Con gái 12 bến nước biết bến nào đậu

Trong Đại Nam quốc âm tự vị của Huỳnh Tịnh Của giải thích như sau: "Con gái mười hai bến nước: Thân con gái như chiếc đò, hoặc gặp bến trong, hoặc mắc bến đục, hoặc đưa người tốt, hoặc đưa người xấu. May thì được nhờ, rủi thì chịu, tiếng nói mười hai bến nước là nói cho vần". Như vậy, theo quan điềm này, con số "mười hai" thực chất chỉ là để cho vần "phận gái – mười hai".

Nhà báo TORO (bên trái) đang vui vẻ với các bạn Hmông ở Mường Khương trong bữa nhậu rượu ngô với thắng cố

Bạn TORO hỏi Bu câu thành ngữ “Phận gái mười hai bến nước” có nghĩa gì. Cứ tưởng bạn ấy hỏi cho vui, nào ngờ anh chàng vào Guestbook “đòi nợ”: “ Bác Bu bận gì mà không thấy vô blog giải đáp cho em mấy chữ 12 bến nuớc vậy ta?”. Bu sang Facebook lại gặp TORO nhắc: “Bác chơi facebook hớn hở quá, thảo nào bỏ blog mốc meo. Em hỏi vụ 12 bến nước chả thấy bác giả nhời...”. Hehehe..

Thành ngữ “phận gái mười hai bến nước” Bu thấy báo, tạp chí bàn tới cách nay 15 - 17 năm. Nhưng các học giả học thật bàn luận chán chê rồi bỏ đó không ai có được kết luận cuối cùng. Xem trên mạng cũng nhan nhản người đề cập đến vấn đề này và kết quả không sáng sủa gì hơn. Nay Bu tui cũng chỉ sao tẩm lại những gì đã đọc, và nói rõ quan điểm của mình ngả về phía nào trong vô số ý kiến ấy, chứ không dám đưa ra nhận định gì mới mẽ.

1- Nhóm ý kiến thứ nhất.

Nhóm này cho rằng “mười hai bến nước” là: Công, hầu, khanh, tướng, sĩ, nông, công, thương, ngư, tiều, canh, mục. Mới nghe đã thấy không ổn. Vì phải là sĩ mới thành ra công với khanh được. Còn nông, canh, và mục, bộ ba này thực ra chỉ một mà thôi. Rõ ràng đây là kiểu gá lắp khiên cưởng, phản luận lí.

2- Nhóm ý kiến thứ hai.

Nhóm này cho rằng “mười hai bến nước” là: sĩ, nông, công, thương, nho, y, lí, bốc, ngư, tiều, canh, mục. Cũng lại một thống kê phản luận lí. Chẳng nhẽ sĩ không phải là nho? Nông và canh không phải là một?

3- Nhóm ý kiến thứ ba:

Nhóm này cho rằng “mười hai bến nước” là mười hai con giáp: tí, sửu, dần, mão, thìn, tỵ, ngọ, mùi, thân, dậu, tuất, hợi. Ý kiến này nghe có vẻ lọt lỗ tai, vì người con gái đi lấy chồng thế nào cũng vớ phải một trong mười hai con giáp ấy. Hợp tuổi hợp mạng thì sướng (may), không hợp tuổi hợp mạng (rủi) thì khổ. Nhưng may hoặc rủi thì chung quy cũng chỉ có hai bến, chứ làm gì đến mười hai bến.

4- Nhóm ý kiến thứ tư

Nhóm này dựa vào định nghĩa của ông Hùinh tịnh Paulus Của trong Đại Nam quấc âm tự vị (xb 1895-1896, nxb Trẻ in lại 1988). Ở trang 14 Paulus Của viết: “Con gái mười hai bến nước. Thân con gái như chiếc đò hoặc gặp bến trong, hoặc mắc bến đục, hoặc đưa người tốt, hoặc đưa người xấu, may thì nhờ rủi thì chịu. Tiếng nói mười hai bến là nói cho vần”. Tác giả tự vị này khẳng định chỉ có hai bến, bến trong và bến đục, rất phù hợp với nhiều câu ca dao trong dân gian nói về duyên phận may rủi của người con gái:

Thân em như giếng giữa đàng

Người khôn rửa mặt, người phàm rửa chân

Thân em như hạt mưa rào

Hạt rơi xuống giếng hạt vào vườn hoa

Thân em như hạt mưa sa

Hạt vào đài các hạt ra ruộng cày.

