Cách trang trí món ăn của người Việt

Việt Nam trải qua một quá trình lịch sử lâu đời để bảo vệ, gìn giữ và xây dựng đất nước. Ẩm thực xưa và nay của người Việt cũng vì thế mà có những chuyển biến. Dựa trên những văn hóa xưa, cột lỗi, phát huy và tiếp thu cái mới để cho ra đời một nền văn hóa ẩm thực Việt Nam vang danh với bạn bè năm châu.

Ẩm thực Việt thời xưa

Với 54 dân tộc anh em trải dài dọc theo mảnh đất hình chữ S từ Bắc ra Nam, không ai có thể kể hết được những đặc trưng văn hóa của từng nơi, từng vùng. Chính vì vậy mà bạn bè bốn phương biết đến nền ẩm thực Việt truyền thống vô cùng phong phú. Những nét riêng về ẩm thực thời xưa mà người Việt luôn gìn giữ là:

  • Thời xưa, người Việt Nam thường có thói quen ăn nhạt hơn, các món không quá đậm đà.

Ẩm thực thời nay là sự kế thừa để phát huy truyền thống chứ không hề làm mất đi đặc trưng vốn có.

  • Trong quá trình chế biến món ăn, người Việt Nam pha trộn nhiều vị để tạo nên hương vị riêng. Có rất nhiều món ăn Việt được kết hợp đầy đủ các vị như chua, cay, mặn, ngọt. Điều này tạo nên sự hài hòa và đặc biệt cho từng món ăn Việt.
  • Trước kia, quan niệm chủ yếu của người Việt là ăn no mặc ấm nên các món ăn được chế biến chủ yếu theo kinh nghiệm và đơn sơ. Ẩm thực xưa và nay của người Việt đều mang tính cộng đồng rõ rệt. Mỗi thành viên trong gia đình ngoài chén ăn riêng thì tất cả các món đều ăn chung và dọn lên cùng một mâm.
  • Sự hiếu khách, cởi mở của mọi người trong mâm cơm, khách được mời chào nhiệt tình là điều thu hút về ẩm thực xưa và nay. Không chỉ thể hiện nét văn hóa của người Việt mà còn tạo nên ấn tượng sâu sắc với du khách quốc tế.

Mâm cơm Việt là một đặc trưng về văn hóa dân tộc từ bao đời nay.

Ẩm thực Việt Nam ngay nay

Ẩm thực Việt ngày nay là sự kết hợp, giao thoa giữa ẩm thực truyền thống của dân tộc với những tinh túy từ nhiều quốc gia trên thế giới. Mặc dù nền ẩm thực Việt ngày nay đã có nhiều đổi mới nhưng vẫn không làm mất đi nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc mà tổ tiên lưu truyền bao đời. Ẩm thực thời nay là sự kế thừa và phát huy từ những tinh hoa truyền thống chứ không phải là sự bác bỏ hoàn toàn.

Biến tấu dựa trên công thức truyền thống

Xã hội phát triển và mở rộng quan hệ quốc tế, chính vì vậy mà văn hóa ẩm thực từ các nước ngày càng có nhiều cơ hội du nhập vào Việt Nam. Đồng thời, nền ẩm thực Việt Nam cũng được bạn bè bốn phương biết đến nhiều hơn. Do đó, người Việt Nam cũng trau chuốt và tỉ mỉ hơn trong từng món ăn.

Mọi người đều hiểu, ẩm thực không chỉ đơn giản là ăn uống mà còn là văn hóa, là bản sắc riêng của dân tộc.Sự tương đồng, kết hợp của ẩm thực xưa và nay đã tạo nên những đặc trưng nổi bật chỉ có thể tìm thấy tại Việt Nam.

Ngày nay, con người tiếp thu những cái mới và biến tấu món Việt dựa trên phương thức truyền thống.

