Chất vấn nghĩa là gì

Nội dung này được THƯ VIỆN PHÁP LUẬT tư vấn như sau:

Căn cứ pháp lý: Điều 2 Luật hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân 2015

Chất vấn là việc đại biểu Quốc hội nêu vấn đề thuộc trách nhiệm của Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, thành viên khác của Chính phủ, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tổng Kiểm toán nhà nước; đại biểu Hội đồng nhân dân nêu vấn đề thuộc trách nhiệm của Chủ tịch Ủy ban nhân dân, thành viên khác của Ủy ban nhân dân, Chánh án Tòa án nhân dân, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân, Thủ trưởng cơ quan thuộc Ủy ban nhân dân cùng cấp và yêu cầu những người này trả lời về trách nhiệm của mình đối với vấn đề được nêu.

Nguồn:

THƯ VIỆN PHÁP LUẬT

Nội dung tư vấn trên đây chỉ mang tính tham khảo, Quý độc giả cần xem Căn cứ pháp lý của tình huống này để có thông tin chính xác hơn.


Quyền hỏi và yêu cầu phải giải thích rõ ràng của đại biểu [đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân] đối với các chức danh được các đại biểu bầu, phê chuẩn ra trước phiên họp toàn thể của cơ quan đại diện để trả lời về sự thi hành chính sách quốc gia hoặc một vấn đề hiện thời đối với quốc gia trong trường hợp cần điều tra thì đối với Quốc hội, có thể quyết định cho trả lời trước ủy ban Thường vụ Quốc hội hoặc tại kỳ họp sau của Quốc hội hoặc cho trả lời bằng văn bản.

Một trong những đặc điểm của chất vấn là qua thủ tục chất vấn tạo ra một cuộc thảo luận của cơ quan đại diện, trong đó tất cả các đại biểu cỏ mặt đều có quyền tham dự. Kết quả của thủ tục chất vấn có ý nghĩa chế tài, thường bằng một nghị quyết của kì họp ở mức độ có thể thỏa mãn đối với câu trả lời của người bị chất vấn; ngược lại, có thể đặt vấn đề bất tín nhiệm đối với cơ quan chất vấn.

Trong các văn bản pháp luật thuật ngữ này được sử dụng khá phổ biến, như Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân, Luật tổ chức Quốc hội, các luật bầu cử... Về mặt giải thích chính thức, lần đầu tiên trong lịch sử lập pháp Việt Nam, thuật ngữ "chất vấn” được giải thích trong Luật hoạt động giám sát của Quốc hội [Luật số 05/2003/QH11 ngày 17.6.2003]. Theo đó, Điều 2 [giải thích thuật ngữ] khoản 3 quy định: "Chất vấn là một hoạt động giám sát, trong đó đại biểu Quốc hội nêu những vấn đề thuộc trách nhiệm của Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao và yêu cầu những người này trả lời.”

Theo pháp luật hiện hành của Việt Nam, chất vấn được quy định tại khoản 7 Điều 2 Luật hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân năm 2015 do Quốc hội khóa 13 ban hành ngày 20 tháng 11 năm 2015: “Chất vấn là việc đại biểu Quốc hội nêu vấn đề thuộc trách nhiệm của Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, thành viên khác của Chính phủ, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tổng Kiểm toán nhà nước; đại biểu Hội đồng nhân dân nêu vấn đề thuộc trách nhiệm của Chủ tịch Ủy ban nhân dân, thành viên khác của Ủy ban nhân dân, Chánh án Tòa án nhân dân, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân, Thủ trưởng cơ quan thuộc Ủy ban nhân dân cùng cấp và yêu cầu những người này trả lời về trách nhiệm của mình đối với vấn đề được nêu.”.

Tiếng ViệtSửa đổi

Cách phát âmSửa đổi

IPA theo giọng Hà Nội Huế Sài Gòn Vinh Thanh Chương Hà Tĩnh
ʨət˧˥ vən˧˥ʨə̰k˩˧ jə̰ŋ˩˧ʨək˧˥ jəŋ˧˥
ʨət˩˩ vən˩˩ʨə̰t˩˧ və̰n˩˧

Từ nguyênSửa đổi

Phiên âm từ chữ Hán 質問. Trong đó 質 [“chất”: gặn hỏi]; 問 [“vấn”: hỏi].

Động từSửa đổi

chất vấn

  1. Đặt vấn đề hỏi về một điều thắc mắc và yêu cầu giải thích rõ ràng. Đại biểu Quốc hội chất vấn Chính phủ về mấy vụ tham nhũng.

