Vì sao ed sheeran lại up album lên youtube

Vượt qua những màn trình diễn với sequin, cut-out và xuyên thấu suốt một thời gian dài, có vẻ “minimalism” cũng sẽ dần quay lại runway cùng màn thăm dò ý kiến của một loạt các thương hiệu lớn và chiếc tank-top, một item không thể đơn giản hơn.

Ed Sheeran có ngoại hình không mấy hấp dẫn. Thân hình mập mạp cùng gu ăn mặc tuềnh toàng khiến dáng vẻ anh trở nên luộm thuộm. Mái tóc đỏ luôn rối bù như thể Ed chẳng bao giờ dùng đến lược và luôn có thói quen vò đầu bứt tóc. Chàng trai sinh năm 1991 từng chia sẻ anh luôn bị trêu chọc và bắt nạt bởi màu tóc của mình.

Trong một bài phỏng vấn, Ed Sheeran tự trào rằng tình tiết phi lý nhất trong truyện Harry Potter là nhân vật Ron Weasley - một anh chàng tóc đỏ - có đến hai người bạn. Ed không hề nói quá bởi ở Anh, người tóc đỏ phải chịu sự kỳ thị và phân biệt đối xử. Họ bị quy chụp cùng những nét tính cách tiêu cực như ngông cuồng, nóng tính, kém hấp dẫn, lập dị. Thế nhưng Ed Sheeran có vẻ không mấy bận tâm về điều đó. Anh có những mối bận tâm khác ngoài chuyện màu tóc hay việc chăm chút ngoại hình. 

* Ed Sheeran hát "Autumn Leaves" năm 2009

Ed thể hiện thiên phú âm nhạc từ nhỏ. Anh chơi guitar thành thạo khi mới 5 tuổi, sáng tác, biểu diễn và thu âm ca khúc từ năm 15 tuổi. Năm 2008, khi mới 16 tuổi, Ed rời quê nhà ở hạt Suffolk đến London tìm cơ hội phát triển. Ở London, anh chăm chỉ biểu diễn ở các quán bar, club. Anh thậm chí chẳng đủ tiền thuê một căn hộ và phải ngủ nhờ trên sofa nhà bạn. Thế nhưng Ed Sheeran không từ bỏ. Sau 5 năm kiên trì đi hát và biểu diễn tại hơn 300 show lớn, nhỏ trong nước, Ed Sheeran có lượng fan nhất định tại Anh. Ed Sheeran đã có thể lựa chọn phương án an toàn: ở lại quê nhà và từ từ phát triển sự nghiệp. Tuy nhiên, chàng trai tóc đỏ thích phiêu lưu đã chọn cách mạo hiểm hơn.

* MV "The A Team"

Năm 2010, Ed bay đến Mỹ để chơi nhạc cho một câu lạc bộ nhỏ. Anh không có mối quan hệ hay bất kỳ ai đỡ đầu để tiến thân. Anh kiếm sống bằng cách chơi nhạc ở các tụ điểm nhỏ và đăng tải các video nhạc của mình lên Youtube. Ed dần được các tên tuổi lớn như Jamie Foxx, Elton John chú ý. Năm 2011, Ed Sheeran tạo đột phá với bản hit The A Team. Ca khúc đứng thứ tám trong danh sách đĩa đơn ăn khách nhất năm ở Anh, lọt vào Top 10 bảng xếp hạng âm nhạc ở Đức, Hà Lan, Australia, Nhật Bản, đưa Ed Sheeran trở thành nghệ sĩ trẻ được chú ý trong năm đó. 

Người mã hóa âm nhạc bằng những ký hiệu toán học

Ed đặt tên cho ba album lần lượt là + [Plus], X [Multiply] và ÷ [Divide]. Năm 2014, Ed Sheeran từng tiết lộ một phần ý nghĩa tên các album. Theo anh, + [Plus] là phiên bản bổ sung từ các mini album do anh tự phát hành khi chưa nổi tiếng. X [Multipy] là những nỗ lực được nhân lên nhiều lần sau các sản phẩm trước. Lúc đó, Ed cũng chia sẻ anh sẽ ra mắt ÷ [Devide] - album hứa hẹn sự hợp tác giữa anh và một nghệ sĩ khác.

Dù được giải thích như vậy, khán giả vẫn không thỏa mãn. Nhiều người cho rằng những ký hiệu hóa học chứa những ẩn dụ trong âm nhạc của Ed, khiến họ càng thêm tò mò muốn giải mã mỗi khi sản phẩm mới ra đời.

+ [Plus] được phát hành năm 2011, mang đến thứ âm nhạc sảng khoái, nhiều năng lượng sống của một tuổi trẻ yêu đời và giàu lòng nhân ái. Ca khúc nổi tiếng nhất album - The A Team - là tình cảm trắc ẩn của Ed dành cho những cô gái điếm đứng đường. X [Multiply] ra mắt ba năm sau đó, thể hiện sự chững chạc, trưởng thành trong tư duy âm nhạc của Ed Sheeran. X [Multiply] trở thành album được tải nhiều nhất năm 2014 trên trang nghe nhạc trực tuyến Spotify. Cùng năm đó, Ed Sheeran cũng trở thành nghệ sĩ được nghe nhiều nhất thế giới trên trang này. Thinking Out Loud - bản hit đình đám nhận giải "Bài hát của năm" tại Grammy lần thứ 56. 

