Đánh giá những tác động của điều kiện tự nhiên đến phát triển kinh tế xã hội khu vực Đông Nam A

BNEWS Hợp tác kinh tế là yếu tố then chốt để thoát khỏi đại dịch, giải pháp này làm giảm phí tổn dài hạn của COVID-19 xuống mức thấp nhất và gia tăng lợi ích từ những nỗ lực xây dựng quốc gia tốt đẹp hơn.

Tác giả bài viết trên báo The Straits Times đánh giá năm 2022 đã khởi đầu với rất nhiều khó khăn. Biến thể Omicron của virus SARS-CoV-2 đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến sự phục hồi của các nền kinh tế, với việc nhiều nước phải tái áp đặt các hạn chế đi lại, kéo theo những gián đoạn chuỗi cung ứng và giá năng lượng tăng cao. Hậu quả là tình trạng lạm phát trên diện rộng và ở mức cao hơn dự kiến.Sự phục hồi chậm hơn dự kiến của tiêu dùng tư nhân cũng đã hạn chế triển vọng tăng trưởng của Trung Quốc. Quỹ Tiền tệ Quốc tế [IMF] dự báo tăng trưởng toàn cầu năm 2022 ở mức 4,4% - giảm 0,5 điểm phần trăm so với dự báo trong Triển vọng Kinh tế Thế giới hồi tháng 10/2021.Tiếp đó là cuộc xung đột ở Ukraine đã gây bất ổn cho các thị trường năng lượng toàn cầu, đem lại sự không chắc chắn mới cho các dự báo về tăng trưởng. Và điều này sẽ còn tiếp diễn.Trong bối cảnh đó, việc các chính phủ mong muốn tăng cường khả năng tự cung tự cấp, đi kèm với các chính sách ủng hộ chủ nghĩa bảo hộ, trong suốt hai năm qua là không quá đáng ngạc nhiên. Tuy nhiên, đó chưa phải là giải pháp tốt nhất. Giờ đây, hơn bao giờ hết, các quốc gia cần mở cửa trở lại và tăng cường hợp tác quốc tế.Hợp tác kinh tế là yếu tố then chốt để thoát khỏi đại dịch một cách suôn sẻ nhất có thể. Giải pháp này cũng có thể giúp làm giảm những phí tổn dài hạn của đại dịch COVID-19 xuống mức thấp nhất và gia tăng tối đa lợi ích từ những nỗ lực nhằm xây dựng lại quốc gia tốt đẹp hơn.Liên quan đến vấn đề này, Đông Nam Á là một câu chuyện thành công.

Các dòng chảy tự do

Khu vực Đông Nam Á vẫn kiên trì với niềm tin rằng sự thịnh vượng kinh tế được củng cố bởi các dòng chảy tự do thương mại, đầu tư và con người. Và với việc các chuỗi cung ứng đã "xoay trục" sang khu vực này, xu hướng hợp tác liên tục đã giúp khu vực này trở thành tâm điểm cho sự cởi mở và kết nối toàn cầu. Tuy nhiên, mọi thứ luôn có thể tốt hơn.Các đợt phong tỏa mới nhất ở Trung Quốc đã làm gia tăng sự không chắc chắn – điều không bao giờ là tốt đẹp đối với các nền kinh tế đang phục hồi. Tuy nhiên, sự can dự của chính phủ có thể bù đắp cho điều này.Ví dụ, vào đầu tháng Ba, một số chính quyền cấp tỉnh của Trung Quốc đã công bố kế hoạch tích cực nhằm khuyến khích các doanh nghiệp tận dụng Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực [RCEP] đã được phê chuẩn, trong đó cung cấp cho các nước thành viên quyền tiếp cận phi thuế quan với 30% quy mô kinh tế thế giới. Các chính phủ Đông Nam Á có thể làm theo mô hình này. 

Hơn nữa, những quy định về nguồn gốc xuất xứ của RCEP cho phép các thị trường Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á [ASEAN] cung cấp tới 60% [tính theo giá trị gia tăng] linh kiện hàng hóa từ các nền kinh tế không thuộc RCEP để bán miễn thuế trong nội bộ khối. Điều này đem lại cho các quốc gia nhiều dư địa để đa dạng hóa chuỗi cung ứng với các nước thứ ba nhằm phòng ngừa có hiệu quả tình trạng bất trắc.  

