Dân tộc là gì những đặc trưng cơ bản của dân tộc

Những đặc trưng cơ bản của dân tộc? Ý nghĩa phương pháp luận trong nhận thức vấn đề dân tộc hiện nay?

Lời giải

Dân tộc là một khối cộng đồng người ổn định được hình thành trong lịch sử, dựa trên cơ sở cộng đồng về ngôn ngữ, lãnh thổ, kinh tế và tâm lý, biểu hiện trong cộng đồng văn hóa. Dân tộc là sản phẩm của quá trình vận động phát triển của xã hội loài người từ thị tộc, bộ lạc, bộ tộc, dân tộc. Dân tộc có những đặc trưng chủ yếu sau đây:

Thứ nhất, dân tộc là một cộng đồng về ngôn ngữ.

Ngôn, ngữ là công cụ giao tiếp xã hội, trước hết là công cụ giao tiếp trong cộng đồng [thị tộc, bộ lạc, bộ tộc, dân tộc]. Các thành viên của một dân tộc có thể dùng nhiều ngôn ngữ trong giao tiếp với nhau. Có một số ngôn ngữ được nhiều dân tộc sử dụng. Điều quan trọng là mỗi dân tộc có một ngôn ngữ chung thông nhất mà các thành viên của dân tộc coi đó là tiếng mẹ đẻ của họ. Tính thống nhất trong ngôn ngữ dân tộc thể hiện trước hết ở sự thống nhất về cấu trúc ngữ pháp và kho từ vựng cơ bản. Ngôn ngữ của một dân tộc thể hiện đặc trưng chủ yếu của dân tộc đó.

Thứ hai, dân tộc là một cộng đồng về lãnh thổ.

Mỗi dân tộc có lãnh thổ riêng thống nhất, không bị chia cắt. Lãnh thổ dân tộc bao gồm cả vùng đất, vùng trời, vùng biển, hải đảo thuộc chủ quyền của quốc gia dân tộc. Trong trường hợp quốc gia có nhiều dân tộc, lãnh thổ quốc gia gồm lãnh thổ của các dân tộc thuộc quốc gia ấy hợp thành. Phạm vi lãnh thổ dân tộc hình thành trong quá trình lịch sử lâu dài. Chủ quyền quốc gia dân tộc về lãnh thổ là một khái niệm xác định, thường được thể chế hóa thành luật pháp quốc gia và luật pháp quốc tế. Thực tế lịch sử có những trường hợp bị chia cắt tạm thời, nhưng không thể căn cứ vào đó mà cho rằng cộng đồng ấy đã bị chia thành hai hay nhiều dân tộc khác nhau. Đương nhiên sự chia cắt đó là một thử thách đối với tính bền vững của một cộng đồng dân tộc.

Cộng đồng lãnh thổ là đặc trưng quan trọng không thể thiếu được của dân tộc. Lãnh thổ là địa bàn sinh tồn và phát triển của dân tộc, không có lãnh thổ thì không có khái niệm tổ quốc, quốc gia.

Thứ ba, dân tộc là một cộng đồng về kinh tế.

Từ các cộng đồng người nguyên thủy chuyển sang bộ tộc, yếu tố liên kết cộng đồng dựa trên quan hệ huyết thống dần dần bị suy giảm, vai trò của nhân tố” kinh tế – xã hội ngày càng tăng. Đây là nhu cầu hoàn toàn khách quan trong đời sống xã hội. Những mối liên hệ kinh tế làm tăng tính thống nhất, ổn định, bền vững của cộng đồng người sống trong một lãnh thổ rộng lớn. Những mối liên hệ kinh tế thường xuyên và mạnh mẽ đặc biệt là mối liên hệ thị trường đã làm tăng tính thông nhất, tính ổn định, bền vững của cộng đồng người đông đảo sống trong lãnh thổ rộng lớn. Thiếu sự cộng đồng chặt chẽ, bền vững về kinh tế thì cộng đồng người chưa phải là dân tộc.