Tham khảoSửa đổi

  • Hồ Ngọc Đức, Dự án Từ điển tiếng Việt miễn phí [chi tiết]

Theo quy định tại Hiến pháp và pháp luật hiện hành, Quốc hội họp công khai, mỗi năm họp hai kỳ. Một trong những hoạt động quan trọng và có ý nghĩa, vai trò rất lớn trong các phiên họp Quốc hội, được đông đảo người dân quan tâm là hoạt động chất vấn và trả lời chất vấn của Quốc hội. Tại đây, các đại biểu quốc hội, đại diện cho người dân cả nước sẽ hỏi và yêu cầu giải thích rõ ràng về nhiều lĩnh vực, các mặt của đời sống xã hội.

Căn cứ pháp lý:

– Hiến pháp năm 2013;

– Luật Tổ chức Quốc hội sửa đổi, bổ sung năm 2020;

1. Chất vấn là gì?

Chất vấn là một hình thức giám sát trực tiếp của Quốc hội, được quy định tại Điều 80 của Hiến pháp 2013 và được cụ thể hóa tại Điều 32 Luật Tổ chức Quốc hội.

– Đại biểu Quốc hội có quyền chất vấn Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tổng Kiểm toán nhà nước.

– Người bị chất vấn phải trả lời trước Quốc hội tại kỳ họp Quốc hội hoặc tại phiên họp Ủy ban thường vụ Quốc hội trong thời gian giữa hai kỳ họp Quốc hội; trường hợp cần thiết, Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội cho trả lời bằng văn bản.

– Trường hợp đại biểu Quốc hội chưa đồng ý với nội dung trả lời chất vấn thì có quyền chất vấn lại tại phiên họp của Quốc hội, của Ủy ban thường vụ Quốc hội hoặc gửi chất vấn bằng văn bản đến người bị chất vấn.

Chính vì vậy, chất vấn có vai trò rất quan trọng, tác động lớn đến hiệu lực, hiệu quả hoạt động giám sát tối cao của Quốc hội.\

Theo đó, chất vấn là quyền hỏi và yêu cầu phải giải thích rõ ràng của đại biểu [đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân] đối với các chức danh được các đại biểu bầu, phê chuẩn ra trước phiên họp toàn thể của cơ quan đại diện để trả lời về sự thi hành chính sách quốc gia hoặc một vấn đề hiện thời đối với quốc gia; trong trường hợp cần điều tra thì đối với Quốc hội, có thể quyết định cho trả lời trước Uỷ ban Thường vụ Quốc hội hoặc tại kì họp sau của Quốc hội hoác cho trả lời bằng văn bản.

Xem thêm: Hoạt động giám sát của Quốc hội

2. Chất vấn tiếng Anh là gì?

Chất vấn tiếng Anh là: To question

Câu chất vấn: To query

Câu hỏi chất vấn: Cross question

3. Hoạt động chất vấn và trả lời chất vấn của Quốc hội

Điểm mới trong quy định của pháp luật về chất vấn và trả lời chất vấn thể hiện ở các điểm sau:

Mở rộng quyền chất vấn của đại biểu Quốc hội

Hiến pháp năm 2013 đã mở rộng quyền chất vấn của Đại biểu quốc hội đối với Tổng Kiểm toán nhà nước và khẳng định trách nhiệm của người bị chất vấn “phải trả lời trước Quốc hội tại kỳ họp hoặc tại phiên họp Ủy ban thường vụ Quốc hội trong thời gian giữa hai kỳ họp Quốc hội”.

Pháp luật cũng quy định rõ về quyền chất vấn lại của Đại biểu quốc hội: “Trường hợp Đại biểu quốc hội không đồng ý với nội dung trả lời chất vấn thì có quyền chất vấn lại để người bị chất vấn trả lời”; đồng thời, yêu cầu những người khác có trách nhiệm liên quan phải tham dự phiên họp và trả lời chất vấn của Đại biểu quốc hội về vấn đề thuộc trách nhiệm của mình, cùng những người bị chất vấn.