Ta thấy: người khôn - người phàm, giếng - vườn hoa, đài các- ruộng cày, là từng cặp đối nghĩa nhau, thể hiện sự may rủi của thân phận người con gái.

Cái mà Hùinh Tịnh Paulus Của gọi là “nói cho vần” có nguyên do từ cách dùng từ nguyên trong dân gian. Ai cũng biết hai danh từ bến và thuyền vẫn được dùng trong việc người con trai và người con gái hẹn hò đính ước. Quan hệ vợ chồng ấy tốt hoặc xấu đều được dân gian cho là do nhân duyên ( 姻緣 ) tức duyên vợ chồng. Trong khi đó đạo Phật cũng có khái niệm nhân duyên ( 因 緣 ) với nghĩa nguyên nhân có từ kiếp trước tạo ra kết quả ở kiếp sau. Sự khác biệt giữa hai khái niệm nhân duyên vừa nói là do chữ nhân (姻) trong nhân duyên vợ chồng, khác với chữ nhân (因) trong nhân duyên của đạo Phật. Chữ thứ nhất chỉ sự hôn nhân (1) nam nữ, chữ thứ hai chỉ nguyên nhân của sự việc. Và theo điển lí nhà Phật có tới mười hai nhân duyên, cũng gọi là “thập nhị nhân duyên”. Rõ ràng có sự “râu ông nọ cắm cằm bà kia”. Dân gian đã lấy “mười hai” trong thập nhị nhân duyên của đạo Phật gá vào nhân duyên trong hôn nhân thành ra “mười hai bến nước”. Do học giả Paulus Của không cứu xét việc dùng từ nguyên trong dân gian nên kết luận “Tiếng nói mười hai bến là nói cho vần” vậy.

Ngoài ra người ta còn xét đến lý thuyết “các sự cố ngôn ngữ” mà nhà ngữ học người Pháp là Pierre Guiraud trong cuốn Les locutions Francaises (Paris 1973 (thành ngữ tiếng Pháp, Pa ri 1973) có bàn tới. Theo tác giả này thì có sự đan chéo hình thức và lây truyền nghĩa giữa các từ và thành ngữ với nhau. Trong tiếng Việt cũng có hiện tượng như thế. Xin lấy ba câu tục ngữ sau đây là ví dụ:

1. Đánh trống dộng (2) chuông.

2. Tai vách mạch dừng (3) ; và

3. Bứt mây động rừng.

Do không hiểu nghĩa của từ dộng trong câu 1 lại liên hệ với từ động ở câu 3 người ta mới cho ra dị bản “Đánh trống động chuông”. Lại do đồng hóa tiếng cuối câu 2 với tiếng cuối câu 3 người ta cho ra dị bản “Tai vách mạch rừng”. Nghĩa của các dị bản này thường rất khó hiểu, và đó là kết quả của sự đan chéo hình thức từ ngữ và sự lây truyền nghĩa mà Pierre Guiraud đã nói đến. Xem vậy thì “nhân duyên” của Thần Ái tình đã lây truyền nghĩa cho “nhân duyên” của nhà Phật mới sinh ra cái sự “mười hai bến nước” mà TORO hỏi Bu. Tuy nhiên các thành viên trong 4 nhóm ý kiến trên không ai dám chắc là mình nói đúng. Và trước mắt Bu tôi đặt cả niềm tin vào nhóm thứ tư này. Mong các bậc thức giả chỉ giáo thêm.

(1) Hôn nhân ( 婚 姻 ): Theo từ điển tiếng Việt, hôn nhân là việc nam nữ chính thức lấy nhau thành vợ chồng. Chữ hôn ( 婚 ) được Hán Việt từ điển của Thiều Chữu giải thích là lấy vợ, con dâu. Chữ nhân ( 姻 ) là nhà trai, bố vợ còn gọi là hôn, bố chồng còn gọi là nhân.

(2) Dộng: Đập một đầu xuống bề mặt cho bằng (so cho bằng). Dộng chuông là thúc mạnh cáii dùi ở phương nằm ngang vào thân chuông.