trình Tâm lý học sáng tạo
- GIÁO TRÌNH TÂM LÝ HỌC SÁNG TẠO GIÁO TRÌNH TÂM LÝ HỌC SÁNG TẠO Tác giả: PHẠM THÀNH NGHỊ LỜI GIỚI THIỆU Tâm lý học sáng tạo là lĩnh vực tri thức về con đường con người tạo dựng cái mới, có tính độc đáo và có giá trị trong các lĩnh vực hoạt động khác nhau. Khó khăn lớn nhất của nghiên cứu trong tâm lý học sáng tạo là ở chỗ các phát minh, sáng chế liên quan đến thời khắc thấu hiểu, “loé sáng" được nhiều nhà sáng tạo nhắc đến nhưng việc nghiên cứu hiện tượng vô thức, tiềm thức bằng các phương pháp khách quan gặp nhiều khó khăn. Thời điểm thấu hiểu, "loé sáng" mới đủ được các nhà sáng tạo kể lại thông qua tự quan sát và trải nghiệm. Trong khi đó nhiệm vụ cải thiện khả năng tư duy sáng tạo đã được nhiều nhà nghiên cứu nhắc tới. Giải quyết vấn đề theo "lôgíc sáng tạo" cũng có thể giúp tạo ra sản phẩm mới độc đáo [Phan Dũng, 2007]. Trong thực tế, quá trình sáng tạo vẫn hàm chứa nhiều điều bí ẩn, bao gồm cả quy trình có tính lôgíc và quá trình mang tính trực giác. Làm thế nào để tăng cường năng lực sáng tạo của con người vẫn còn là câu hỏi mở chưa có câu trả lời thoả đáng. Nhiều kết quả nghiên cứu trong tâm lý học sáng tạo phát hiện ra rằng các yếu tố bối cảnh bên ngoài và các yếu tố chủ quan bên trong tác động tới việc tạo ra sản phẩm mới, độc đáo. Những tác động này là phức tạp, phi tuyến tính. Việc tạo ra môi trường cởi mở, khuyến khích mạo hiểm, thay đổi cách nhìn và đặc biệt sự say sưa theo đuổi công việc là những yếu tố quan trọng tác động tích cực đến việc ra đời sản phẩm sáng tạo. Trong cuộc sống hàng ngày, con người thường xuyên phải suy nghĩ và hành động đề giải quyết vấn đề mới nảy sinh trong công việc và cuộc sống
- một cách sáng tạo do điều kiện giải quyết vấn đề thay đổi cùng với sự thay đổi thường xuyên của môi trường xung quanh. Do đó, có thể nói hoạt động của con người ở những mức độ khác nhau đều có liên quan đến sáng tạo. Kiến thức về bản chất của sáng tạo, cơ sở sinh học, xã hội của sáng tạo, mối quan hệ giữa sáng tạo với các hiện tượng tâm lý khác như trí thông minh, tư duy, tưởng tượng, động cơ cũng như kiến thức về phương pháp nghiên cứu sáng tạo rất cần thiết đối với những người làm công tác nghiên cứu, giảng dạy và các nhà chuyên môn làm việc trong lĩnh vực tâm lý học. Cuốn giáo trình "Tâm lý học sáng tạo” này có mục tiêu cung cấp những kiến thức như vậy cho học viên. Giáo trình được trình bày trong 7 chương. Chương I nêu những vấn đề chung về sáng tạo và tâm lý học sáng tạo như quan niệm về sáng tạo, các thuộc tính, cấp độ sáng tạo, các trường phái và xu hướng nghiên cứu sáng tạo. Chương II trình bày phương pháp nghiên cứu trong tâm lý học sáng tạo. Trong chương này 4 nhóm phương pháp chính, trắc đạc tâm lý, thực nghiệm sáng tạo, nghiên cứu trường hợp và trắc đạc lịch sử được trình bày cùng với những kết quả nghiên cứu đã có của các học giả. Chương III phân tích bản chất của sáng tạo như một quá trình gồm nhiều giai đoạn mà mắt xích trung tâm của quá trình là sự chuyển hóa từ ấp ủ sang thấu hiểu, xuất hiện ý tưởng sáng tạo. Khái niệm dòng sáng tạo của Csikszentmithalyi [1996] được bàn đến như một sự đắm chìm vào diễn biến sự kiện mà chủ thể không còn ý thức rõ ràng sự tồn tại của chính mình. Việc giải quyết vấn đề sáng tạo được phân tích theo một số cách tiếp cận như tiếp cận lý thuyết trí tuệ tư duy theo chiều ngang, tiếp cận theo thành tố v.v… Chương IV phân tích cơ sở sinh học và xã hội của sáng tạo. Các cơ sở sáng tạo ở cấp độ tế bào thần kinh, bán cầu đại não, tác động của môi trường gia đình, giáo dục, môi trường làm việc, môi trường xã hội đối với
- sáng tạo được phân tích, trong đó văn hoá được coi là có nhiều tác động đến sáng tạo của con người. Chương V phân tích các quan niệm về mối quan hệ giữa sáng tạo và trí thông minh, tư duy sáng tạo, tưởng tượng. Có nhiều quan điểm nghiên cứu mối quan hệ trí thông minh và sáng tạo, mỗi tác giả có cách tiếp cận riêng và có quan niệm riêng, điều đó không hề mâu thuẫn với bản chất của sáng tạo là quá trình đi đến cái mới. Tư duy sáng tạo có vai trò quan trọng trong phát hiện ra cái mới; tư duy sáng tạo không chỉ bao gồm thành phần lôgíc, các yếu tố phi lôgíc, tiền lôgíc, yếu tố trực giác có vai trò quan trọng trong tư duy sáng tạo. Tưởng tượng là thành phần không thể thiếu của sáng tạo, mặc dù có nguồn gốc từ thực tiễn nhưng tưởng tượng đóng vai trò quan trọng trong tạo dựng cơ chế phi lôgíc của sáng tạo. Chương VI trình bày các