Bên cạnh hoạt động chất vấn trực tiếp tại kỳ họp Quốc hội và phiên họp Ủy ban thường vụ Quốc hội, Đại biểu quốc hội còn có quyền “gửi chất vấn bằng văn bản đến người bị chất vấn”. Trường hợp Đại biểu quốc hội gửi chất vấn trực tiếp bằng văn bản đến người bị chất vấn thì chậm nhất là 20 ngày kể từ ngày chất vấn, người bị chất vấn phải trả lời bằng văn bản cho người chất vấn, đồng thời gửi đến Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Xem thêm: Mối quan hệ giữa Quốc hội với các cơ quan nhà nước ở trung ương theo Hiến pháp năm 2013

Như vậy, pháp luật về chất vấn và trả lời chất vấn đã mở rộng quyền chất vấn của Đại biểu quốc hội; giảm bớt quy định về trình tự, thủ tục Đại biểu quốc hội phải thực hiện để “được” trả lời chất vấn; tăng cường trách nhiệm của các đối tượng bị chất vấn trong việc “phải” trả lời chất vấn của Đại biểu quốc hội.

Quy định về nhóm vấn đề chất vấn

Pháp luật quy định Ủy ban thường vụ Quốc hội trình Quốc hội quyết định “nhóm vấn đề chất vấn và người bị chất vấn”. Việc lấy nhóm vấn đề chất vấn làm trọng tâm sẽ là cơ sở để Quốc hội quyết định người bị chất vấn phù hợp hơn, đồng thời, có thể yêu cầu những người có trách nhiệm liên quan cùng tham gia trả lời làm sáng tỏ hơn vấn đề chất vấn.

Nhóm vấn đề chất vấn được lựa chọn theo ba tiêu chí:

– Một là, vấn đề bức xúc, nổi lên trong đời sống kinh tế – xã hội của đất nước, được nhiều Đại biểu quốc hội, cử tri quan tâm, vấn đề có dấu hiệu vi phạm pháp luật, vấn đề đã được người bị chất vấn trả lời bằng văn bản nhưng Đại biểu quốc hội không đồng ý, được Ủy ban thường vụ Quốc hội đồng ý trình Quốc hội xem xét cho trả lời tại kỳ họp Quốc hội.

– Hai là, không chất vấn những vấn đề đã có trong nghị quyết về chất vấn và nghị quyết giám sát chuyên đề của Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội trong thời gian 12 tháng tính đến thời điểm chất vấn.

– Ba là, phù hợp với tổng thời gian tổ chức phiên họp chất vấn.

Pháp luật cũng quy định, người bị chất vấn được lựa chọn phù hợp với nhóm vấn đề chất vấn, có trách nhiệm trả lời trực tiếp, đầy đủ vấn đề mà Đại biểu quốc hội đã chất vấn, không được uỷ quyền cho người khác trả lời thay.

Xem thêm: Nghị viện là gì? So sánh các điểm giống và khác nhau giữa Quốc hội và Nghị viện?

Quy định nghị quyết về chất vấn

Quy định việc Quốc hội xem xét, thông qua nghị quyết về chất vấn tại phiên bế mạc kỳ họp là một điểm hoàn toàn mới. Trước đây, pháp luật quy định: Chỉ khi xét thấy cần thiết, Quốc hội mới ra nghị quyết về việc trả lời chất vấn và trách nhiệm của người bị chất vấn.

Hiện nay, pháp luật đã quy định rõ, nội dung của nghị quyết về chất vấn phải đề cập những vấn đề cơ bản như: đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của người bị chất vấn, những hạn chế, bất cập và nguyên nhân liên quan đến vấn đề chất vấn; thời hạn khắc phục hạn chế, bất cập; trách nhiệm thi hành của cơ quan, cá nhân; trách nhiệm báo cáo kết quả thực hiện nghị quyết về chất vấn.

Pháp luật yêu cầu các cơ quan, cá nhân bị chất vấn [thành viên Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Kiểm toán Nhà nước…] phải trình bày báo cáo về việc thực hiện các nghị quyết về chất vấn tại kỳ họp cuối năm của năm giữa nhiệm kỳ và năm cuối nhiệm kỳ; các cơ quan của Quốc hội [Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban] phải tiến hành thẩm tra việc thực hiện các nghị quyết về chất vấn của các cơ quan, cá nhân nêu trên thuộc lĩnh vực phụ trách.