Dựa trên những truyền thống để lại, người Việt biến tấu thành những món ăn độc đáo, có sự hài hòa và cân bằng khẩu vị hơn. Sự khéo léo kết hợp giữa phương thức nấu nướng từ nước ngoài cùng cách chế biến và kinh nghiệm truyền thống vốn có đã góp phần tạo nên văn hóa ẩm thực đặc trưng, hấp dẫn của Việt Nam ngày nay.

Chú trọng hơn trong cách trình bày

Người Việt Nam xưa thường chú trọng đến việc ăn no, ăn ngon và bổ dưỡng, ít quan tâm đến hình thức trang trí. Tuy nhiên, vẫn là những món ăn truyền thống, kể cả hiện đại thì người nấu vẫn có những cách trang trí sáng tạo để làm tạo nên một “tác phẩm nghệ thuật” hoàn hảo. Do vậy mà ẩm thực Việt thời nay không chỉ cân bằng mùi vị mà còn là sự hài hòa về màu sắc, cách bài trí nguyên liệu của món ăn.

Đề cao các thành phần dinh dưỡng

Khi xã hội còn nhiều khó khăn, người dân chú trọng nhất là làm sao ăn đủ no mà ít quan tâm đến vấn đề dinh dưỡng hơn. Tuy nhiên, ngày này, khi cuộc sống hiện đại hơn, những đòi hỏi của con người cũng được cải thiện.

Nền ẩm thực Việt ngày nay không chỉ là vấn đề “ăn cho no, mặc chi ấm” mà phải là “ăn ngon, mặc đẹp”. Chính vì vậy mà trong chế biến món ăn, mọi người quan tâm hơn đến sự kết hợp các thành phần dinh dưỡng, đảm bảo nguyên liệu tươi, ngon, không chất bảo quản hay thành phần độc hại.

Bất kể ai cũng có thể hiểu, một đời người không phải sống để ăn mà là để hưởng thụ. Ăn uống khoa học là cách để bảo vệ sức khỏe mọi người, nâng cao sức đề kháng để tránh được mầm móng gây bệnh.

Món ăn Việt ngày nay đã có cơ hội vươn xa ra thế giới để sánh vai với bạn bè quốc tế.

Ẩm thực xưa và nay của người Việt dù ít nhiều có những điểm khác nhau nhưng đều toát lên được nét tinh túy, độc đáo và hấp dẫn trước bạn bè quốc tế. Bất kể ai đi đâu cũng không thể nào quên được hương vị quê nhà, những cảm nhận riêng mà chỉ có ẩm thực Việt mới có thể mang lại. Dù có trải qua thời gian thêm bao lâu nữa thì dân tộc Việt vẫn tin rằng, ẩm thực xưa và nay của nước ta vẫn luôn có điểm nhấn đặc biệt không thể trộn lẫn hay mất đi.

Diệu Trần

Ăn uống không chỉ đơn thuần duy trì sự sống mà còn là nét văn hóa gọi là văn hóa ẩm thực. Từ cách ăn uống, có thể phần nào thấy được trình độ văn hóa, trình độ nhận thức thẩm mỹ của một cá nhân, một gia đình, một vùng miền và một dân tộc.

Bữa cơm của gia đình Việt Nam mang đậm nét văn hóa truyền thống phương Đông. Ảnh Internet

Bữa cơm của gia đình Việt Nam mang đậm nét văn hóa truyền thống phương Đông qua một số đặc điểm sau:

Thứ nhất, mâm cơm. Bữa ăn gia đình Việt xưa thường là biểu tượng cả gia đình quây quần bên mâm cơm. Nhà giàu thì mâm đồng, nhà nghèo thì mâm gỗ và thậm chí là cái mẹt tre đan. Việc quây quần bên mâm cơm thể hiện sự đùm bọc trên dưới một lòng, đoàn kết.

Trong bữa cơm, cả nhà sum họp, nói chuyện về đời sống, cùng chia sẻ với nhau những niềm vui, nỗi buồn trong ngày làm việc. Mâm cơm xưa trừ nhà có kinh tế khá giả còn thì được bày biện đơn giản.