Các nền kinh tế đang tìm cách kích thích tăng trưởng sản xuất và xuất khẩu có thể tìm cách khơi thông dòng vốn, bao gồm cả cải cách về đầu tư trực tiếp nước ngoài [FDI].Những ví dụ bao gồm sửa đổi các danh sách đầu tư tiêu cực, ưu đãi thuế cho một số lĩnh vực và các quy trình đẩy nhanh phê duyệt đầu tư. Nhiều trong số những thay đổi này đang được các cơ quan lập pháp của các quốc gia thảo luận, song vẫn cần động lực mạnh mẽ để những dự luật này được thông qua.  Đông Nam Á đã chứng kiến sự bùng nổ về kinh tế số trong hai năm qua mà không nơi nào trên thế giới sánh kịp. Theo báo cáo của Google, Bain và Temasek, chỉ riêng năm 2020, có 40 triệu người ở khu vực này lần đầu tiên tham gia mạng Internet và hiện trên toàn khu vực có 400 triệu người sử dụng Internet.Đối với nhiều doanh nghiệp, hai năm qua là khoảng thời gian mà họ có thể áp dụng công nghệ và thực hiện các hoạt động trực tuyến nhanh nhất từ trước đến nay. Tuy nhiên, nhiều trong những sự thay đổi này cần được sửa chữa để tiếp tục tồn tại.Những sự thay đổi này cần được củng cố khi cơ sở dữ liệu người tiêu dùng của Đông Nam Á chuyển dịch cơ cấu sang trực tuyến. Các doanh nghiệp không thể làm việc đó một mình.

Thay đổi đưa đến thay đổi

Từ góc độ chính sách, việc cải thiện cơ sở hạ tầng kỹ thuật số, trong đó có đẩy nhanh tốc độ thanh toán ngay lập tức cho các doanh nghiệp và làm hài hòa các tiêu chuẩn dữ liệu, sẽ mang lại sự tự tin và công khai minh bạch hơn cho người mua hàng và nhà cung cấp.Với giá trị thanh toán toàn cầu dự kiến đạt 156.000 tỷ USD trong năm nay, thanh toán xuyên biên giới là khớp nối quan trọng của sự kết nối toàn cầu. Điều này đặc biệt quan trọng khi nền kinh tế số có vai trò nổi bật hơn.Sự kết nối thành công của các hệ thống thanh toán thời gian thực của Singapore và Thái Lan hồi năm 2021 đánh dấu không chỉ sự liên kết thanh toán xuyên biên giới đầu tiên trên thế giới, mà còn là cột mốc quan trọng trong việc hiện thực hóa tiềm năng của nền kinh tế số Đông Nam Á. Điều này cũng cho thấy sức mạnh của cách tiếp cận theo cụm từ dưới lên trong việc tạo ra các khuôn khổ hữu hình.Những ví dụ như thế này tạo điều kiện cho sự tham gia rộng rãi hơn của cả lĩnh vực dịch vụ tài chính lẫn các thị trường khác của Đông Nam Á, với mục tiêu cuối cùng là đem lại một mô hình khu vực thực sự. Bằng việc cho phép cả doanh nghiệp và người tiêu dùng giao dịch xuyên biên giới, Đông Nam Á đang trên đà gặt hái được tiềm năng khổng lồ của nền kinh tế số khu vực.

Con đường phía trước

Chính loại hình hợp tác này đã hỗ trợ và bổ sung cho hành động của các chính phủ theo hai cách. Thứ nhất, việc phối hợp và chọn thời điểm cho các biện pháp mang tầm cỡ quốc gia đã làm gia tăng những tác động tích cực. Điều này sẽ giúp xây dựng lòng tin đối với các thị trường tài chính và giữa các nhà đầu tư.Thứ hai, việc chia sẻ thông tin và tổng hợp các nguồn lực cho phép cộng đồng quốc tế tìm ra các giải pháp chung cho các vấn đề toàn cầu – đó là điều mà khuôn khổ thanh toán thời gian thực của Thái Lan, Singapore đã cho thấy rõ. Việc cung cấp mô hình này dễ dàng hơn là chỉ đơn giản dựa vào các biện pháp thị trường.