đặc điểm nhân cách của người sáng tạo và động cơ sáng tạo. Không đi sâu vào cấu trúc kinh điển của nhân cách, chương này điểm qua một số đặc điểm nhân cách, có thể là những đặc điểm của xu hướng, năng lực hay tính cách, có mặt ở những người sáng tạo. Cũng tại chương này vấn đề động cơ sáng tạo được phân tích khá chi tiết. Động cơ trong có vai trò quyết định tới sáng tạo; động cơ ngoài hỗ trợ cung cấp thông tin có ý nghĩa xóa bỏ sự kiểm soát hay duy trì tính liên tục của hoạt động học tập và lao động góp phần thúc đẩy sáng tạo. Chương VII trình bày vấn đề sáng tạo trong tổ chức và việc giáo dục, phát triển tính sáng tạo. Mặc dù sáng tạo là một hiện tượng tâm lý còn nhiều điều chưa được làm rõ, các nhà nghiên cứu vẫn khẳng định triển vọng phát triển năng lực sáng tạo ở người học và phát huy tính sáng tạo ở người lao động. Đây là tài liệu dùng cho học viên sau đại học nên vấn đề được trình bày khá cởi mở, đưa ra nhiều quan điểm, ý kiến về một vấn đề. Học viên có
- cơ hội trải nghiệm các góc nhìn khác nhau và có thể lựa chọn cho mình quan điểm thích hợp. Giáo trình được viết với thời lượng 3 tín chỉ, là tài liệu học tập của học viên cao học tâm lý học thuộc Khoa Tâm lý học, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội. Cuốn sách còn là tài liệu tham khảo cho nghiên cứu sinh, các nhà nghiên cứu tâm lý học và những ai quan tâm tới vấn đề sáng tạo và phát triển sáng tạo ở con người. Cuốn sách không tránh khỏi những thiếu sót, những ý kiến đóng góp của độc giả và đồng nghiệp xin gửi về địa chỉ email: . Hà Nội, ngày 12 tháng 2 năm 2012 Tác giả: GS.TS. Phạm Thành Nghị Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG I. SÁNG TẠO VÀ CÁC THUỘC TÍNH 1. Quan niệm về sáng tạo trong lịch sử phát triển nhận thức Mục đích của phần này là điểm qua những quan niệm về sáng tạo và làm rõ sự thay đổi quan niệm về sáng tạo trong lịch sử nhận thức. Quan niệm về sáng tạo cũng có lịch sử của nó. Ở giai đoạn đầu của sự phát triển nhận thức, nghiên cứu khoa học và sáng tạo không được coi là có liên hệ với nhau. Khi con người phát hiện ra những quy luật trong thế giới vật lý, bắt đầu xuất hiện niềm tin rằng con người có thể hiểu được bản chất của tự nhiên mà không có sự can thiệp của lực lượng siêu nhân. Sáng tạo cũng như vậy, lúc đầu, sự sáng tạo của con người chưa được thừa nhận, con người có phát minh, sáng chế là do họ mang theo tính sáng tạo được lực lượng thần thánh gửi vào. Ngày nay đã có niềm tin rằng con người có thể sáng tạo và khoa học có thể giúp chúng ta hiểu được cách nào để sáng tạo. Tuy nhiên, rất gần đây
- thôi, nghiên cứu sáng tạo trong tâm lý học mới được các nhà khoa học quan tâm. a. Quan điểm ban đầu về sáng tạo Các học giả đều nhất trí rằng quan niệm ban đầu, nguyên thủy về sáng tạo của phương Tây là câu chuyện được kể trong kinh thánh, theo đó đức Chúa Trời đưa sự sáng tạo xuống trần thế. Boorstin [1992:42] viết “Về sự nhận thức khả năng của mình, giao kết là điểm quan trọng. Sự giao kết cho rằng con người kết nối lại thành cộng đồng bởi lòng tin của họ vào Đấng sáng tạo Đức Chúa Trời. Họ khẳng định quyền lực sáng tạo của mình qua sự liên hệ, kết nối với các phẩm chất của Chúa, qua quan hệ máu thịt và tự nguyện của họ với Chúa". Quan điểm này tồn tại cho đến thế kỷ thứ II sau công nguyên sau đó suy yếu dần và được thay thế bằng thuyết mới của Thánh Augustine [354 430]. Lúc này Cơ đốc giáo đóng vai trò quan trọng trong việc tuyên bố quyền năng sáng tạo. Thuyết mới này phản ánh sự khác biệt rất lớn giữa cách nhìn nhận của phương Đông và phương Tây về mục đích và vai trò của con người trong quá trình sáng tạo. Theo Hinđu giáo [1500900 trước công nguyên] và Nho giáo [551479 trước công nguyên], Lão giáo và Phật giáo thì sáng tạo là sự phát hiện và sự bắt chước. Phật giáo và Nho giáo nhấn mạnh vòng đời sự hài hòa và cân bằng, do đó tư tưởng sáng tạo không thể có trong thế giới âm dương từ số không [Boorstin, 1992:17]. Theo Plato, không có gì mới có thể tạo ra được, nghệ thuật là sự cố gắng thích nghi hay bắt chước hình thức lý tưởng. Tính độc đáo, điểm nhấn trong sáng tạo, không phải là thuộc tính của sáng tạo trong lịch sử cổ đại. Trong suốt gần 1200 năm, tư tưởng này không có đối trọng, không có lực lượng phản đối. Trong thời trung cổ, tài năng, khả năng khác thường của cá nhân con người [thường chỉ là đàn ông] là biểu hiện của lực lượng tinh thần bên ngoài mà cá nhân chỉ là người được gửi gắm để mang theo mà thôi.