Quy định về thời gian chất vấn

– Về thời gian chất vấn và trả lời chất vấn:

Pháp luật quy định cụ thể thời gian nêu chất vấn của Đại biểu quốc hội không quá 02 phút; thời gian người bị chất vấn trả lời chất vấn của một đại biểu không quá 05 phút. Quy định về thu gọn thời gian nêu câu hỏi chất vấn và trả lời chất vấn nhằm mục đích tăng số Đại biểu quốc hội tham gia chất vấn và bố trí được nhiều người trả lời chất vấn hơn. Ngoài ra, quy định này cũng nhằm bảo đảm nâng cao chất lượng các câu hỏi và câu trả lời chất vấn, bởi vì người hỏi và người trả lời nếu muốn sử dụng khoảng thời gian nêu chất vấn và trả lời chất vấn ngắn như vậy một cách hiệu quả thì phải nghiên cứu, nắm chắc tình hình, hỏi và trả lời đi vào trọng tâm, trọng điểm, hạn chế vòng vo.

– Thời gian tổ chức chất vấn:

Xem thêm: Đảng viên bị xử lý kỷ luật có được đề cử vào danh sách ứng cử

Thời gian chất vấn ít nhất là 03 ngày tại kỳ họp hằng năm, ít nhất là 04 ngày tại kỳ họp cuối năm của năm giữa nhiệm kỳ và năm cuối nhiệm kỳ. Như vậy, thời gian dành cho hoạt động chất vấn và trả lời chất vấn đã được quy định cụ thể và theo hướng tăng hơn.

Ủy ban thường vụ Quốc hội tổ chức 02 phiên chất vấn/năm [phiên họp tháng 3 và phiên họp tháng 8], trừ năm chuyển giao giữa hai nhiệm kỳ Quốc hội. Thời gian chất vấn ít nhất là 01 ngày tại mỗi phiên họp.

– Thời gian gửi báo cáo thực hiện kết quả chất vấn:

Pháp luật quy định cụ thể hơn thời gian phải gửi báo cáo về việc thực hiện nghị quyết của Quốc hội về chất vấn, các vấn đề đã hứa tại các kỳ họp trước đến Đại biểu quốc hội và Ủy ban thường vụ Quốc hội của người đã trả lời chất vấn là “chậm nhất 20 ngày trước ngày khai mạc kỳ họp”; đồng thời yêu cầu đăng tải các báo cáo này trên Cổng thông tin điện tử của Quốc hội. Quy định này tạo điều kiện để theo dõi, đánh giá việc thực hiện trách nhiệm chính trị của Chính phủ trước Quốc hội, từ đó tạo áp lực cho Chính phủ phải cố gắng thực hiện tốt hơn chức trách của mình.

Quy định về vai trò của Chủ tọa điều hành

Pháp luật nhấn mạnh vai trò của Chủ toạ trong việc điều hành phiên chất vấn, cụ thể là: trường hợp cần thiết, Chủ tọa quyết định việc kéo dài thời gian trả lời chất vấn; Chủ tọa có quyền nhắc nếu Đại biểu quốc hội nêu chất vấn không đúng nội dung phiên chất vấn hoặc quá thời gian quy định, người bị chất vấn trả lời không đúng trọng tâm chất vấn của Đại biểu quốc hội hoặc quá thời gian quy định.

Có thể thấy rằng, các quy định pháp luật về chất vấn và trả lời chất vấn đã góp phần tăng cường chất lượng, hiệu lực, hiệu quả của hoạt động này; bảo đảm tính thống nhất, khoa học trong xác định đối tượng, phạm vi, thẩm quyền, trình tự chất vấn; bảo đảm quyền, trách nhiệm của chủ thể chất vấn và đối tượng bị chất vấn; phát huy hơn nữa vai trò chất vấn của Đại biểu quốc hội, góp phần nâng cao, chất lượng, hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước.

4. Thực tiễn đổi mới hoạt động chất vấn và trả lời chất vấn

Trong thời gian qua, hoạt động chất vấn có nhiều đổi mới cả về nội dung lẫn hình thức. Có thể kể đến:

Xem thêm: Phân tích Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam

4.1. Tạo không khí tranh luận trong phiên chất vấn

Tại kỳ họp đầu tiên của Quốc hội khóa mới, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân đã đưa ra thông điệp: “Quốc hội khoá XIV sẽ đoàn kết, sáng tạo, hành động vì lợi ích của nhân dân” và “chuyển từ Quốc hội tham luận sang Quốc hội tranh luận”. Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc trong phát biểu nhậm chức ngày 26/7/2016 đã xác định rõ mục tiêu xây dựng Chính phủ mới là: “Chính phủ kiến tạo phát triển, Chính phủ hành động, Chính phủ phục vụ, Chính phủ liêm chính” .

