Con của an dương vương là ai

An Dương Vương là ai: Tiểu sử, sự nghiệp, cuộc đời và dấu ấn cá nhân?

“Chết thì bỏ con bỏ cháu

Sống thì không bỏ mồng Sáu tháng Giêng”

Câu ca với những lời lẽ quả quyết nhưng lại rất mộc mạc, hồn nhiên ấy là nói về tình cảm thiết tha với ngày Hội làng của dân xã Cổ Loa và 7 xã xung quanh, thuộc huyện Đông Anh, ngoại ô Hà nội. Tâm điểm của lễ hội là tòa Thành ốc [Cổ Loa] và tâm linh của lễ hội hướng về An Vương Vương. Đó là những di tích và nhân vật gắn liền với một thời đoạn lịch sử vẫn còn chất đầy huyền thoại tiếp nối thời đại các vua Hùng cũng vần vũ những đám mây ngũ sắc của những huyền thoại.

Nếu thời đại các vua Hùng còn định vị đuowjc bởi địa danh Phong Châu mà các thế hệ sau tôn phong là Đất Tổ và xây dựng ngôi Đền thờ Tổ thì tên tuổi của An Dương Vương còn lại một chứng tích vật chất đầy sức thuyết phục, cũng là chứng tích vật chất về một cái mốc đầu tiên ghi nhận Hà Nội hôm nay bao gồm cả vùng đất từng là kinh đô trước khi  Lý Công Uẩn định đô ở Thăng Long hơn một thiên niên kỷ.

Về An Dương Vương, “Từ điển bách khoa Việt Nam” viết một cách ngắn gọn: “tên thật là Thục Phán, người sáng lập và là vua nước Âu Lạc. Có giả thiết cho là thủ lĩnh người Tây Âu ở vùng núi phía Bắc đã từng xung đột với vua Hùng và cũng là người chống Tần thắng lợi [214 – 208 trước CN], nối ngôi vua Hùng, hợp nhất Tây Âu và Lạc Việt thành nước Âu Lạc, đóng đô ở Cổ Loa. Tục truyền An Dương Vương được rùa thần giúp đỡ cho móng làm lẫy nỏ rất hiệu nghiệm, nên đã đánh bại nhiều lần xâm lược của Triệu Đà. Sau đó Triệu Đà dùng mưu [cho con trai là Trọng Thủy sang cầu hôn với con gái An Dương Vương là Mỵ Châu] lấy cắp lẫy nỏ thần rồi mới đem quân sang đánh [179 trước CN] An Dương Vương thua chạy đến Nghệ An, nhảy xuống biển tự tử”

Lời giảng nghĩa ngắn ngủi ấy cố gắng khẳng định một nhân vật có thật và một thời đại có thật trong lịch sử dân tộc ta là cái gạch nối giữa thời đại các vua Hùng với những thời đại sau đó trong dòng mạch liên tục của một quốc gia tự chủ và đã tạo dựng  được một nền văn minh có bản sắc riêng biệt bên cạnh một nền văn minh lớn cũng là một mối thử thách thường trực và khủng khiếp từ phương Bắc tràn xuống. Nhưng trong lời giảng nghĩa ấy vẫn phải nhắc đến những từ “giả thiết”,  “tục truyền”…

Bởi lẽ, từ nhiều thế kỷ trước trong các cuốn sách như “Viện điện u linh”; “Lĩnh Nam chích quái”, “đại Việt sử ký toàn thư” hay các tác phẩm của Nguyễn Trãi [Dư địa chí]. Phan Huy Chú [lịch triều hiến chương loại chí] đều nhắc tới An Dương Vương họ Thục tên Phán là con của vua Thục [đất Tứ Xuyên – Trung Quốc ngày nay] vì xung khắc của tổ phụ với Hùng Vương của nước Văn Lang mà mang quân đánh chiếm, lập nước Âu Lạc, xưng vương và xây thành Cổ Loa. Nhưng rồi cuối thế kỷ XIX, một số sử thần lại cho rằng Âu Lạc và người đứng đầu Thục Vương không dính dáng gì đến nước Ba Thục mà chỉ là một thế lực ở lân cận “gắn liền với nước Văn Lang”. Sang đầu thế kỷ XX, có học giả còn cực đoan hơn khi cho rằng” nước Nam không có An Dương Vương nhà thục” [Nguyễn Văn Tố” còn một số sử gia người Pháp lại khẳng định “Trước nhà hán không có lịch sử An Nam”…