- Thời kỳ Phục hưng có những thay đổi đáng kể trong cách nhìn nhận sáng tạo. Ở thời kỳ này đã bắt đầu xuất hiện quan điểm cho rằng tài năng sáng tạo nghệ thuật của cá nhân con người không phải là thuộc tính của lực lượng thần bí mà là của chính cá nhân con người đó. Hơn nữa, sự thay đổi trong cách nhìn nhận này không còn bị cô lập mà là sự chuyển biến của toàn bộ xã hội, bao gồm cả "sự từ chối thân phận nông nô, sự chiến thắng của tiếng Anh, sự đi lên của các ngành nghề như luật học và y học và sự phát triển của xu hướng phi tôn giáo. Sự thay đổi đó rất mạnh mẽ và tinh tế cho đến khoảng những năm 15001700. Mặc dù có sự chuyển biến này, sáng tạo vẫn còn là lĩnh vực rất mờ nhạt và thậm chí một số triết gia còn không có ý định xem xét vấn đề này. b. Cuộc cách mạng trong nghiên cứu sáng tạo Trong hầu hết những năm Phục hưng, nhiều tranh luận của các nhà triết học và những phát minh khoa học đã phá vỡ những quan điểm văn hóa và tôn giáo cũ. Phát minh của ba nhà bác học lỗi lạc Copemirưs [1473 1543], Galileo [15641642] và Newton [16421727] đã cung cấp chứng cứ cho sự thay đổi này. Nhưng phát hiện của họ đòi hỏi sự thay đổi trong nhìn nhận quy luật của thế giới tự nhiên và công nhận mối liên hệ của tự nhiên với sự tồn tại của con người. Trong thế kỷ thứ 18, hai cách tiếp cận liên quan đến quyết định luận và chủ nghĩa cá nhân đã định hình tư duy phương Tây: sự khai sáng được gắn kết với triết học trí tuệ mà biểu hiện rõ nhất của nó là sự tấn công vào những thế lực được nhà nước phong kiến bảo vệ dựa trên những căn cứ phản khoa học. Trong khi đó, khoa học tự nhiên được củng cố, thể chế hóa và sử dụng những phương pháp khoa học trong nghiên cứu. Cùng với cuộc cách mạng trong khoa học là những thay đổi đáng kể trong văn hóa phương Tây; vị thế của kinh thánh đã thay đổi. Trong hàng trăm năm, kinh thánh là nguồn tài liệu thần thánh về trí tuệ và đạo đức nhưng đến cuối thế kỷ 18 kinh thánh đã trở thành tài liệu thế tục. Prickett [1996] cho hay
- trong suốt thời gian cuối thế kỷ 18, Kinh thánh đã trải qua sự thay đổi đáng kể theo hướng giải thích rất tiến bộ và trở thành cuốn sách rất khác so với 100 năm trước đó, thậm chí những người phê bình gay gắt nhất cũng phải công nhận rằng kinh thánh đã khác xa với việc thần thánh hóa. Kinh thánh đã khẳng định vững chắc sự thay đổi trên thế giới; nội dung kinh thánh mềm dẻo và phổ cập. Kinh thánh được xem như là một sản phẩm văn hóa có sự thể hiện khá giống với các tài liệu thế tục khác. Khi phong trào Khai sáng chống lại quyền lực thần bí và "trí tuệ tôn giáo", tự do đã trở thành một phần không thế thiếu được của quá trình này. Đó là quyền cá nhân được khám phá chính thế giới của mình mà không cần bất cứ sự cho phép, sự hướng dẫn hay can thiệp nào của lực lượng siêu nhân. Mặc dù ý tưởng về sáng tạo chưa có gì thay đổi trong suốt những năm từ 1500 đến 1700, đã có sự thay đổi đáng kể diễn ra và tạo nền tảng tho ý tưởng nghiên cứu. Sự phức tạp có thể thấy ở việc hợp nhất giữa mô hình khoa học và kỹ thuật mà nhiều người tin rằng đây là sự bắt đầu của nền văn minh phương Tây, "từ thế giới nơi đồ vật được xếp đặt theo bản chất ý tưởng tuyệt đối sang thế giới của sự kiện diễn ra theo quy luật của tự nhiên. Như vậy, đã có sự thay đổi trong quan niệm và thực tiễn về nguồn gốc của sáng tạo và ý nghĩa của các nghiên cứu thực chứng. Những quan niệm này ngày càng được củng cố nhờ sự ra đời của những phát minh trong khoa học tự nhiên và thiên văn học. c. Những tiền đề thể chế và triết lý cho nghiên cứu sáng tạo Giai đoạn Khai sáng ở Anh quốc đã tạo tiền đề cho những nghiên cứu thực nghiệm. Khai sáng đã tạo ra cơ sở triết học và xã hội cho sự đối lập với chính quyền [tôn giáo, chế độ quân chủ và các thế lực chính trị khác], cùng với đó là sự lớn mạnh của khoa học chống lại tư tưởng của chính quyền. Những cơ sở này tạo điều kiện cho sự đáp ứng nhu cầu cấp thiết của tự do ngôn luận, báo chí và tự do cá nhân. Tự do trong tranh luận, chẳng hạn, là
- điều kiện cốt lõi của tư duy duy lý thể hiện hàng ngày và được củng cố bởi các chứng cứ khoa học. Tất cả những ý tưởng đó được đưa ra tranh luận và được định hình trong thế kỷ 18 và 19. Khoa học được luật pháp công nhận. Hiệp hội Hoàng gia được Charles II công nhận từ năm 1662 đã trở thành địa chỉ cho các cuộc gặp gỡ của các nhà khoa học và Hiệp hội này đã đứng ra công nhận kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học. Hiệp hội còn phát hành ấn phẩm của các thành viên, các bài viết cá nhân không được truyền bá riêng. Báo khoa học in ấn trong Hiệp hội ngày càng có uy tín. Đặc biệt Hiệp hội trở nên có uy tín hơn khi hòa giải được sự tranh luận dai dẳng giữa Robert Hooke và Isaac Newton. Hiệp hội đưa ra phản ứng của mình với tư cách là một tổ chức của những người làm khoa học và là nơi ấn hành các kết quả nghiên cứu khoa học: Việc tập trung hoạt động này tạo thêm quyền lực và tính thực tiễn của khoa học. Hai