Thứ tư, dân tộc là một cộng đồng về văn hóa, tâm lý, tính cách…

Văn hóa là yếu tố đặc biệt quan trọng của sự liên kết cộng đồng. Văn hóa dân tộc mang nhiều sắc thái của các địa phương, các sắc tộc, các tập đoàn người song nó vẫn là một nền văn hóa thông nhất không bị chia cắt. Tính thống nhất trong đa dạng là đặc trưng của văn hóa dân tộc. Văn hóa dân tộc hình thành trong quá trình lâu dài của lịch sử, hơn bất cứ yếu tố’ nào khác, tạo ra sắc thái riêng đa dạng, phong phú của từng dân tộc. Mỗi dân tộc có một nền văn hóa riêng để phân biệt dân tộc này với dân tộc khác. Văn hóa của mỗi dân tộc không thể phát triển, nếu không giao lưu văn hóa với các dân tộc khác. Mỗi dân tộc có tâm lý, tính cách riêng. Để nhận biết tâm lý, tính cách của mỗi dân tộc phải thông qua sinh hoạt vật chất, sinh hoạt tinh thần của dân tộc ấy, đặc biệt thông qua phong tục, tập quán, tín ngưỡng, đời sống văn hóa.

Những đặc trưng trên có quan hệ biện chứng tác động qua lại lẫn nhau, kết hợp với nhau một cách chặt chẽ trong lịch sử hình thành, phát triển cộng đồng dân tộc. Trong đó cộng đồng về kinh tế có vai trò quyết định đối với dân tộc. Các đặc trưng khác có vai trò nhất định đối với quá trình hình thành, phát triển dân tộc.

Nghiên cứu vấn đề dân tộc hiện nay có vai trò to lớn đối với sự phát triển của con người, của mỗi quốc gia dân tộc. Dân tộc không chỉ là sản phẩm của sự phát triển kinh tế, văn hóa xã hội mà còn là động lực của sự phát triển của mỗi quốc gia trong thời đại ngày nay, thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Hợp tác và hội nhập là xu thế khách quan đối với mỗi quốc gia dân tộc trên thế giới, song không vì thế mà làm mất đi bản sắc với những đặc trưng phong phú của dân tộc mình. Với ý nghĩa đó, việc quán triệt quan điểm của Đảng ta về xây dựng mối quan hệ hữu nghị giữa các dân tộc trên thế giới và giữ gìn bản sắc của các dân tộc hiện nay là vấn đề đặt ra hết sức cần thiết đối với mỗi dân tộc.