Có thể nói, khu vực Đông Nam Á đã luôn ở trong trạng thái thay đổi trong ba năm qua do những thay đổi địa chính trị và dịch bệnh. Thay đổi đưa đến thay đổi. ASEAN đã sử dụng động lực đó để tiến về phía trước và sẽ có ý nghĩa hơn nếu khu vực cùng tiến bước với tư cách là một cộng đồng quốc tế, thay vì là một thị trường duy nhất./.

Bởi Phạm Thu Thủy, Karen Bennett, Vũ Tấn Phương, Jake Brunner, Lê Ngọc Dũng, Nguyễn Đình Tiến

Giới thiệu về cuốn sách này

Page 2

Bởi Phạm Thu Thủy, Karen Bennett, Vũ Tấn Phương, Jake Brunner, Lê Ngọc Dũng, Nguyễn Đình Tiến

Giới thiệu về cuốn sách này

Bởi Nhịp Cầu Đầu Tư

Giới thiệu về cuốn sách này

Page 2

Bởi Nhịp Cầu Đầu Tư

Giới thiệu về cuốn sách này

HUYỆN ĐỒNG HỶ

      I. ĐẶC ĐIỂM TỰ NHIÊN

      1. Vị trí địa lí

      Đồng Hỷ là huyện miền núi của tỉnh Thái Nguyên, cách trung tâm thành phố Thái Nguyên 5 km về phía đông bắc. Địa phận huyện Đồng Hỷ trải dài từ 21032’ đến 21051’độ vĩ  bắc, 105046’ đến 106004’ độ kinh đông. Phía Bắc giáp huyện Võ Nhai, tỉnh Thái Nguyên và huyện Chợ Mới, tỉnh Bắc Kạn, phía Nam giáp huyện Phú Bình và thành phố Thái Nguyên, phía Đông giáp huyện Yên Thế, tỉnh Bắc Giang, phía Tây giáp huyện Phú Lương và thành phố Thái Nguyên. Đồng Hỷ có vị trí thuận lợi nằm sát với thành phố Thái Nguyên, trung tâm chính trị, văn hóa của tỉnh Thái Nguyên.

      2. Đặc điểm tự nhiên

     - Đồng Hỷ có địa hình phức tạp, chia thành hai vùng rõ rệt: Phía Bắc, Đông Bắc [xã Văn Lăng, Tân Long, Văn Hán, Cây Thị…] là vùng núi thấp, độ cao trung bình 500 - 600m; phía nam và tây nam [xã Hóa Thượng, Nam Hòa, Tân Lợi…] là vùng trung du có địa hình thấp, độ cao trung bình dưới 100m.

     - Khí hậu được hình thành từ một nền nhiệt cao của đới chí tuyến và sự thay thế của các hoàn lưu lớn theo mùa, kết hợp với địa hình đã tạo nên khí hậu nóng ẩm, mưa mùa, có mùa đông lạnh và thất thường trong năm.

     + Nhiệt độ trung bình hàng năm 220C. Vào mùa hè, tiết trời nóng bức, nhiệt độ trung bình từ 25-270C, mùa đông chịu ảnh hưởng của hơn 20 đợt gió mùa đông bắc, mỗi đợt kéo dài 2-5 ngày, tiết trời giá lạnh, ít mưa, nhiệt độ dao động từ 12-150C, có năm thấp xuống dưới 100C, xuất hiện sương muối. Ba tháng nhiệt độ lạnh nhất trong năm là tháng 12, 1, 2 nhiệt độ trung bình dưới 170C.

     + Lượng mưa trung bình năm từ 1500mm đến 2200mm; chế độ mưa chủ yếu phụ thuộc vào hoàn lưu mùa. Mùa mưa trùng với mùa nóng kéo dài từ tháng IV đến tháng X chiếm 85-90% lượng mưa trong năm. Mùa ít mưa trùng với mùa lạnh, từ tháng XI đến tháng III với lượng mưa từ 200-400mm, bằng 10-15% lượng mưa cả năm.

