Vì sao phải truyền nước

Khi nào cần vô “nước biển”?

Khi cảm thấy mệt mỏi, ăn uống kém, mất ngủ... không ít người nghĩ ngay đến việc tìm bác sĩ để “vô nước” [tức truyền nước biển] cho khỏe.

Điều đáng nói ở đây là cả người muốn “tiếp nước” và người thực hiện việc “tiếp nước” đều cảm thấy hài lòng, dù việc làm đó nhiều khi không cần thiết, tốn kém tiền bạc, thời gian, chưa kể có thể gây nguy hiểm đến tính mạng.

Ở các phòng mạch tư và một số nhà thuốc, hiện tượng người không bệnh tật gì đến đề nghị được truyền dịch là phổ biến. Nhiều người chỉ bị đau đầu nhưng cứ nằng nặc đòi vô “nước biển”. Khi gặp bác sĩ, dược sĩ có chuyên môn và có ý tốt khuyên không nên thì họ phản ứng bằng cách bỏ đi nơi khác để được “tiếp nước”.

Việc truyền dịch chỉ được thực hiện khi có y lệnh của bác sĩ - Ảnh: Thanh Đạm



Có bao nhiêu loại dịch truyền?

Người dân thường gọi dịch truyền nói chung là “nước biển”. Trong giới chuyên môn chia dịch truyền thành ba nhóm cơ bản sau:

1. Nhóm cung cấp chất dinh dưỡng cho cơ thể, dùng trong các trường hợp suy kiệt, ăn uống kém:

- Dịch ngọt chứa đường glucoza [còn gọi là glucose hoặc dextrose] có tác dụng cung cấp năng lượng cho cơ thể. Dung dịch glucoza có nhiều loại: 5%, 10%, 20%, 30%. Nửa lít glucoza 5% cung cấp năng lượng tương đương ăn một bát cơm.

- Dịch chứa chất đạm, chất béo và vitamin như: alversin 40, amigolg 8,5%, amino - plasmal 5%, nutrisol 5%, vitaplex, lipofundin, clinoleic... dùng trong các trường hợp suy kiệt, suy dinh dưỡng. Các sản phẩm này rất đắt tiền.

2. Nhóm cung cấp nước và các chất điện giải, dùng trong trường hợp mất nước, mất máu [tiêu chảy, bỏng, ói mửa...]. Đó là các dung dịch lactate ringer, natri clorua 0,9%, bicarbonate natri 1,4%...

3. Nhóm đặc biệt như huyết tương tươi, dung dịch chứa albumin, dung dịch dextran, haes-steril, gelofusin hay dung dịch cao phân tử... dùng trong các trường hợp cần bù nhanh chất albumin hoặc lượng dịch tuần hoàn trong cơ thể.

Các loại dịch truyền đều là thuốc dạng đặc biệt, chỉ được dùng khi bác sĩ khám và kê toa.

Các tình huống cần truyền dịch

Ở không ít phòng mạch tư, để dễ thu nhiều tiền bệnh nhân, thường trong “nước biển” sẽ được pha thêm một ít thuốc bổ như becozym...Thực chất đây chỉ là các vitamin nhóm B rất dễ gây sốc khi truyền. Nếu không đủ phương tiện hồi sức cấp cứu thì khi xảy ra sốc sẽ nguy hiểm đến tính mạng người được truyền.

Dịch truyền sẽ là liều thuốc hiệu quả khi được dùng đúng bệnh, đúng lúc, đúng liều. Việc lạm dụng dịch truyền hoặc dùng sai chỉ định có thể dẫn đến nhiều tai biến. Người bệnh cần được truyền dịch trong các tình huống sau:

1. Bồi hoàn thể tích dịch cho cơ thể bị mất như khi sốt cao, ói mửa, tiêu chảy, bỏng, chấn thương gây chảy máu...

2. Cung cấp chất dinh dưỡng cho cơ thể khi người bệnh không ăn uống được, suy kiệt, hôn mê, phẫu thuật đường ruột...

3. Mượn đường truyền dịch để pha loãng thuốc đưa vào cơ thể từ từ, vì có một số loại thuốc không thể tiêm thẳng và nhanh vào mạch máu.

4. Bồi hoàn các chất điện giải như natri, kali, canxi, clor... Các chất này thường được phát hiện thiếu hụt khi làm xét nghiệm máu.

Các tai biến khi truyền dịch

Dù truyền dịch có đúng chỉ định hay không vẫn có thể xảy ra tai biến. Bao gồm:

1. Run tiêm truyền và sốc. Đang truyền dịch đột nhiên lạnh run, sốt, toát mồ hôi... Nặng hơn sẽ làm tụt huyết áp, hôn mê, ngưng tim ngưng thở và tử vong

2. Nhiễm trùng. Nếu không sát trùng kỹ nơi tiêm truyền, các thao tác không đảm bảo vô trùng có thể gây ra nhiễm trùng tại chỗ, viêm tĩnh mạch, sưng phù do lệch kim khỏi tĩnh mạch. Nếu vi trùng lan vào máu sẽ gây nhiễm trùng huyết và sốc nhiễm trùng. Nếu sử dụng kim, ống chích, dây truyền cho nhiều người có thể làm lây bệnh viêm gan siêu vi B,C, nhiễm HIV, sốt rét...