Một là, chỉ cộng đồng người có mối liên hệ chặt chẽ và bền vững, cósinh hoạt kinh tế chung, có ngôn ngữ riêng và những nét văn hoá đặc thù;xuất hiện sau bộ lạc, bộ tộc; kế thừa, phát triển cao hơn những nhân tố tộcngười ở bộ lạc, bộ tộc và thể hiện thành ý thức tự giác tộc người của dân cưcộng đồng đó.Theo nghĩa thứ nhất, dân tộc được hiểu như một tộc ngườihay một dân tộc trong một quốc gia đa dân tộc. Với nghĩa hiểu này, ViệtNam gồm 54 dân tộc hay 54 tộc người.Hai là, chỉ một cộng đồng người ổn định hợp thành nhân dân mộtnước, có lãnh thổ, quốc gia, nền kinh tế thống nhất, quốc ngữ chung và cóý thức về sự thống nhất quốc gia của mình, gắn bó với nhau bởi lợi íchchính trị, kinh tế, truyền thống văn hoá và truyền thống đấu tranh chungtrong suốt quá trình lịch sử lâu dài dựng nước và giữ nước. Theo nghĩa thứhai, dân tộc đồng nghĩa với quốc gia - dân tộc. Theo nghĩa này, có thể nóidân tộc Việt Nam, dân tộc Trung Hoa, v.v..Với nghĩa thứ nhất, dân tộc là một bộ phận của quốc gia; với nghĩathứ hai, dân tộc là toàn bộ nhân dân của quốc gia đó - quốc gia dân tộc.Dưới giác độ môn học chủ nghĩa xã hội khoa học, dân tộc được hiểu theonghĩa thứ nhất. Tuy nhiên, chỉ khi đặt nó bên cạnh nghĩa thứ hai, trong mốiliên hệ với nghĩa thứ hai thì sắc thái nội dung của nó mới bộc lộ đầy đủ.Dân tộc thường được nhận biết thông qua những đặc trưng chủ yếusau đây:+ Có chung một phương thức sinh hoạt kinh tế. Đây là đặc trưng quantrọng nhất của dân tộc. Các mối quan hệ kinh tế là cơ sở liên kết các bộphận, các thành viên của dân tộc, tạo nên nền tảng vững chắc của cộng đồngdân tộc.+ Có thể cư trú tập trung trên một vùng lãnh thổ của một quốc gia,hoặc cư trú đan xen với nhiều dân tộc anh em. Vận mệnh dân tộc một phầnrất quan trọng gắn với việc xác lập và bảo vệ lãnh thổ đất nước.+ Có ngôn ngữ riêng và có thể có chữ viết riêng [trên cơ sở ngôn ngữchung của quốc gia] làm công cụ giao tiếp trên mọi lĩnh vực: kinh tế, vănhoá, tình cảm...+ Có nét tâm lý riêng [nét tâm lý dân tộc] biểu hiện kết tinh trong nềnvăn hoá dân tộc và tạo nên bản sắc riêng của nền văn hoá dân tộc, gắn bóvới nền văn hoá của cả cộng đồng các dân tộc [quốc gia dân tộc].Như vậy, cộng đồng người ổn định chỉ trở thành dân tộc khi có đủ cácđặc trưng trên, các đặc trưng của dân tộc là một chỉnh thể gắn bó chặt chẽvới nhau, đồng thời mỗi đặc trưng có một vị trí xác định. Sự tổng hợp các122 đặc trưng nêu trên làm cho các cộng đồng dân tộc được đề cập ởđây - về thực chất là một cộng đồng xã hội - tộc người, trong đó nhữngnhân tố tộc người đan kết, hoà quyện vào các nhân tố xã hội. Điều đó làmcho khái niệm dân tộc khác với các khái niệm sắc tộc, chủng tộc - thườngchỉ căn cứ vào các đặc điểm tự nhiên, chẳng hạn màu da hay cấu tạo tựnhiên của các bộ phận trong cơ thể để phân loại cộng đồng người.Nghiên cứu khái niệm và các đặc trưng của dân tộc cần thấy rằng:khái niệm dân tộc và khái niệm quốc gia gắn bó chặt chẽ với nhau. Bởi vì,dân tộc ra đời trong một quốc gia nhất định, thông thường thì những nhântố hình thành dân tộc chín muồi không tách rời với sự chín muồi của nhữngnhân tố hình thành quốc gia – chúng bổ sung và thúc đẩy lẫn nhau.Nếu như cộng đồng thị tộc [trong xã hội nguyên thuỷ] mang tínhthuần tuý tộc người, trong đó quan hệ huyết thống còn đóng vai trò chi phốituyệt đối, thì ở cộng đồng bộ lạc và liên minh bộ lạc [xuất hiện vào cuối