     - Thủy văn: Trên địa bàn huyện có hai con sông lớn. Sông Cầu là dòng chảy chính của sông Thái Bình, bắt nguồn từ phía bắc Tam Tao [Chợ Đồn, Bắc Kạn] ở độ cao trên 1200m, qua vùng Bạch Thông, Phú Lương, Võ Nhai. Đến địa phận huyện Đồng Hỷ, sông chảy qua các xã Văn Lăng, Hòa Bình, Minh Lập, Hóa Thượng, qua thành phố Thái Nguyên, huyện Phú Bình, thị xã Phổ Yên sang Bắc Ninh. Sông Cầu có lưu lượng nước lớn, trung bình khoảng 135m3/năm, chế độ nước phù hợp với chế độ mưa. Mùa mưa đồng thời là mùa lũ kéo dài từ tháng V đến tháng X. Mùa kiệt phù hợp với mùa khô, từ tháng XI đến tháng IV. Sông Linh Nham là sông nhỏ, chảy từ Khe Mo, Hóa Trung, hợp lưu với sông Cầu ở thành phố Thái Nguyên.

     II. ĐẶC ĐIỂM KINH TẾ, VĂN HÓA - XÃ HỘI

     1. Kinh tế

     Trong bối cảnh tình hình kinh tế - xã hội của tỉnh, của huyện có chuyển biến tích cực nhưng vẫn còn nhiều khó khăn, huyện Đồng Hỷ đã triển khai đồng bộ các giải pháp, quyết tâm thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ đề ra hằng năm, do vậy tình hình kinh tế, xã hội về cơ bản ổn định; các nguồn lực được tập trung để thực hiện các công trình, dự án trọng điểm; công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng được đẩy mạnh; môi trường sản xuất kinh doanh được củng cố; các nguồn thu được khai thác có hiệu quả…

     - Năm 2018 tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất các ngành kinh tế chủ yếu đạt 14,46% [công nghiệp - xây dựng: 22,9%; nông, lâm nghiệp, thủy sản: 3,66%; thương mại - dịch vụ: 4,9%].

     + Sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, xây dựng được quan tâm đầu tư phát triển. Tổng giá trị sản xuất công nghiệp - xây dựng [theo giá cố định năm 2010] đạt 2.215 tỷ đồng. Trong đó giá trị sản xuất công nghiệp Trung ương đạt 505 tỷ đồng; giá trị sản xuất công nghiệp, TTCN địa phương đạt 720 tỷ đồng; giá trị sản xuất ngành Xây dựng đạt 990 tỷ đồng. Các ngành công nghiệp có tiềm năng, thế mạnh của địa phương như khai thác và chế biến khoáng sản, sản xuất vật liệu xây dựng tiếp tục được quan tâm, phát triển; một số dự án mới đã và đang được đầu tư như: Dây chuyền luyện gang 100.000 tấn/năm và nhà máy sản xuất phôi thép công suất 165.000 tấn/năm của Công ty Cổ phần Luyện kim đen Thái Nguyên; các nhà máy sản xuất gạch với công suất 20-35 triệu viên/năm ở xã Khe Mo, Hóa Trung; 02 nhà máy thời trang với quy mô gần 1.000 lao động ở xã Hóa Thượng, Nam Hòa. Năm 2018, toàn huyện có trên 170 doanh nghiệp đang hoạt động; 28 làng nghề truyền thống, góp phần giải quyết việc làm, xóa đói, giảm nghèo, tăng thu nhập cho người lao động ở nông thôn.

     + Sản xuất nông, lâm nghiệp đạt nhiều kết quả do triển khai tốt các dự án, chương trình hỗ trợ sản xuất. Công tác khuyến nông, chuyển giao áp dụng tiến bộ khoa học kĩ thuật  được đẩy mạnh và phát huy hiệu quả. Năm 2018 giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp, thủy sản [theo giá so sánh năm 2010] đạt 1.231 tỷ đồng; cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp có sự chuyển dịch tích cực theo hướng tăng dần tỉ trọng ngành chăn nuôi và dịch vụ nông nghiệp; cơ cấu mùa vụ, cây trồng chuyển dịch theo hướng nâng cao năng xuất, chất lượng sản phẩm và giá trị trên một đơn vị diện tích; từng bước hình thành các vùng sản xuất chuyên canh, tập trung như sản xuất lương thực, trồng rau, cây ăn quả và vùng chè chất lượng cao… toàn huyện hiện có 3.010 ha chè, trong đó trên 1.000 ha được sản xuất theo quy trình VietGap; giá trị thu nhập bình quân đạt trên 250 triệu đồng/năm/01 ha; sản lượng chè búp tươi đạt trên 38.000 tấn/năm; sản lượng lương thực có hạt bình quân đạt trên 46.000 tấn/năm; trồng rừng mới đạt trên 1.200 ha/năm, nâng độ che phủ rừng đạt trên 50%. Chăn nuôi tiếp tục phát triển theo hướng trang trại công nghiệp, toàn huyện hiện có 89 trang trại chăn nuôi, trong đó có 76 trang trại chăn nuôi gia cầm, 13 trang trại chăn nuôi lợn. Nhiều trang trại có quy mô lớn như trang trại chăn nuôi lợn quy mô trên 1.000 con ở thị trấn Sông Cầu, trang trại gà đẻ trứng với quy mô từ 30.000 - 40.000 con tại xã Khe Mo và thị trấn Trại Cau…