hậu quả của việc thể chế hóa này là: cá nhân bị hạn chế xuất hiện trên ấn phẩm, trong khi đó Hiệp hội Hoàng gia khuyến khích sự xuất hiện của các nhà khoa học thiên tài trong trao đổi và chuyển hướng quan tâm của Hiệp hội từ những vấn đề cá nhân sang sự quan tâm đến tính quy luật của tự nhiên và việc phát hiện ý nghĩa thực tiễn của khoa học. Những lợi ích đó đánh dấu giá trị của quy luật tự nhiên và tầm quan trọng của thực nghiệm khoa học trong thế giới vật lý. Những cuộc tranh luận về ý tưởng, của suy đoán không được coi trọng. Các kết quả nghiên cứu sử dụng các phương pháp thực chẳng có khả năng tạo ra những lợi ích thực tiễn được chú ý. Mặc dù thế giới vật lý được xem là nguồn gốc trước tiên được chấp nhận và con người được coi là một bộ phận của tự nhiên, những nghiên cứu về bản chất con người vẫn chưa được chú ý một cách nghiêm túc trong giai đoạn này. d. Những tranh luận dường như không bao giờ kết thúc Sự phát triển của khoa học đã diễn ra trước khi quan niệm sáng tạo được tạo dựng. Trong nửa cuối thế kỷ 18, niềm tin khoa học về quy luật của
- tự nhiên đã được chấp nhận. Sự chứng minh của khoa học trong cuộc sống thực tiễn nhờ áp dụng những sáng chế trong khoa học tự nhiên, máy quay sợi, máy hơi nước đã làm tăng tốc cuộc cách mạng công nghiệp và đưa đến sự dẫn đầu của Anh quốc trong chế tạo và kinh doanh so với các quốc gia cạnh tranh khác. Hai vấn đề được tranh luận suốt thế kỷ thứ 18 giữa các nghệ sỹ, nhà văn, nhà thơ và nhà triết học Anh quốc và châu Âu vẫn là: Sự giới hạn tự do của tư duy là ở chỗ nào? ý nghĩa xã hội và chính trị của tự do là ở chỗ nào? Những vấn đề đó cho thấy thói quen tuân thủ trong suốt hàng thế kỷ và khi quyền tự do được công nhận xã hội lại thiếu hiểu biết thấu đáo về sáng tạo và đóng góp của sáng tạo trong cuộc sống. Trọng tâm của cuộc tranh luận giữa thẽ kỷ thứ 17 là những cố gắng làm rõ khía cạnh pháp lý của tự do cá nhân, phân biệt với thách thức xã hội và chính trị. Luật pháp và giới hạn mà chính quyền đưa ra đã đi ngược lại với quy luật xuất hiện thiên tài, tài năng và sự cản trở tự do của con người. Trong lịch sử của sáng tạo, có nhiều cố gắng tìm hiểu những khác biệt giữa tài năng và thiên tài bẩm sinh. Đến cuối thế kỷ 18, người ta đi đến kết luận rằng có nhiều người có thể có tài năng trong những lĩnh vực nhất định và có thể đó là do kết quả của giáo dục; thiên tài bẩm sinh là rất ngoại lệ và theo quan niệm này được miễn trừ các quy tắc, luật tục và trách nhiệm áp dụng đối với người tài năng. Kaufman [1926] đã chỉ rõ, các cuộc tranh luận dài này về quan hệ và khác biệt giữa thiên tài, tính bẩm sinh, sự dị biệt, năng lực bẩm sinh và tự do. Cuối cùng đã làm xuất hiện học thuyết về chủ nghĩa cá nhân. Nhưng không có khái niệm sáng tạo tồn tại tại thời điểm đó. Hobbes [1588 1679] là người đầu tiên công nhận tầm quan trọng của tưởng tượng trong tư duy. Đây là tư tưởng được nhắc đến như là điểm khởi đầu cho cuộc tranh luận trong thời kỳ Khai sáng.
- Những tranh luận suốt thế kỷ 18 cuối cùng đã đi đến công nhận 4 đặc trưng khác biệt cơ bản: [1] Thiên tài không phải sinh ra từ thế lực siêu nhân; [2] Thiên tài, mặc dù là rất xuất chúng, nhưng cũng là tiềm năng trong mỗi cá nhân, [3] Thiên tài và tài năng có thể phân biệt với nhau; [4] Tiềm năng và sự vận hành chúng phụ thuộc vào không khí chính trị của thời đại. Đến cuối thế kỷ 18, kết luận này được chấp nhận rộng rãi, cả tài năng và thiên tài đều không thể tồn tại được trong xã hội hà khắc; tài năng cần đến giáo dục, thiên tài biểu hiện ở một số ít người và ít cần đến giáo dục hơn, đây là điều khác biệt giữa tài năng và thiên tài. e. Ảnh hưởng của việc áp dụng những phát minh khoa học Cho đến lúc này tồn tại hai mô hình kết hợp nhiều luận cứ và quan sát thực tiễn liên quan đến nghiên cứu và sáng tạo. Mô hình khoa học duy lý mang theo quyền lực khoa học và khả năng áp dụng vào thực tiễn đưa đến những kết quả nhất định. Mô hình khác, có thể gọi là hệ tư tưởng sáng tạo, liên quan đến ý nghĩa xã hội và tiềm năng của tính độc đáo và chủ nghĩa cá nhân trong bối cảnh phải phục tùng quyền lực và duy trì trật tự xã hội. Mô hình khoa học duy lý luôn là mô hình được dùng chính thống với các luận cứ và các bước nghiên cứu theo trật tự. Mặt khác, có cuộc tranh luận khá dài về ý nghĩa tôn giáo và thế lực của sáng tạo; sáng tạo đòi hỏi phải có hệ tư tưởng, bởi vì sáng tạo được xác định là phù hợp với bản chất của con người và các điều kiện chính trị xã hội. Trong khi khoa học tự nhiên và những người sáng chế thực tiễn như Arkwright và Watt bận rộn với việc đưa ra những gì mà lý trí của con người và sự sáng chế có thể làm được, hàng loạt sáng chế và ảnh hưởng mạnh mẽ của chúng dẫn đến những hậu quả không dự đoán trước được. Người nông dân và người lao động di chuyển khỏi đồng quê để đến các khu đô thị với các điều kiện sinh sống tồi tệ và họ phải làm việc trong những nhà máy thiếu