xãhội nguyên thuỷ] đã xuất hiện dưới dạng đầu tiên những thiết chế chính trị– xã hội, trong đó những quan hệ tộc người xen với những quan hệ chínhtrị – xã hội. Cộng đồng bộ tộc xuất hiện vào thời kỳ xã hội có sự phân chiarõ rệt hơn về giai cấp và sau đó là sự xuất hiện nhà nước – quốc gia. Từđây, sự cố kết bộ tộc là nhân tố quan trọng trong sự hình thành và củng cốquốc gia; ngược lại, sự hình thành, củng cố quốc gia là điều kiện có ý nghĩaquyết định sự củng cố và phát triển của cộng đồng bộ tộc, là sự chuẩn bịquan trọng nhất để cộng đồng bộ tộc chuyển lên một hình thức cao hơn –tức là dân tộc.Tính tộc người và tính chính trị - xã hội đó ghi đậm vào tâm trí củađông đảo dân cư ý thức gắn bó quyền lợi và nghĩa vụ của mình với dân tộc,với nhà nước, quốc gia. Tình cảm đối với dân tộc hoà nhập vào tình cảmđối với Tổ quốc và trở thành một trong những giá trị thiêng liêng, bền vữngcủa nhiều thế hệ con người ở nhiều dân tộc, quốc gia. Tình cảm ấy xuấthiện và được củng cố trong quá trình lịch sử dựng nước và giữ nước lâudài, trở thành nét truyền thống đặc sắc của các dân tộc, quốc gia đó.Nhận thức vấn đề này không chỉ có ý nghĩa khoa học mà còn có ýnghĩa thực tiễn quan trọng. Bởi vì, công cuộc cải tạo xã hội cũ, xây dựng xãhội mới – từ cơ sở kinh tế đến kiến trúc thượng tầng và các quan hệ xã hộikhông thể thiếu nội dung cải tạo, xây dựng cộng đồng dân tộc và các mốiquan hệ dân tộc. Ngược lại, việc cải tạo, xây dựng cộng đồng dân tộc vàcác mối quan hệ dân tộc không thể tách rời công cuộc cải tạo, xây dựngtoàn diện xã hội mà trước hết là xây dựng chế độ chính trị - xã hội, xâydựng nhà nước theo con đường tiến bộ.123 Dân tộc xã hội chủ nghĩa chỉ xuất hiện do kết quả của sự cải tạo, xâydựng từng bước cộng đồng dân tộc và các mối quan hệ dân tộc theo cácnguyên lý của chủ nghĩa xã hội khoa học. Đồng thời, dân tộc xã hội chủnghĩa chỉ có thể xuất hiện do kết quả của công cuộc cải tạo, xây dựng toàndiện các lĩnh vực của đời sống xã hội để từng bước củng cố chế độ xã hộichủ nghĩa.Tuy nhiên, trong thực tiễn, không nên xem nhẹ hoặc làm lu mờ nhữngnhân tố dân tộc tồn tại lâu dài trong một cộng đồng quốc gia gồm nhiều dântộc. Nhân tố dân tộc đó được biểu hiện nổi bật nhất trong văn hoá, nghệthuật, ngôn ngữ, phong tục, tập quán, tâm lý và tình cảm; chúng hoà quyệnvào nhau tạo thành một thể thống nhất trong đa dạng về bản sắc dân tộc; làcăn cứ chủ yếu để phân biệt dân tộc này với dân tộc khác. Điều đó đòi hỏinhà nước xã hội chủ nghĩa trong khi hoạch định và thực hiện mọi chínhsách chung của quốc gia, cần chú ý đến tính đặc thù của cộng đồng gồmnhiều dân tộc, hơn nữa, cần có những chính sách riêng đáp ứng những đòihỏi chính đáng mang tính đặc thù của từng dân tộc.2. Hai xu hướng của sự phát triển các dân tộc và biểu hiện của haixu hướng khách quan đó trong thời đại ngày nayNghiên cứu vấn đề dân tộc và phong trào dân tộc trong điều kiện củachủ nghĩa tư bản, V.I. Lênin đã phát hiện ra hai xu hướng khách quan củasự phát triển các dân tộc.Xu hướng thứ nhất, do sự thức tỉnh, sự trưởng thành của ý thức dântộc mà các cộng đồng dân cư muốn tách ra để xác lập các cộng đồng dântộc độc lập. Trong thời kỳ tư bản chủ nghĩa, ở các quốc gia gồm nhiều cộngđồng dân cư có nguồn gốc tộc người khác nhau. Khi mà các tộc người đócó sự trưởng thành về ý thức dân tộc, ý thức về quyền sống của mình, cáccộng đồng dân cư đó