Nhưng trong tâm thức của nhiều người Việt Nam nhất là của dân “bát xã hộ nhi” [tám làng thờ cúng và tham gia tế lễ trong ngày hội ở Chùa Thượng] thì An Dương Vương chính là Vua Chủ ăn sâu vào

                   [Tạp chí Thăng Long Hà Nội ngàn năm – Số 4/2001]

An Dương Vương xây thành Cổ Loa

Sau chiến thắng vĩ đại đánh thắng 50 vạn quân Tần, Thục Vương quyết định xây thành Cổ Loa.

Tục truyền rằng Thục An Dương Vương xây thành nhiều lần nhưng đều đổ. Sau có thần Kim Quy hiện lên, bò quanh bò lại nhiều vòng dưới chân thành. Thục An Dương Vương bèn cho xây theo dấu chân Rùa vàng. Từ đó, thành xây không đổ nữa. Sự thực truyền thuyết đó như thế nào?
Thời ấy, tổ tiên ta chưa có gạch nung. Bởi vậy thành Cổ Loa được xây bằng đất ở chính địa phương. Thành có 9 vòng. Chu vi ngòai 8km, vòng giữa 6,5km, vòng trong 1.6km… Diện tích trung tâm lên tới 2km2 . Thành được xây theo phương pháp đào đất đến đâu, khoét hào đến đó, thành đắp đến đâu, lũy xây đến đó. Mặt ngoài lũy, dốc thẳng đứng, mặt trong xoải để đánh vào thì khó, trong đánh ra thì dễ. Lũy cao trung bình từ 4-5m, có chỗ 8-12m. Chân lũy rộng 20-30m, mặt lũy rộng 6-12m. Khối lượng đất đào đắp ước tính 2,2 triệu mét khối. Xem vậy công trình Cổ Loa thật đồ sộ, trong khi khu vực Cổ Loa được coi là một nền đất yếu. Chính vì vậy, việc xây dựng thành Cổ Loa cực kỳ khố khăn. Thành bị đổ nhiều lần là dễ hiểu. Nhưng điều đáng tự hào là cuối cùng thành đứng vững. Thục An Dương Vương đã biết dựa vào những kinh nghiệm thực tế để gia cố nền, móng khắc phục khó khăn. Vết chân rùa thần chính là bí mật tổ tiên khám phá, xử lý. Ngày nay, khi xẻ dọc thành để nghiên cứu, các nhà khảo cổ học thấy rõ chân thành được chẹn một lớp tảng đá. Hòn nhỏ có đường kính15cm, hòn lớn 60cm. Cần bao nhiêu đá để xử lý cho công trình? Kỹ thuật xếp đá? Đây quả là một kỳ công.

Thành Cổ Loa chẳng những là một công trình đồ sộ, cổ nhất của dân tộc mà còn là công trình hoàn bị về mặt quân sự. Xung quanh Cổ Loa, một mạng lưới thủy văn dầy đặc, Tạo thành một vùng khép kín, thuận lợi cho việc xây dựng căn cứ thủy binh hùng mạnh. Thuở ấy, sông Thiếp – Ngũ Huyền Khê – Hòang Giang thông với sông Cầu ở Thổ Hà, Quả Cảm [Hà Bắc] thông với sông Hồng ở Vĩnh Thanh [Đông Anh]. Bởi vậy, ngay sau khi xây thành, Thục An Dương Vương đã chiêu tập những thợ mộc giỏi, sử dụng gỗ ở địa phướng đóng thuyền chiến.