Việc bố trí các món ăn có tính thẩm mỹ thường ít được chú ý mà cơ bản vẫn chú ý đến chất lượng, số lượng món ăn. Người ta thường khen “mâm cơm đầy tú ụ, thịt cá ê hề” chứ ít khi khen mâm cơm đẹp.

Tính thẩm mỹ chỉ được đầu tư khi gia đình làm mâm cỗ. Tuy nhiên, ngày nay, nhiều gia đình không còn dùng mâm mà dùng bàn ăn. Tính thẩm mỹ cũng từng bước được chú trọng. Một điều đặc biệt nữa là mâm cơm gia đình người Việt tất cả các món đều được dọn ra cùng một lần, khác với một số nơi, dọn dần từng món.

Sự sắp xếp món ăn trên mâm cơm cũng biểu thị văn hoá của một gia đình, một vùng miền. Ảnh Intrernet

Thứ hai, vị trí ngồi. Trong bữa ăn, vị trí ngồi là một nét ứng xử văn hóa rất quan trọng. Mâm cơm trong bữa ăn gia đình có hình tròn, tượng trưng tinh thần bình đẳng vì mỗi vị trí trên vòng tròn đều ngang nhau, không có chỗ trên, chỗ dưới, chỗ trước, chỗ sau.

Tuy nhiên, bên mâm cơm ấy vẫn có những vị trí trang trọng, thuận lợi khi ăn. Vì thế, khi ăn, những vị trí này thường được nhường cho ông, bà, cha mẹ… con cháu phải ngồi ở vị trí khác để xới cơm, phục vụ thức ăn. Vì vậy, tục ngữ Việt Nam có câu: “Ăn trông nồi, ngồi trông hướng”.

Trong bữa ăn gia đình Việt Nam, người già và trẻ em thường được đặc biệt quan tâm. Khi xới bát cơm mời bố mẹ già, người con dâu trong nhà thường chọn phần cơm mềm, dẻo, không bao giờ đơm miếng cháy vào bát các cụ. Thậm chí ngày xưa, ông, bà và bố có khi còn được bố trí ngồi một mâm ở nhà trên, mẹ và các con, cháu ngồi mâm ở dưới nhà bếp.

Trong mâm cơm gia đình Việt, vị trí ngồi của các thành viên cũng là một nét văn hoá. Ảnh Internet

Thứ ba, lời mời. Trước và sau khi ăn, người Việt thường có “thủ tục” mời ăn, điều này thể hiện lễ giáo và sự kính trọng với người trên. Theo tục lệ xưa, khi ngồi vào mâm cơm, trước khi bưng bát, cầm đũa thì phải “mời cơm”, người ít tuổi mời những người nhiều tuổi hơn.

Sau khi mời xong rồi, người lớn tuổi nhất cầm chén lên thì những người khác mới cầm chén đũa của mình lên ăn. Và khi ăn xong lại mời, thường đại ý là: “Mời mọi người ăn ngon miệng, con [cháu] xin phép”. Gần như giống nhau về thủ tục mời nhưng mỗi vùng, miền lại có lời mời khác nhau, rất đa dạng. Vì thế, nhiều cô dâu mới về nhà chồng phải quan sát tập cho quen để “nhập gia tùy tục”.

Lời mời trong bữa cơm là một nét văn hóa đáng quý nhưng ngày nay, nét văn hóa này đang dần bị mai một, rất cần được duy trì, phát triển.

Thứ tư, nói năng trong bữa ăn. Bữa ăn của người Việt là dịp quan trọng để các thành viên trong gia đình tụ họp, trao đổi, thể hiện tình cảm. Vì vậy, rất nhiều kiến thức về đời sống, họ tộc, lễ nghĩa được ông, bà, cha, mẹ truyền dạy cho con cháu qua bữa cơm.

Nhiều tâm tình giữa các thành viên cũng được thể hiện tại bữa cơm. Chính vì vậy, nhiều người đến gần cuối cuộc đời vẫn nhớ lời dạy bảo, tâm sự của các thành viên trong gia đình qua các bữa cơm. Đây là một nét văn hóa rất đặc sắc. Tuy nhiên, theo lời khuyên của các bác sĩ thì trong bữa ăn nên hạn chế nói để đảm bảo vệ sinh và việc hấp thu tốt thức ăn.