- những điều kiện nhân bản tối thiểu. Điều thú vị là khi các nhà khoa học rất bận rộn với việc nghiên cứu xem trí tuệ của con người có thể làm được những gì, thì đồng thời cũng có một sự quan tâm khác liên quan đến hậu quả của việc áp dụng những kết quả nghiên cứu đó, đặc biệt tới những vấn đề có liên quan đến trật tự, ổn định chính trị xã hội. Sự truyền bá rộng rãi không cưỡng lại được của tự do cá nhân và việc áp dụng rộng rãi những thành tựu của khoa học đã tạo ra một xã hội khác xa với xã hội thời kỳ đầu cách mạng công nghiệp. Nhiều hậu quả không lường trước được của việc áp dụng khoa học đã tạo ra nhu cầu phát triển khoa học xã hội, mặc dù có niềm tin rằng khoa học tự nhiên được quản lý theo quy luật duy lý và khôn ngoan. Hậu quả không mong muốn và không dự báo được của việc áp dụng kết quả khoa học vào cuộc sống xã hội đã khơi dậy phong trào đấu tranh chính trị và xã hội. Adam Smith là một trong những người đầu tiên nhận ra nhu cầu của nghiên cứu khoa học về hành vi con người. Cuốn sách "Tài sản của dân tộc” [Wealth of Nation, 1776] là cố gắng tập hợp nhiều lý giải cho khoa học xã hội; đó là cuốn bách khoa về hậu quả không mong muốn của khoa học. Ông nhấn mạnh rằng hậu quả có thể tốt hoặc xấu, nhưng chúng thường không chú ý và không dự báo được. Ông chỉ ra hậu quả không dự báo được là sự phát triển đột ngột của dân số và sự phát triển công nghiệp. Do hậu quả của nó, Smith và những người khác tranh luận rằng cần thiết phải phát triển khoa học tự nhiên, dựa trên kiến thức xã hội, chính trị một cách hệ thống. Khoa học xã hội sẽ giúp dự báo những thay đổi xã hội trước khi nó vượt ra ngoài tầm kiểm soát. Tám năm sau khi Smith mất, xuất hiện ấn phẩm của Malthus, Bài viết về Dân số [1798]. Tác phẩm đã chỉ ra các dẫn chứng của sự phát triển không kiểm soát được và sự thiếu tổ chức trong dân số Anh quốc. Malthus dự báo hậu quả không lường trước được nếu hành động xã hội và chính trị
- không tiến hành ngay để đối phó. Nghiên cứu của Malthus mang tính thực chứng nhưng không thuộc khoa học vật lý cho đến thời của Galton. 40 năm sau khi bài viết về dân số mà Malthus dùng cơ chế "đấu tranh sinh tồn" để giải thích sự hỗn loạn xã hội, cơ chế "đấu tranh sinh tồn” đã cung cấp cho Darwin sự giải thích về cơ chế lựa chọn tự nhiên mà ông cố gắng truyền bá. Ý tưởng đó đã giúp cố gắng của Darwin và “nguồn gốc của vạn vật" bổ sung chứng cứ mới về sự xuất hiện của con người, đối tượng của sự chuyển đổi không chủ ý và không dự báo trước được và là kết quả của chọn lọc tự nhiên. Chọn lọc tự nhiên không chuyển động theo bất kỳ ý muốn chủ quan của ai, không theo đạo đức và ý chí nào. Chọn lọc tự nhiên là mù quáng. Tất nhiên khi sử dụng cơ chế chọn lọc tự nhiên để giải thích các hiện tượng xã hội, Malthus đã bỏ qua vai trò của ý thức con người trong điều khiển các hành vi xã hội. Sự đột phá của trí tuệ vào cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20 về hiểu biết sáng tạo được cho là có đóng góp của Darwin. g. Sự thích nghi, tính đa dạng và chọn lọc tự nhiên: Công thức thực chứng cho sáng tạo của Darwin Từ cuộc tranh luận đầu tiên, sáng tạo luôn đi kèm với những câu hỏi trừu tượng liên quan đến những vấn đề lớn hơn: Chủ nghĩa cá nhân là gì? và tại sao chúng ta cần tự do cá nhân? Chỉ sau khi Darwin làm rõ các quá trình nhấn mạnh sự lựa chọn tự nhiên mà rất nhiều đặc trưng cơ bản của sáng tạo được chú ý, đặc biệt ý nghĩa thích nghi của nó. Một trong những vai trò quan trọng mà sáng tạo có được từ Darwin liên quan đến giải quyết vấn đề và đưa tới việc thích nghi "có kết quả" mang tính chất cá nhân. Chúng ta có thể hiểu điều này khi nhận ra những nguyên tắc cơ bản của lý thuyết tiến hóa, sự tiến hóa là đa dạng và trên cơ sở thích nghi, sự tiến hóa diễn ra dưới tác động của chọn lọc tự nhiên: Darwin tho rằng tạo ra sự thích nghi và tạo ra sự đa dạng là những khiến cạnh khác nhau của một hiện tượng phức tạp, không phải là ý tưởng của sự tiến hóa mà là "nguyên tắc của
- chọn lọc tự nhiên. Hơn thế nữa, Darwin cho rằng chọn lọc tự nhiên tạo ra sự thích nghi. Bởi vì sự tiến hóa xuất hiện không được định trước, sự thích nghi đạt được từ sự bắt đầu một hậu quả ngẫu nhiên do tác động của sự thay đổi môi trường bên ngoài [Dennett, 1995]. h. Sự chuyển tiếp từ Darwin đến Galton Cầu nối trí tuệ từ Darwin đến Galton đã được xây dựng từ rất sớm bởi sự nghiệp của Galton thông qua sự trao đổi và thăm viếng thường xuyên giữa hai người cho tới khi Darwin qua đời. Nội dung trao đổi nhiều nhất là xung quanh sự tiến hóa. Giai đoạn đầu trong quan hệ của họ, Galton đề xuất phương án về di truyền và tiến hóa, nhưng ngay sau đó ông lại bị thuyết phục bởi độ tin cậy và quyền lực giải thích to lớn của mô hình tiến hóa dựa trên nguyên tắc chọn lọc tự nhiên và sự cần thiết của tính đa dạng và vai trò của thích nghi trong chọn lọc tự nhiên. Mặc dù vậy, điều rất tự nhiên là sự đa dạng mà Galton mang đến có lẽ là vấn đề đo lường. Để giải