Với thuật đi sông vượt bể vốn là sở trường của người Lạc Việt, chẳng mấy chốc, các đầm phá quanh thành Cổ Loa biến thành quân cảng. Rồi nhân dân được điều tới khai phá rừng đa [ Gia Lâm], rừng Mơ [Mai Lâm], rừng dâu da [Du Lâm]v.v… thành ruộng. Những hiệp thợ chuyên rèn vũ khí cũng xuất hiện. Bên côn, kiếm, dáo, mác đủ loại, bàn tay sáng tạo của cha ông ta đã chế tạo ra mỏ liên châu, mỗi phát bắn hàng chục mũi tên. Cũng tại Cổ Loa, kỹ thuật đúc đồng cổ đã được vua Thục khuyến khích. Hàng chục vạn mũi tên đồng, những mũi tên lợi hại, có độ chính xác cao, kỹ thuật tinh vi, dùng nỏ liên châu đã được bàn tay thợ tài hoa sản xuất tại đây.

Với vị trí thuận lợi ấy, với cách bố trí thành có 9 lớp xoáy trôn ốc, 18 ụ gò cao nhô hẳn ra chân lũy để có thể từ cao bắn xuống, với vũ khí nỏ thần và những mũi tên đồng lợi hại, sức mạnh quân sự tổng hợp của Cổ Loa thời ấy thật đáng sợ.
Thành Cổ Loa là sự đúc kết tuyệt vời về trí tuệ của cha ông, là công trình sáng tạo kỳ vĩ của dân tộc.

Quảng Cáo: Đúc tượng đồng, làm tượng chân dung.... từ hình ảnh chụp/ tranh vẽ

Rất nhiều giả thuyết 

Trước đây, nguồn gốc của Thục Phán An Dương Vương gây ra rất nhiều tranh cãi trong giới học giả. Trong quá trình nghiên cứu, các học giả đều ghi nhận: Nước Âu Lạc kế tiếp nước Văn Lang và An Dương Vương kế ngôi Vua Hùng là những sự kiện, nhân vật lịch sử có thật. Song cho đến nay, xung quanh vấn đề nguồn gốc Thục Phán - An Dương Vương và sự ra đời của nhà nước Âu Lạc vẫn có nhiều ý kiến khác nhau. 

Những tài liệu cổ xưa nhất ở Trung Quốc như Giao Châu Ngoại vực ký, Quảng Châu ký đều ghi An Dương Vương là "Thục Vương Tử" [tức con vua Thục]. Sách Hậu Hán thư khi chép về quận Giao Chỉ cũng chú thích: "Đấy là nước cũ của An Dương Vương....". Một số sách cổ khác ở Trung Quốc cũng ghi rằng An Dương Vương là con vua Thục, nhưng không cho biết xuất xứ cụ thể của vua Thục là ai, vị trí của nước Thục ở đâu?...

Tượng Thục Phán ở di tích Cổ Loa [Đông Anh, Hà Nội]  

Một số bộ sử sách cổ xưa của Việt Nam như Việt sử lược [Thế kỷ XIV] cũng có một câu về nguồn gốc của An Dương Vương là: "Cuối đời Chu, Hùng Vương bị con vua Thục là Phán đánh đuổi mà lên thay. Phán đắp thành ở Việt Thường [Cổ Loa - Đông Anh ngày nay] xưng hiệu là An Dương Vương. 

Đến thế kỷ XV, khi biên soạn Đại việt sử ký toàn thư - Ngô Sĩ Liên dựa vào sách Lĩnh Nam chích quái chép về An Dương Vương rõ hơn và tách thành một kỷ gọi là "Kỷ nhà Thục", ông viết rằng: "An Dương Vương họ Thục, tên huý là Phán, người Ba Thục, ở ngôi 50 năm, đóng đô ở Phong Khê [nay là thành Cổ Loa]. Giáp Thìn, năm thứ nhất [257 -TCN], Vua đã đánh chiếm nước Văn Lang, đổi quốc hiệu làm Âu Lạc.