     Chương trình xây dựng nông thôn mới được tập trung lãnh đạo triển khai thực hiện tốt, phát huy tối đa vai trò chủ thể của người dân trong quá trình tổ chức thực hiện. Năm 2018 thực hiện rà soát, bổ sung kế hoạch 02 xã đạt chuẩn nông thôn mới [xã Văn Hán và Nam Hòa]; đồng thời chỉ đạo các xã còn lại tăng từ 02 tiêu chí trở lên. Năm 2018 hoàn thành 03 xã đạt chuẩn nông thôn mới [nâng tổng số xã đạt nông thôn mới lên 08 xã: Hòa Bình, Minh Lập, Hóa Thượng, Khe Mo, Quang Sơn, Hóa Trung, Văn Hán, Nam Hòa]; xã Minh Lập nâng cao chất lượng các tiêu chí để xây dựng dựng xóm Cà Phê 1 đạt xóm nông thôn mới kiểu mẫu năm 2018 và xã đạt tiêu chí nông thôn mới kiểu mẫu vào năm 2020.
Các hoạt động kinh doanh thương mại và dịch vụ như: Bưu chính, viễn thông, văn hóa, y tế, giáo dục, vận tải, dịch vụ phục vụ phát triển sản xuất nông, lâm nghiệp… cơ bản đáp ứng nhu cầu nhân dân. Mạng lưới hệ thống chợ, cửa hàng thương mại dịch vụ được quy hoạch và từng bước đầu tư nâng cấp, cải tạo phục vụ nhu cầu cung ứng và tiêu thụ hàng hóa trên địa bàn.

     Hoạt động của hệ thống ngân hàng trên địa bàn bám sát vào mục tiêu, chương trình phát triển kinh tế - xã hội của huyện, đảm bảo nguồn vốn vay cho các tổ chức, cá nhân sản xuất kinh doanh và thực hiện chính sách xã hội. Hằng năm, nguồn vốn tín dụng và dư nợ tín dụng của các ngân hàng trên địa bàn tăng bình quân trên 15%.

     + Giá trị sản xuất ngành thương mại, dịch vụ kinh tế chủ yếu [năm 2018] đạt 257 tỷ đồng; tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng đạt 719 tỷ đồng.

     Thu ngân sách có mức tăng trưởng khá, năm 2018 đạt 119,7 tỷ đồng, trong đó thu cân đối ngân sách hằng năm [không kể thu cấp quyền sử dụng đất] tăng bình quân 18%.

     Năm 2018, trên địa bàn huyện đã thu hút nguồn vốn đầu tư được trên 1.400 tỷ đồng. Trong đó: Tại Hội nghị xúc tiến đầu tư do tỉnh Thái Nguyên tổ chức, có 02 dự án đầu tư vào huyện được cấp giấy chứng nhận đầu gồm: Dự án xây dựng Khu du lịch sinh thái văn hóa Đá Thiên tại thị trấn Trại Cau do Công ty TNHH Xây dựng Mỹ thuật Thiên Phúc thực hiện với số vốn đầu tư khoảng trên 700 tỷ đồng; dự án xây dựng Khu tổ hợp dịch vụ và công viên văn hóa thể thao Hồng Thái tại xã Hóa Thượng do Công ty Cổ phần Đầu tư và Phát triển đô thị công nghiệp BCD thực hiện, với số vốn đầu tư dự kiến là trên 320 tỷ đồng; ngoài ra dự án mở rộng sản xuất của Công ty Cổ phần Luyện kim đen Thái Nguyên [đầu tư dây chuyền sản xuất phôi thép] với số vốn đầu tư 370 tỷ đồng; dự án Trung tâm dịch vụ sản xuất và giới thiệu sản phẩm thời trang may Phú Hưng, với số vốn đầu tư gần 10 tỷ đồng và thu hút đầu tư các dự án khác như: Dự án mở rộng nhà máy may TNG Đồng Hỷ tại xã Nam Hòa; dự án Xây dựng trang trại lợn tập trung Trọng Khôi tại xã Minh Lập [quy mô 300 ha] và khảo sát thực hiện các dự án thủy điện tại xã Minh Lập; dự án phát triển du lịch hang núi đá vôi tại xã Quang Sơn...