Tại kỳ họp thứ hai, phiên chất vấn đầu tiên của Quốc hội khóa XIV đã ngay lập tức thu hút sự chú ý đặc biệt của cử tri và nhân dân cả nước bởi có nhiều điểm mới nổi bật. Tổng cộng đã có hơn 200 lượt Đại biểu quốc hội đặt câu hỏi chất vấn, trong đó hơn 20 lượt đại biểu đặt câu hỏi đối với Thủ tướng Chính phủ, hơn 35 lượt đại biểu đặt câu hỏi tranh luận.

Đại biểu quốc hội được quyền giơ biển tranh luận là nét đổi mới rất đáng chú ý nhằm tăng tính truy vấn, phản biện, thực hiện chất vấn đến cùng các vấn đề Quốc hội quan tâm. Chính hình thức mới này đã mang lại không khí sôi động, kịch tính, hấp dẫn hơn cho các phiên chất vấn của Quốc hội.

Việc Đại biểu quốc hội tranh luận với Bộ trưởng đã tạo nên sinh khí mới, là bước đột phá trong hoạt động chất vấn nói riêng, cũng như hoạt động của Quốc hội nói chung. Đây là một bước quan trọng để chuyển từ Quốc hội tham luận sang Quốc hội thảo luận, tranh luận.

4.2. Các câu hỏi chất vấn không cho biết trước

Trong những kỳ họp gần đây, chất vấn tiếp tục được đổi mới theo hướng, người được chất vấn sẽ không biết trước câu hỏi, không được chuẩn bị trước, các thành viên Chính phủ nhận được chất vấn sẽ phải trả lời tại chỗ.

Đây là sự khác biệt trong cách thức tiến hành chất vấn, đòi hỏi người bị chất vấn phải thực hiện tốt hơn chức trách quản lý của mình để có thể bao quát, nắm chắc tình hình lĩnh vực thuộc trách nhiệm quản lý. Đồng thời, cách làm này cũng thể hiện hoạt động chất vấn của Quốc hội Việt Nam ngày càng tiệm cận hơn với các phương pháp hoạt động nghị trường của nhiều nghị viện trên thế giới. Theo TS. Nguyễn Sĩ Dũng, nguyên Phó Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội, Quốc hội nhiều nước, nhất là Quốc hội của các nước theo mô hình của Anh thường không cho biết trước các câu hỏi chất vấn.

Xem thêm: Quyền giám sát ngân sách nhà nước của Quốc hội

4.3. Sự tham gia giải trình của tất cả các thành viên Chính phủ

Đối với từng vấn đề chất vấn, không chỉ người được chọn trả lời chất vấn mà các bộ trưởng khác cũng cùng tham gia trả lời về những vấn đề đòi hỏi trách nhiệm liên đới. Việc chất vấn và trả lời chất vấn trên tinh thần nâng cao trách nhiệm người đứng đầu các cơ quan, tăng cường đối thoại, tranh luận, bám sát và đi đến cùng nhằm giải quyết những vấn đề bức xúc một cách thiết thực và hiệu quả nhất, đáp ứng yêu cầu và mong mỏi của cử tri và nhân dân. Ví dụ, tại kỳ họp thứ 2, Quốc hội khóa XIV, các Đại biểu quốc hội đã chất vấn Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Phùng Xuân Nhạ về các nhóm vấn đề giáo dục và đào tạo, Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam đã tham gia phát biểu bổ sung về các nội dung có liên quan.

Cách thức tiến hành chất vấn được kế thừa và đổi mới theo hướng lấy nhóm vấn đề làm trọng tâm.Qua hoạt động chất vấn, những nhóm vấn đề được Quốc hội lựa chọn, những câu hỏi chất vấn, tranh luận của nhiều Đại biểu quốc hội [trong đó có nhiều đại biểu mới, đại biểu trẻ tuổi] là xác đáng, phù hợp thực tế, được cử tri, dư luận xã hội rất quan tâm. Việc quyết định các nhóm vấn đề chất vấn cũng là cơ sở để việc chọn người trả lời chất vấn trúng và đúng hơn, khiến các Bộ trưởng cảm thấy công bằng, đồng thời cũng phù hợp ý nguyện của nhân dân.