quyết vấn đề này, sự đa dạng được thao tác hoá như là những khác biệt cá thể trong môi trường có nhiều chiều cạnh. Môi trường này bao gồm những gì có thể đo được bằng công cụ mà hầu hết do Galton thiết kế. Vì vậy, một trong những đóng góp của Galton trực tiếp cho nghiên cứu tâm lý học và gián tiếp cho sáng tạo là định nghĩa thao tác của tính đa dạng tiến hóa rộng lớn thể hiện trong những khác biệt cá thể, những cái có thể đo lường được. Galton có hai mối quan tâm lớn liên quan với nhau trong suốt sự nghiệp của ông: một là nghiên cứu sự khác biệt cá thể và hai là nghiên cứu chương trình ưu sinh [Eugenics], cái mà ông tin rằng cần thiết để tăng cường tài năng của người Anh một cách khoa học. Cho dù Galton có nhận ra hay không. Ông đã đi theo bước chân Smith và Malthus với mong muốn bảo vệ xã hội khỏi hậu quả không lường trước được. Thuyết ưu sinh là chương trình của Galton giảm thiểu sự không xác định trong chọn lọc tự nhiên có thể tác động đến nước Anh. Hai mối quan tâm nghiên cứu đó đã dẫn đến đóng góp trực
- tiếp nhất cho nghiên cứu về sáng tạo lựa chọn các gia đình nổi tiếng như là những ví dụ về khả năng di truyền của họ. Vấn đề là lựa chọn những cá nhân nổi trội như những chủ thể sáng tạo rõ rệt và sử dụng các số liệu thống kê, mà một phần trong số đó do Galton xây dựng. Ở đây lại thấy một đóng góp nữa của Galton. Dù chủ ý hay không, Galton cũng đã cung cấp cho chúng ta chứng cứ rằng thiên tài không phải do lực lượng siêu nhiên, mặc dù rất hiếm thấy, nhưng thiên tài có tiềm năng ở trong mỗi con người và năng lực được phân bổ trong toàn bộ dân cư. i. Từ Galton đến ngày nay Câu hỏi đặt ra là liệu Galton có phải là người duy nhất quan tâm đến sáng tạo thời gian đó hay không. Câu trả lời là không. Nhưng ông là người áp dụng nhiều nhất các phương pháp thực chứng trong lựa chọn thủ thể và đo lường những khác biệt của cá nhân. Sternberg và Lubart [1996] cho rằng trở ngại tho nghiên cứu sáng tạo suốt thời gian đó là sự gắn chặt giữa sáng tạo và lực lượng thần bí, theo nghĩa rằng sáng tạo có nguồn gốc thần thánh. Thành công của Galton là rất lớn vì rằng trong thời đại của ông có rất nhiều người cũng quan tâm đến những vấn đề này, nhưng không ai tìm được cách giải quyết thoả đáng. Sau khi tổng kết những nghiên cứu trong thế kỷ 19, Becker [1995] kết luận rằng mặc dù có sự khác biệt giữa các tác giả và các bài viết, chủ đề của thế kỷ 19 không khác là mấy so với chủ đề của thế kỷ 20. Becker tuyên bố rằng các tác giả trong thế kỷ 19 tập trung vào 5 vấn đề nghiên cứu sáng tạo: [1] Sáng tạo là gì? [2] Ai có khả năng sáng tạo? [3] Những người sáng tạo có những đặc điểm gì? [4] Ai được hưởng lợi từ sự sáng tạo? [5] Cá nhân tăng cường sáng tạo qua những cố gắng có ý thức hay không? Không nghi ngờ gì đây là những câu hỏi quan trọng để tìm hiểu sáng tạo, nhưng cũng trong thời gian ấy chỉ có Galton đã có tiến bộ thực sự trong tìm kiếm câu trả lời cho các câu hỏi trên.
- Năm 1877, Jevons định nghĩa thiên tài như "sáng tạo bản chất” và được biểu hiện khi nào có "sự tách khỏi đường mòn của tư duy và hành động” [Becker, 1995: 225]. William James [1992] đánh giá những nghiên cứu và các dữ liệu thực chứng phù hợp với sự đánh giá thực chứng của Dalton trước kia. Ý tưởng tư duy phân kỳ, hay chí ít cũng là cơ hội của các ý tưởng phức tạp, được William James đưa ra. Ông đã hiểu sự độc đáo, hiếm hoi của ý tưởng mới. “Thay vì tư duy về những thứ cụ thể một cách cần mẫn theo trình tự đường mòn của thói quen, chúng ta có đường cắt chéo bất ngờ và chuyển từ ý tưởng này sang ý tưởng khác… phối hợp những thành tố chưa được biết, những liên tưởng tương tự tinh tế nhất, nhưng ngắn gọn. Chúng ta dường như đang giới thiệu nồi vạc sôi sùng sục những ý tưởng… nơi mà sự cộng tác có thể tiến hành mềm dẻo ngay lập tức, còn sự lặp lại buồn chán không rõ ràng sẽ không có chỗ đứng và những điều bất ngờ tất yếu sẽ xảy ra [Becker, 1995: 222]. Rất khó biết khi nào và ở đâu ảnh hưởng của Galton kết thúc. Hầu hết ảnh hưởng đó hình như được tiếp nhận trong mối quan tâm liên tục và những nghiên cứu ở cuối thế kỷ 19. Năm 1879 Galton xây dựng một phòng thí nghiệm sớm nhất, ở đó ông đã đo những khác biệt cá nhân về chức năng cảm giác và nghiên cứu này có mối liên quan đến giả định rằng sự khác biệt về cảm giác có liên quan tới trí tuệ và đến năm 1883 ông đã kết luận rằng "sản phẩm sáng tạo" được tạo ra từ "năng lực chung", từ "thiên tài bẩm sinh" [1869]; ông tuyên bố rằng đây là một trong những khả năng chính yếu đối với thiên tài. Đến năm 1900, đo lường những khác biệt cá nhân về trí tuệ đã trở thành mối quan tâm nghiên cứu của các nhà tâm lý học. Thực ra đến năm 1904 Binet và Spearman mới tiến hành nghiên cứu thực chứng về trắc nghiệm trí tuệ. Terman, là thành viên của nhóm, đã sửa chữa trắc nghiệm Binetsimon. Mặc dù trắc nghiệm IQ là công cụ nghiên cứu của Terman nhưng khuôn khổ lý luận lại của Galton [Albert & Runco, 1999].