Nhà sử học Ngô Thì Sĩ - cuối thế kỷ XVIII khi chép về An Dương Vương cũng nhắc lại giống như Đại Việt sử ký toàn thư. Đến năm 1821, Phan Huy Chú, biên soạn bộ Lịch triều hiến chương loại chí dâng lên vua Minh Mệnh cũng ghi: "An Dương Vương tên là Phán, người Ba Thục". 

Là con vua Thục nào, vị trí của nước Thục ở đâu?

Đến thời vua Tự Đức [1848 - 1883] bộ thông sử Khâm định Việt Sử thông giám cương mục, đã nêu nghi vấn: "Nước Thục từ năm thứ 5 đời Thận Tĩnh Vương nhà Chu [316 năm TCN], đã lại nhà Tấn diệt rồi, làm gì còn vua nữa? Huống chi từ Thục đến Văn Lang, còn có đất Kiển Vi [nay thuộc Vân Nam], đất Dạ Lang, đất Cùng, đất Tác, và đất Nhiễm Mang cách hàng hai ba ngàn dặm, có lẽ nào Thục vượt qua được các nước ấy mà sang đánh lấy nước Văn Lang". 

Trong Việt Nam sử lược, Trần Trọng Kim khi đề cập đến nguồn gốc của Nhà Thục cũng khẳng định: "Nhà Thục chép trong sử nước ta không phải là nhà Thục bên Tàu [nghĩa là Ba Thục ở Tứ Xuyên]. Sau này Ngô Tất Tố cũng khẳng định rằng: "Nước Nam không có ông An Dương Vương nhà Thục".

Các sử gia từ thời phong kiến Việt Nam đã nghi ngờ cả về thời gian và không gian qua đó có thể thấy ngay được là nước Thục [Ba Thục] đã bị diệt vào năm 316 TCN. Vua Thục cuối cùng là Khai Minh đã bị giết ở Vũ Dương và Thái tử con Vua Thục cũng tự chết ở Bạch Lộc Sơn. 

Vì vậy khó có chuyện "con vua Thục" vượt hàng ngàn dặm núi rừng, qua lãnh thổ của nhiều nước để mà tiến đánh và chiếm Văn Lang năm 257 TCN được. Sự khác biệt đến mâu thuẫn đó càng làm rõ thêm những căn cứ đang nghi ngờ, cho nên có thể phủ địch giả thuyết nguồn gốc Ba Thục của Thục Phán - An Dương Vương.

Phải đến năm 1963, khi truyền thuyết “Cẩu chủa cheng vùa” [Chín chúa tranh vua] của người Tày ở Cao Bằng chính thức được công bố trên tạp chí nghiên cứu lịch sử thì nhiều vấn đề về nguồn gốc Thục Phán - An Dương Vương dần được sáng tỏ.

Cụ thể, năm 1963, khi các nhà nghiên cứu dân tộc học phát hiện truyền thuyết cổ của người Tày ở Cao Bằng có tên là "Cẩu chủa cheng Vùa" [dịch là "Chín chúa tranh vua"]. Câu truyện cổ rất phổ biến trong vùng đồng bào Tày, Cao Bằng kể về sự tích ngày xưa, vào thời vua Thục của người Tày Cao Bằng, Thục Chế là ông vua đầu tiên đã lập ra nước Nam Cương giáp nước Văn Lang, xưng là An Tự Vương đóng đô ở Nam Bình [vùng Cao Bình, huyện Hòa An, Cao Bằng ngày nay].

Từ đây, đặt ra giả thiết nguồn gốc của vua Thục Phán – An Dương Vương gắn với kỳ tích xây thành Cổ Loa, mất cảnh giác để nỏ thần rơi vào tay đánh liên quan tới thiên tình sử đẫm lệ Mỵ Châu - Trọng Thủy... là có nguồn gốc ở mảnh đất biên cương Cao Bằng…

[Đón đọc: Vua Thục Phán - An Dương Vương có nguồn gốc ở Cao Bằng]  

Sơn Tùng

Video liên quan

Chủ Đề