5. Vai trò, ý nghĩa của chất vấn và trả lời chất vấn tại kỳ họp Quốc hội

Để bảo đảm cho hoạt động giám sát tối cao, trực tiếp của Quốc hội có hiệu lực và hiệu quả, thì quy trình chất vấn và trả lời chất vấn tại kỳ họp Quốc hội có vai trò, ý nghĩa rất quan trọng. Vai trò, ý nghĩa đó được thể hiện trên những khía cạnh chủ yếu sau đây:
Thứ nhất, nó tạo ra cơ sở pháp lý cho hoạt động chất vấn và trả lời chất vấn được tiến hành theo một trật tự thống nhất, với những trình tự, thủ tục cụ thể. Nó tránh sự tùy tiện trong việc sử dụng nhiệm vụ, quyền hạn của các chủ thể tham gia vào hình thức giám sát tối cao, trực tiếp của tập thể các đại biểu do cử tri cả nước bầu ra – tức Quốc hội.

Đặc biệt, kể từ khi các phiên chất vấn và trả lời chất vấn được phát thanh, truyền hình trực tiếp, thì hoạt động này còn được diễn ra công khai, trước sự chứng kiến của cử tri và nhân dân cả nước. Điều đó đòi hỏi hoạt động chất vấn và trả lời chất vấn tại kỳ họp Quốc hội phải được tuân thủ chặt chẽ bởi các khâu, các bước theo một quy trình nhất định, do chính Quốc hội đặt ra.

Thứ hai, nó phản ánh tính nền nếp, kỷ cương và kỷ luật trong sinh hoạt của cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất. Với việc quy định cụ thể trong Luật hoạt động giám sát của Quốc hội, Nội quy kỳ họp, các chủ thể tham gia hoạt động chất vấn và trả lời chất vấn có những quyền hạn, nghĩa vụ tương xứng với địa vị pháp lý của mình.

Theo đó, Đại biểu quốc hội có quyền nêu câu hỏi chất vấn, thậm chí có thể theo đuổi đến cùng vấn đề mà mình chất vấn, nhưng không thể vượt quá giới hạn thời gian cho phép. Người trả lời chất vấn có nghĩa vụ trả lời đầy đủ, rõ ràng những câu hỏi mà đại biểu nêu ra, nhưng cũng có quyền từ chối trả lời những vấn đề thuộc phạm vi bí mật quốc gia hoặc những vấn đề không thuộc thẩm quyền và phạm vi lĩnh vực mình phụ trách.

Thứ ba, nó tạo tiền đề cho việc xác định trách nhiệm cá nhân của người đứng đầu các cơ quan nhà nước chịu sự giám sát của Quốc hội; Là sự khởi đầu, tiếp nối hay sự kết thúc một nội dung thuộc phạm vi hoạt động giám sát tối cao của Quốc hội. Với các bước của quy trình chất vấn và trả lời chất vấn tại kỳ họp Quốc hội, một vấn đề cụ thể liên quan đến quốc kế dân sinh có thể được mổ xẻ tỷ mỉ; Trách nhiệm cá nhân của người đứng đầu các cơ quan chịu sự giám sát của Quốc hội sẽ được xác định rõ hơn.

Xem thêm: Quốc hội là gì? Chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của Quốc hội?

Tùy vào tính chất, mức độ của vấn đề đang được chất vấn mà Quốc hội có thể quyết định tiếp tục làm rõ tại phiên họp của Ủy ban thường vụ Quốc hội, hoặc quyết định giao cho một cơ quan của Quốc hội giám sát, hay kết thúc việc trả lời chất vấn bằng một nghị quyết xác định trách nhiệm của người trả lời chất vấn.

Thứ tư, nó tác động và phản ánh kỹ năng đối thoại, tranh luận giữa các chủ thể tham gia hoạt động chất vấn và trả lời chất vấn tại diễn đàn Quốc hội. Chính các quy định về quy trình chất vấn và trả lời chất vấn sẽ tạo tiền đề cho các bên nâng cao kỹ năng đối thoại, tranh luận để cùng giải quyết những vấn đề mà Quốc hội và nhân dân quan tâm. Quy trình chất vấn và trả lời chất vấn cũng có tác động và ảnh hưởng không nhỏ tới không khí sinh hoạt tại các phiên họp công khai của Quốc hội.

Thứ năm, nó phản ánh khoa học tổ chức, điều hành hội nghị trên bình diện của diễn đàn quyền lực ở tầm quốc gia. Nó thể hiện tư duy khoa học và phép vận trù hợp lý trong việc sắp đặt trật tự các bước, các khâu cần tiến hành của quy trình chất vấn và trả lời chất vấn tại kỳ họp Quốc hội. Nó bảo đảm tiết kiệm được thời gian, loại bỏ được những yếu tố bất hợp lý, tạo tiền đề cho việc nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất.

Video liên quan

Chủ Đề