     2. Văn hóa - xã hội

     - Công tác giáo dục - y tế được quan tâm thực hiện tốt; tính từ năm 2015 đến năm 2018 đã xây dựng thêm 12 trường đạt chuẩn Quốc gia, nâng tổng số trường đạt chuẩn Quốc gia toàn huyện 47/53 trường học, bằng 88,6% số trường đạt chuẩn [trong đó 06 trường đạt chuẩn Quốc gia mức độ 2], 100% cán bộ, giáo viên có trình độ đạt chuẩn, trong đó trên chuẩn đạt 81%. Giữ vững và nâng cao chất lượng phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em 5 tuổi; phổ cập giáo dục tiểu học mức độ 3 và phổ cập giáo dục THCS và xóa mù chữ mức độ 2 tại 15/15 xã thị trấn; chất lượng giáo dục được nâng lên, tỷ lệ học sinh tốt nghiệp THCS hằng năm đạt trên 99%; học sinh hoàn thành chương trình tiểu học đạt 100%. Hiện nay, 100% Trạm y tế các xã, thị trấn đều có bác sỹ và đạt chuẩn quốc gia theo bộ tiêu chí mới. Các chương trình mục tiêu y tế - dân số và phòng chống dịch bệnh được triển khai thực hiện đồng bộ, không có dịch bệnh lớn xảy ra trên địa bàn; công tác khám chữa bệnh được thực hiện theo đúng quy chế chuyên môn tại các cơ sở khám, chữa bệnh đảm bảo theo Luật khám chữa bệnh; chất lượng khám chữa bệnh tại các cơ sở y tế và tinh thần, thái độ phục vụ người bệnh được củng cố và nâng lên; công tác tuyên truyền về Luật Bảo hiểm y tế được đẩy mạnh; tỷ lệ bao phủ bảo hiểm y tế đến nay đạt 98,5%.

     - Các hoạt động văn hóa thông tin tuyên truyền có nhiều đổi mới về nội dung và hình thức, đáp ứng nhu cầu phục vụ nhiệm vụ chính trị của huyện và nâng cao đời sống tinh thần cho nhân dân; phong trào thể dục, thể thao quần chúng phát triển sâu rộng; thiết chế văn hóa tiếp tục được củng cố, hoàn thiện; đến nay 201/205 xóm, bản, tổ dân phố có nhà văn hóa, trong đó có 113 nhà văn hóa đạt tiêu chí nông thôn mới; giá trị văn hoá vật thể, phi vật thể như: Di tích lịch sử và lễ hội của đồng bào dân tộc thiểu số [đồng bào dân tộc H’Mông, Sán dìu]... được quan tâm giữ gìn và phát huy; công tác quản lý nhà nước nhà nước về lĩnh vực văn hóa, thông tin được tăng cường đảm bảo đúng định hướng. 

     - Các chính sách xã hội được triển khai thực hiện tốt, nhất là chính sách đối với người có công, giảm nghèo, an sinh xã hội, đào tạo nghề và giải quyết việc làm cho người lao động; bình quân hằng năm số lao động được tạo việc làm mới đạt trên 2.200 lao động; tỷ lệ hộ nghèo bình quân hằng năm giảm trên 3%; công tác phòng chống tệ nạn xã hội trên địa bàn huyện đạt kết quả tích cực, giảm trên 3% số người nghiện ma tuý mỗi năm./.

BAN BIÊN TẬP

Video liên quan

Chủ Đề