muốn tách ra thành lập các dân tộc độc lập. Vì họhiểu rằng, chỉ trong cộng đồng độc lập, họ mới có quyền quyết định vậnmệnh của mình mà quyền cao nhất là quyền tự do lựa chọn chế độ chính trịvà con đường phát triển. Trong thực tế, xu hướng này đã biểu hiện thànhphong trào đấu tranh chống áp bức dân tộc, thành lập các quốc gia dân tộcđộc lập. Xu hướng này nổi lên trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa tư bản vàvẫn còn tác động trong giai đoạn đế quốc chủ nghĩa.Xu hướng thứ hai, các dân tộc trong từng quốc gia, thậm chí các dântộc ở nhiều quốc gia muốn liên hiệp lại với nhau. Xu hướng này nổi lêntrong giai đoạn đế quốc chủ nghĩa. Chính sự phát triển của lực lượng sảnxuất, của khoa học và công nghệ, của giao lưu kinh tế và văn hoá trong xãhội tư bản đã làm xuất hiện nhu cầu xoá bỏ hàng rào ngăn cách giữa các124 dân tộc, tạo nên mối liên hệ quốc gia và quốc tế rộng lớn giữa các dân tộc,thúc đẩy các dân tộc xích lại gần nhau.Hai xu hướng này vận động trong điều kiện của chủ nghĩa đế quốc gặpnhiều trở ngại. Bởi vì, nguyện vọng của các dân tộc được sống độc lập, tựdo bị chính sách xâm lược của chủ nghĩa đế quốc xoá bỏ. Chính sách xâmlược của chủ nghĩa đế quốc đã biến hầu hết các dân tộc nhỏ bé hoặc còn ởtrình độ lạc hậu thành thuộc địa và phụ thuộc của nó. Xu hướng các dân tộcxích lại gần nhau trên cơ sở tự nguyện và bình đẳng bị chủ nghĩa đế quốcphủ nhận. Thay vào đó họ áp đặt lập ra những khối liên hiệp nhằm duy trìáp bức, bóc lột đối với các dân tộc khác, trên cơ sở cưỡng bức và bất bìnhđẳng.Vì vậy, chủ nghĩa Mác-Lênin cho rằng, chỉ trong điều kiện của chủnghĩa xã hội, khi chế độ người bóc lột người bị xoá bỏ thì tình trạng dântộc này áp bức, đô hộ các dân tộc khác mới bị xoá bỏ và chỉ khi đó hai xuhướng khách quan của sự phát triển dân tộc mới có điều kiện để thể hiệnđầy đủ. Quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội là sự quá độ lênmột xã hội thực sự tự do, bình đẳng, đoàn kết hữu nghị giữa người vàngười trên toàn thế giới.Hai xu hướng khách quan của phong trào dân tộc do V.I. Lênin pháthiện đang phát huy tác dụng trong thời đại ngày nay với những biểu hiện rấtphong phú và đa dạng.* Xét trong phạm vi các quốc gia xã hội chủ nghĩa có nhiều dân tộc:Xu hướng thứ nhất biểu hiện trong sự nỗ lực của từng dân tộc để đi tớisự tự chủ và phồn vinh của bản thân dân tộc mình. Xu hướng thứ hai tạonên sự thúc đẩy mạnh mẽ để các dân tộc trong cộng đồng quốc gia xích lạigần nhau hơn, hoà hợp với nhau ở mức độ cao hơn trong mọi lĩnh vực củađời sống.ở các quốc gia xã hội chủ nghĩa, hai xu hướng phát huy tác động cùngchiều, bổ sung, hỗ trợ cho nhau và diễn ra trong từng dân tộc, trong cả cộngđồng quốc gia và đến tất cả các quan hệ dân tộc. Sự xích lại gần nhau trêncơ sở tự nguyện, bình đẳng giữa các dân tộc sẽ tạo điều kiện cho từng dântộc đi nhanh tới sự tự chủ và phồn vinh. Bởi vì, nó sẽ tạo điều kiện cho dântộc đó có thêm những điều kiện vật chất và tinh thần để hợp tác chặt chẽhơn với các dân tộc anh em; đồng thời nó cho phép mỗi dân tộc không chỉsử dụng tiềm năng của các dân tộc mình mà còn có sự gắn kết hữu cơ vớitiềm năng của các dân tộc anh em trong một nước để tiến lên phía trước. Sựxích lại gần nhau giữa các dân tộc trong cùng quốc gia có nghĩa là nhữngtinh hoa, những giá trị của các dân tộc đó thâm nhập vào nhau, bổ sung,125

Video liên quan

Chủ Đề