- Mặc dù công trình rủa Galton không được tiếp tục, nhưng ảnh hưởng của ông vẫn còn. Terman là nhà tâm lý học Mỹ đầu tiên nghiên cứu về thiên tài. Mối quan tâm sâu sắc của ông đến thiên tài thể hiện qua nhiều công trình nghiên cứu. Nghiên cứu của Terman rất quan trọng không chỉ bởi sự thay đổi phương pháp, mà còn có ý nghĩa giáo dục và xã hội to lớn. Cả Galton và Terman đều lo lắng về tương lai của dân tộc và làm thế nào để bảo vệ nó. Terman đã bị phê phán trong thời gian ấy bởi sự tập trung rất hẹp của ông vào IQ và coi đó là biểu hiện của năng khiếu và chối bỏ thậm chí cả sáng tạo và những thành công phi học thuật khác. Cũng đúng như nhận định này, quá trình nghiên cứu của Terman luôn được định hướng bởi mong muốn làm cho xã hội Mỹ phát triển dựa trên nguyên tắc phát triển những người tinh túy. Theo đó trẻ em có IQ cao được phát hiện và được tạo cơ hội phát triển tối đa tiềm năng. Điều đó còn có ý nghĩa ở chỗ chương trình nghiên cứu của Terman tiến hành chống lại sự thay đổi trí tuệ đang diễn ra ở châu Âu, ở mức độ nào đó là sự hồi phục của triết học Rousseau. Quan niệm và hành động như vậy của Terman đồng nghĩa với việc công nhận sự thành công của con người là do nguồn gốc sinh học quyết định [Albert & Runco, 1999]. Phương pháp của Terman là tương đối đơn giản, trong khi sáng tạo lại là quá trình rất phức tạp. Luận án của Catherine Cox do Terman hướng dẫn như là sự kéo dài của chính phương pháp của Terman, ước lượng IQ theo cách Galton đối với mẫu những cá nhân được kết quả xuất sắc trong giai đoạn 1450 1850. Thông qua mối quan tâm của Terman về Galton, mà sau này có ảnh hưởng rất lớn đến nghiên cứu của Cox [1926]. Trong thực tế, cả ba người Galton, Terman và Cox một cách vô điều kiện đều cho rằng thành công là thước đo tin cậy về năng lực tâm lý và điều đó giúp giải thích tại sao Terman và Cox bắt đầu nghiên cứu của mình ở nơi mà Galton kết thúc và tin rằng sáng tạo là cấu thành của trí tuệ. Dữ liệu đều được lấy từ lưu trữ, nhưng Cox đã nâng cấp công trình của Galton theo nhiều nghĩa. Mẫu
- nghiên cứu của bà lớn hơn và chọn lựa một cách khách quan hơn. Cox dùng sự đánh giá của chuyên gia về sự nổi tiếng. Sự nâng cấp còn ở chỗ sử dụng tiểu sử, tự truyện và thông tin văn hóa xã hội, tất cả đều được mã hóa. Từ đó Cox và các nhà tâm lý học khác đã ước lượng IQ của chủ thể và những thuộc tính thời thơ ấu. Điều đó làm cho các đối tượng được chọn cho nghiên cứu trở nên sống động hơn và câu chuyện của bà đáng tin cậy hơn và những kết luận đưa ra phù hợp và dễ được chấp nhận hơn. Nghiên cứu của Cox trên những người có IQ trung bình khoảng 154 cho thấy hầu hết những người sáng tạo có thành công xuất sắc, không những có trí tuệ cao mà về khía cạnh động cơ và cố gắng, họ có lòng tin vào khả năng của mình và có sự mạnh mẽ về tính cách. Ở đây có sự tương đồng giữa Galton và Cox trong việc công nhận vai trò của động cơ trong, như Galton mô tả trước kia là "một trong những phẩm chất của trí tuệ khuynh hướng và hành động như những kích thích quan trọng" [Runco, 1993: 6]. Độ tin cậy trong kết luận của Cox được khẳng định bởi sự tập trung vào các chứng cứ về sự bền bỉ, động cơ trong và tính tự chủ [Albert & Runco, 1999]. Thật khó có thể nói gì về nghiên cứu sáng tạo cho đến trước thế chiến thứ hai bằng đóng góp của Cox. Bà đã theo cách tiếp cận lịch sử để nghiên cứu và cho rằng nghiên cứu sáng tạo liên quan đến vấn đề chung cho cả tâm lý học và lịch sử. Đây là việc áp dụng các dữ liệu lịch sử, các tiêu chuẩn đo năng lực tâm lý của trẻ em [Cox, 1926: 21]. Đóng góp khác của Cox còn ở chỗ bà đã góp phần khẳng định rằng sáng tạo không được định hướng bởi vô thức. Tất cả các loại hành vi được xác định bởi nhiều tác nhân và điều này gần với quan niệm hiện nay của sáng tạo một hiện tượng tâm lý rất phức tạp [Albert & Runco, 1999]. Kết quả nghiên cứu của Cox giúp tìm ra sự phụ thuộc của bản tính cá nhân và các quá trình thích nghi ý thức. Ngay sau thế chiến thứ hai trọng tâm nghiên cứu được hướng vào nhân cách, giá trị, tài năng và IQ của những đàn ông và phụ nữ đặc biệt cũng như so sánh với các
- trường hợp bình thường như những đối chứng [Barron, 1955]. Những nghiên cứu này khẳng định một điều rằng tất cả những khác biệt những yếu tố ảnh hưởng nhất của cá nhân là những khác biệt gia đình và khác biệt về điều kiện phát triển tạo ra. Khác biệt về IQ không phải là khác biệt có ý nghĩa quan trọng nhất. Với IQ trên 115 thì sáng tạo và IQ là hai cấu thành tâm lý ít nhiều độc lập ở giai đoạn cuối của tuổi vị thành niên [Albert & Runco, 1999]. 