Mặt khác, trong bữa ăn gia đình phải tránh quở trách, nhắc nhở những khuyết điểm, không cãi nhau, không nên nói những chuyện gây sốc, nặng nề… mà chỉ nói về những chuyện vui vẻ, những dự định tương lai và thể hiện tình cảm quan tâm, chia sẻ, động viên với những thành viên khác trong gia đình.

Trong bữa ăn, dù gia đình giàu hay nghèo, người Việt cũng luôn coi trọng sự vui vẻ và sự kính trên nhường dưới. Ảnh Internet

Thứ năm, tốc độ ăn, uống. Trong bữa cơm, người Việt không ăn quá nhanh hoặc quá chậm, không ngồi quá lâu và ăn quá nhiều hoặc quá ít, không ăn hết nhẵn hoặc bỏ dở. Khác với người phương Tây, người Việt thường không ăn hết món ăn mà thường để lại miếng “lịch sự”. Vì vậy, trong dân gian Việt Nam có câu: “Ăn hết bị đòn, ăn còn mất vợ”.

Thứ sáu, văn hóa dùng đũa. Tập quán dùng đũa đã khiến cho ở người Việt Nam hình thành cả một triết lý: triết lý đôi đũa. Đó là triết lý về tính cặp đôi và triết lý về tính số đông. Dân gian nói về triết lý cặp đôi rất hay như: “Vợ chồng như đũa có đôi; Bây giờ chồng thấp vợ cao/ Như đôi đũa lệch so sao cho vừa”… và ở thời Lê, bẻ gãy đôi đũa là dấu hiệu ly hôn.

Thứ đến là triết lý về tính số đông. Bó đũa là biểu tượng của sự đoàn kết, của tính cộng đồng. “Vơ đũa cả nắm” là nói đến thói cào bằng xô bồ, tốt xấu không phân biệt… “Bó đũa chọn cột cờ” nói về việc chọn người nổi trội nhất trong đám đông...

Văn hóa dùng đũa của người Việt rất kỵ đũa lệch. Khi gắp thức ăn cho người khác phải trở đầu đũa hoặc có một đôi đũa dùng chung. Việc tập dùng đũa làm sao cho đẹp, cho khéo, gắp thức ăn, và cơm làm sao tránh rơi rớt, tạo tiếng kêu cũng là một chỉ dấu của giáo dục văn hóa gia đình.

Việc dùng đũa khi ăn của người Việt là triết lý về tính cặp đôi và triết lý về tính số đông. Ảnh Internet

Thứ bảy, đồ uống trong và sau bữa ăn. Không phong phú các đồ uống trong và sau bữa ăn như một số dân tộc khác, người Việt thường chỉ uống rượu trong bữa ăn và uống chè xanh, trà sau bữa ăn.

Đối với rượu, các gia đình thường có rượu ngâm thuốc để phục vụ người già và trung niên và mỗi bữa ăn, mỗi người chỉ uống một vài chén theo phong cách uống thuốc bổ. Khi có món nhắm ngon, có thể uống hơn nhưng không quá đà. Còn uống sau bữa ăn có chè xanh, nước vối hoặc trà, tùy theo tập quán vùng miền. Con cháu thường phải mời ông, bà, cha mẹ uống sau khi ăn rồi mới đến lượt mình.