3. Quá tải thể tích. Khi truyền dịch với số lượng lớn hoặc truyền với tốc độ quá nhanh sẽ làm quá sức chịu đựng của tim và phổi, dẫn đến mệt, khó thở, suy tim và phù phổi cấp. Tai biến này rất dễ xảy ra trên các đối tượng như bệnh nhân lớn tuổi, có bệnh tim, suy thận, trẻ em...

4. Tắc khí. Hết dịch truyền mà không biết hoặc để bóng khí lọt vào mạch máu có thể gây thuyên tắc khí. Nếu nặng có thể gây chết người.

5. Rối loạn thừa. Việc truyền không đúng loại dịch truyền sẽ gây rối loạn thừa các chất có trong dịch truyền, làm cơ thể mất quân bình.

Việc truyền dịch chỉ an toàn khi có chỉ định của bác sĩ, để xác định cơ thể bệnh nhân đang trong tình trạng như thế nào và cần những loại dịch truyền gì. Cần tuân thủ tuyệt đối các quy định trong truyền dịch về tốc độ, thời gian, số lượng, dụng cụ phải đảm bảo vô trùng tuyệt đối.

Ngoài ra, nơi truyền dịch phải có đủ các điều kiện xử lý chống sốc để phòng sự cố. Người truyền dịch phải có trình độ chuyên môn. Điều quan trọng là người bệnh phải được theo dõi thật sát trong suốt quá trình truyền dịch, để khi xảy ra tai biến hay biến chứng sẽ được xử trí cấp cứu kịp thời.

Theo BS Lưu Kính Khương [Tuổi Trẻ]

Để xác định có nên truyền nước không, người bệnh cần tiến hành xét nghiệm máu và các bước kiểm tra cần thiết khác. Nếu kết quả đo được thấp hơn mức bình thường, bác sĩ mới chỉ định cho người bệnh truyền nước biển.

Bên cạnh đó, nếu cơ thể bị mất nước nhưng vẫn ăn uống được thì người bệnh không nhất thiết phải truyền dịch. Lúc này, việc bù nước qua đường uống sẽ đem lại hiệu quả tốt hơn. Cụ thể, việc uống một ly nước có pha thìa cà phê đường tương đương với truyền một chai glucose 5% hay húp một bát canh nhạt cũng tương đương với truyền một chai dung dịch muối 9%.

Ngoài ra, việc truyền nước biển chỉ an toàn khi có sự chỉ định và theo dõi sát sao của bác sĩ hay nhân viên y tế. Quá trình truyền dịch cần tuân thủ các quy định về tốc độ nhỏ giọt, liều lượng, đồng thời địa điểm truyền dịch phải đáp ứng các tiêu chuẩn về cơ sở vật chất để xử lý kịp thời trong trường hợp xảy ra sự cố. Do đó, người bệnh tuyệt đối không tự ý mua dịch truyền từ quầy thuốc hoặc sử dụng các dịch vụ truyền nước biển tại nhà. Việc lạm dụng truyền nước biển có thể dẫn đến những biến chứng nghiêm trọng, thậm chí đe dọa đến tính mạng.

Những rủi ro khi truyền nước biển

Bên cạnh những tác dụng của truyền nước, quá trình truyền nước biển luôn ẩn chứa những rủi ro nhất định. Vì vậy, kỹ thuật này cần được thực hiện tại các cơ sở y tế có đủ điều kiện và khả năng xử trí tai biến. Một số biến chứng khi chuyền nước mà người bệnh có thể gặp phải bao gồm:

Phản ứng tại vị trí truyền dịch

Vùng da tiếp xúc với mũi tiêm có thể bị phù, sưng đau. Trường hợp nặng hơn, người bệnh có nguy cơ bị viêm tĩnh mạch, đặc biệt là khi truyền các loại nước biển ưu trương. Thậm chí, người bệnh có thể bị hoại tử một phần cơ do chệch ven.

Phản ứng toàn thân

Việc truyền loại dung dịch không phù hợp hoặc truyền thừa lượng cần thiết có thể gây dị ứng, rối loạn điện giải, phù toàn thân, tràn dịch màng bụng, suy hô hấp, suy tim… Tệ hơn, người bệnh có nguy cơ bị sốc phản vệ – một tình trạng nguy hiểm có khả năng đe dọa tính mạng. Biểu hiện của sốc phản vệ là sốt cao, rét run, khó thở, đổ mồ hơi, toàn thân bồn chồn, tím tái… Do đó, trong quá trình truyền dịch, nếu có các dấu hiệu trên, người bệnh cần ngay lập tức báo cho nhân viên y tế để được xử lý kịp thời.

Ngoài ra, việc truyền dịch bừa bãi có thể làm tăng nguy cơ mắc các bệnh lây qua đường máu như HIV/AIDS, viêm gan B, C do việc tái sử dụng lại các dụng cụ nhưng không được vô trùng đúng cách.

Truyền nước biển có mập không?

“Truyền nước biển có mập không?” cũng là thắc mắc của khá nhiều người. Họ cho rằng việc truyền nước biển có thể giúp tăng cân do dịch truyền chứa nhiều vitamin và khoáng chất. Tuy nhiên, trên thực tế, chưa có bằng chứng khoa học nào cho thấy việc truyền dịch có tác dụng cải thiện cân nặng cho người gầy.

Video liên quan

Chủ Đề