2. Khái niệm sáng tạo trong tâm lý học Từ những trình bày về sự thay đổi quan niệm sáng tạo trong lịch sử trên đây, chúng ta thấy quan niệm về sáng tạo đã thay đổi và phát triển từ chỗ siêu hình đến chỗ có cơ sở khoa học hơn. Tâm lý học nghiên cứu các hiện tượng tâm lý người, ở đó tâm lý được coi là có bản chất tinh thần nhưng cái tâm lý, cái tinh thần ấy không tồn tại ngoài cái vật chất. Tâm lý là sự phản ánh, là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, là hình thức vận động của vật chất. Những cố gắng của nền tâm lý học duy vật biện chứng thể hiện ở quan điểm nghiên cứu cái tâm lý trong chính hoạt động của con người, tâm lý có bản chất hoạt động và hoạt động của con người là hoạt động tâm lý. Hành động là đơn vị tâm lý. Cần nhấn mạnh vai trò dẫn dắt của hành động, sự phụ thuộc của tâm lý con người vào tác động qua lại với thế giới đồ vật xung quanh và tính tích cực của chính tâm lý con người. Sáng tạo được sinh ra trong hoạt động con người, là sự phát hiện ra những mối liên hệ, những quy luật đang tồn tại trong đồ vật, hiện tượng tự nhiên, xã hội và tư duy chưa được biết đến trước đó. Đồng thời, sáng tạo của con người cũng được áp dụng để tạo ra đồ vật mới có ích cho cuộc sống của con người. Sáng chế mang tính ứng dụng thiết thực nhưng cũng phải dựa trên những quy luật được phát hiện ra trước đó. Các nhà tâm lý học xem xét sáng tạo theo những chiều cạnh khác nhau. Sáng tạo có thể được xem như là quá trình tạo ra cái mới; sáng tạo cũng có thể được xem xét theo những đặc điểm của sản phẩm mới được tạo
- ra và sáng tạo còn được xem xét như năng lực, như đặc điểm nhân cách của người sáng tạo. Trước hết, sáng tạo được xem như một quá trình tạo ra cái mới trong hoạt động của con người. Quan niệm loại này xuất phát từ bản chất của quá trình sáng tạo. Watson [1928] chẳng hạn, phân biệt sáng tạo theo cách mà cái mới được tạo ra. Câu hỏi đặt ra là cái mới được sinh ra như thế nào? Sự sáng tạo trong ngôn ngữ diễn ra như thế nào? Một bài thơ hay, một bài luận xuất sắc được tạo ra như thế nào? Câu trả lời là chúng ta đến đó được là nhờ thao tác từ ngữ, chuyến đổi từ ngữ đến khi loại hình mới xuất hiện. Trường phái Gestal thì lại cho rằng sáng tạo là sự thấu hiểu xuất hiện khi người tư duy nắm bắt được những nét chính yếu của vấn đề và mối quan hệ của chúng với giải pháp cuối cùng. Sáng tạo được coi là hoạt động giải quyết vấn đề đặc trưng bởi tính thới mẻ, tinh phi truyền thõng, sự bền bỉ và khó khăn trong hình thành vấn đề [Newell và đồng nghiệp, 1962]. Guilford đưa ra định nghĩa sáng tạo trong mối quan hệ với năng lực cá nhân của người sáng tạo. "Theo nghĩa hẹp, sáng tạo liên quan đến những năng lực đặc trưng cho những người sáng tạo. Hay nói cách khác vấn đề tâm lý học liên quan đến nhân cách sáng tạo… Tôi thường xác định nhân cách cá nhân như một kiểu thuộc tính độc nhất làm một người khác với những người khác. Nhà tâm lý học đặc biệt quan tâm đến những đặc điểm được biểu hiện trong thực hiện hành động hay trong các đặc điểm hành vi. Các thuộc tính hành vi diễn ra phụ thuộc vào các cấu thành lớn như năng lực, hứng thú, thái độ và các thuộc tính khí chất. Nhân cách sáng tạo là tập hợp các kiểu loại đặc điểm đặc trưng cho những con người sáng tạo" [Guiord, 1950: 444]. Mặc dù tiếp cận nhân cách được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm nhưng đa số các định nghĩa sáng tạo có nhắc đến chỉ báo của sản phẩm sáng tạo như là dấu hiệu để phân biệt. Hầu hết các định nghĩa nhấn mạnh vào sản phẩm sáng tạo bao gồm thuộc tính mới và phù hợp. Barron
- [1955:478479] cho rằng sản phẩm sáng tạo phải độc đáo, tức là không giống với phần lớn đồ vật khác được tạo ra và sản phẩm phải ở mức độ nào đó thích ứng với thực tiễn. Tóm lại, sáng tạo có thể được coi là quá trình tiến tới cái mới, là năng lực tạo ra cái mới, sáng tạo được đánh giá trên cơ sở sản phẩm mới, độc đáo và có giá trị. Tuy nhiên, cần phải phân biệt hai loại định nghĩa sáng tạo: định nghĩa mang tính thao tác và định nghĩa mang tính quan điểm. Định nghĩa sáng tạo mang tính thao tác dựa chủ yếu vào tiêu chuẩn chủ quan và như vậy chưa đủ cơ sở để sử dụng trong các lý thuyết về sáng tạo. Ở thời điểm hiện tại các nghiên cứu thực chứng về sáng tạo của con người chưa có các chuẩn mực khoa học để xác định các sản phẩm sáng tạo, việc hình thành các lý thuyết sáng tạo dựa chủ yếu vào các thừa nhận chung về tiêu chuẩn và các đặc tính của các tiêu chuẩn đó. Vì vậy, điều quan trọng ở đây là phải xác định các tiêu chuẩn của cái mà các nhà nghiên cứu gọi là “sáng tạo". Khung lý thuyết của sáng tạo có thể bao hàm hai thành tố cơ bản: “Một sản phẩm hay câu trả lời được gọi là sáng tạo [a] chúng phải mới và phù hợp, hữu dụng, đúng hay có giá trị cho nhiệm vụ, công việc của con người và [b] nhiệm vụ phải có tính trực giác chứ không mang tính lôgíc" [Amabile, 1996:35]. Quan niệm của Amabile nhấn mạnh tính phi lôgíc của sự xuất hiện ý tưởng sáng tạo. Quan niệm này là phù hợp vì rằng nếu đã có lôgíc đi đến sáng tạo thì nhiệm vụ tự nó không còn là sáng tạo nữa. Con đường lôgíc là con đường rõ ràng đã được xác định trước đó; ngược lại con đường sáng tạo là con đường chưa có sẵn, còn lờ mờ, không rõ ràng cho đến khi tìm được lời giải. Khi giải quyết các nhiệm vụ sáng tạo, con đường lôgíc được xây dựng hay được phát hiện ra. Như vậy, nhiệm vụ có được coi là sáng tạo hay không phụ thuộc rất nhiều vào mục tiêu cụ thể và mức độ kiến thức của người thực hiện. Ví dụ, nhiệm vụ làm một loại bánh cụ thể không được coi là nhiệm vụ Sáng tạo, người thực hiện chỉ cần làm