Thứ tám, tăm xỉa răng. Sau bữa cơm, người Việt bao giờ cũng dùng tăm xỉa răng. Đây là tập quán được giải thích từ nhiều cách khác nhau như: về mặt biểu tượng là thể hiện sự no đủ, hay chỉ dấu cho người đối diện thấy mình mới dùng bữa xong; hoặc cho rằng, xỉa răng là hậu quả của việc bỏ tục ăn trầu nhuộm răng của phụ nữ xưa…

Tuy nhiên, cách giải thích chính xác nhất có lẽ là do cách chế biến thức ăn. Người phương Tây không dùng tăm do thức ăn họ thường nấu rất nhuyễn. Người Việt mình thường dùng thức ăn nhiều chất chất xơ, thói quen thích nhai nghiền thịt xương nên hay bị giắt răng và tất yếu phải dùng tăm xỉa răng. Ứng xử có văn hóa sau bữa ăn là con cháu thường lấy tăm và đồ uống để phục vụ ông bà, cha mẹ.

Mới thử tìm hiểu sơ qua một số nét chính về văn hóa trong bữa cơm gia đình của người Việt như trên, chúng ta đã thấy thật là ý nghĩa. Bởi vì, chuyện ăn uống với người Việt đã trở thành đạo sống, đạo cư xử, hay nói rõ hơn, đạo làm người. Điểm qua những cách nói trong dân gian của người Việt sau đây ta sẽ thấy rõ điều này.

“Có thực mới vực được đạo”, phản ánh lối suy tư rất thực tiễn của người Việt là: “Dĩ thực vi tiên”. Người Việt lại lấy “Miếng trầu là đầu câu chuyện” và nhận ra ăn uống có tính chất linh thiêng “Trời đánh tránh bữa ăn”.

Người Việt diễn tả cái đạo làm người, lòng tôn kính tổ tiên qua “đạo ăn”: “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây,” và qua “đạo uống”: “Uống nước nhớ nguồn” và do vậy rất ghét và khinh bỉ những kẻ: “Ăn cháo đái bát”, “Vắt chanh bỏ vỏ”, “Ăn quỵt,” “Ăn bẩn”, “Ăn bám”, “Ăn bớt, ăn xén”, “Ăn bậy, ăn bạ”, “Ăn trên ngồi trốc”, “Ăn không ngồi rồi”, “Ăn gian nói dối”...

Thái Văn Sinh

Thái Văn Sinh

Page 2

13 câu lạc bộ dân vũ đến từ TP Vinh [Nghệ An] và Hà Tĩnh cùng tham gia biểu diễn tại Liên hoan Line Dance - Khiêu vũ Hà Tĩnh năm 2022.

Tối 9/7, Câu lạc bộ [CLB] Moning, CLB TLD Hà Tĩnh đã tổ chức đêm Liên hoan khiêu vũ, dân vũ 2 tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh. Sự kiện nhằm chào mừng 15 năm ngày thành lập thành phố Hà Tĩnh và các sự kiện lớn trong năm 2022.

Tham dự liên hoan có 13 CLB, với 260 diễn viên đến từ TP Vinh [Nghệ An], TX Hồng Lĩnh và TP Hà Tĩnh. Các CLB đã trình diễn 20 tiết mục khiêu vũ, dân vũ. Trong ảnh: Tiết mục của CLB Nguyên Dance Sport [TP Hà Tĩnh]

Ngoài các thành viên trẻ, liên hoan còn có sự tham gia của các diễn viên cao tuổi và các em thiếu nhi. Trong ảnh: Tiết mục của CLB người cao tuổi - 55 Phan Đình Phùng, TP Hà Tĩnh.

Liên hoan Line Dance - Khiêu vũ Hà Tĩnh năm 2022 là sân chơi bổ ích và lý thú nhằm giúp người dân, nhất là chị em phụ nữ rèn luyện sức khỏe và nâng cao thể chất. Trong ảnh: Tiết mục của CLB Moning [TP Hà Tĩnh].

Kết thúc buổi liên hoan, Ban tổ chức đã trao giải nhất cho CLB Bảo Dancesport [TP Vinh], giải nhì cho CLB Nguyên Dancesport [TP HÀ Tĩnh], giải ba cho CLB Moning [TP HÀ Tĩnh]. Ban tổ chức cũng đã trao cúp lưu niệm cho 13 CLB tham dự.

Hạnh Nhân

Hạnh Nhân

Video liên quan

Chủ Đề