Sau những thành công ấy, khán giả và giới chuyên môn mặc định Ed khó vượt qua cái bóng của chính mình. Anh gần như đóng băng mọi hoạt động nghệ thuật trong năm 2016 để tìm cảm hứng sáng tác album mới. 

* MV "Thinking Out Loud"

Hồi tháng 1, anh phát hành hai đĩa đơn Shape of You và Castle on The Hill. Ngày 3/3, nam ca sĩ phát hành album ÷ [Divide]. Album kế thừa gam màu Pop pha hơi hướng Country trên nền guitar quen thuộc. Ed đã gia giảm thêm các chất liệu nhạc khác như R&B, Dance, Rap để tạo sự mới lạ và lôi cuốn. ÷ [Divide] chứa đựng mọi hỉ, nộ, ái, ố trong 26 năm cuộc đời của Ed Sheeran. Đó là tâm sự của một chàng trai sinh ra ở một vùng quê nhỏ, từng đối mặt với nhiều thử thách, chông gai để trở thành người đàn ông bản lĩnh [Eraser]. Đó cũng là ký ức tuổi thơ tại quê nhà ở hạt Suffolk, Anh [Castle on The Hill] hay những nỗi cô đơn không thể lấp đầy [Supermarket Flowers]. Dù thế nào đi nữa, chàng trai ấy vẫn luôn sống và yêu hết mình [Shape of You].

* MV "Shape of You"

Album bán được 672.000 bản trong tuần đầu ở Anh, xếp thứ ba trong danh sách album bán chạy nhất tại xứ sở sương mù, sau 25 của Adele và Be Here Now của Oasis. Devide cũng đứng đầu bảng xếp hạng ở nhiều nước như Mỹ, Canada, Australia... Single Shape of You đứng thứ ba trong danh sách các bài hát cán mốc một tỷ lượt xem nhanh nhất, sau Hello của Adele và Despacito của Luis Fonsi - Daddy Yankee. Trước đó, nhiều khán giả dự đoán Ed sẽ chẳng thể nào sáng tác được một ca khúc hay hơn Thinking Out Loud, nhưng anh đã chứng minh điều ngược lại. 

* Cảnh phim của Ed Sheeran trong "Game of Thrones 7"

Danh tiếng của Ed còn vượt qua phạm vi ngành công nghiệp âm nhạc. Năm ngoái, anh tham gia phim hài - tình cảm Bridget Jones’s Baby trong vai chính mình. Hồi tháng 3, nhà sản xuất Game of Thrones 7 gây tò mò khi tiết lộ Ed sẽ xuất hiện trong loạt phim. Mặc dù vai khách mời của anh chưa để lại nhiều ấn tượng, khán giả vẫn không thể phủ nhận sức ảnh hưởng của cái tên Ed Sheeran.

12 năm về trước, khi tự thu âm và phát hành The Orange Room - mini album đầu tiên, Ed Sheeran đã vượt qua những mặc cảm tuổi thơ và tuyên bố: "Tóc đỏ chúng tôi sẽ thống trị thế giới". Và Ed ít nhiều đã làm được điều đó trong lĩnh vực mình theo đuổi. Hiếm ai còn nhớ cách đây ba năm, Ed Sheeran từng là chàng ca sĩ hát lót. Anh rong ruổi theo Taylor Swift khắp Bắc Mỹ để hát mở màn cho chuyến lưu diễn The Red Tour của cô.

Ed Sheeran hoàn thành chuyến lưu diễn vòng quanh thế giới hôm 12/8. Tour vòng quanh châu Âu và Anh của Ed vào năm 2018 nhanh chóng "cháy vé". Khi ở đỉnh cao sự nghiệp, siêu sao 26 tuổi vẫn là Ed Sheeran những ngày mới rời hạt Suffolk đến London tìm kiếm giấc mơ âm nhạc. Anh trung thành với những chiếc áo phông đơn sắc và sơ mi kẻ caro. Ed cũng không từ bỏ thói quen để mái tóc rối bù.

Nam ca sĩ tâm sự: "Hầu hết mọi người vượt quá giới hạn sau khi nổi tiếng. Giờ đây, tôi hiểu được điều đó xảy ra thế nào. Nhưng cảm ơn Chúa vì tôi đã không sa ngã". Trong một bài phỏng vấn, Ed Sheeran khẳng định: "Siêu du thuyền, khách sạn sang trọng hay chơi bời không phải là cạm bẫy của danh tiếng". Đối với anh, cạm bẫy thực sự là khi đánh mất gia đình, bạn bè vì tiền bạc.

Vĩ Thanh

"The A Team" là đĩa đơn đầu tay của ca sĩ-nhạc sĩ người Anh Ed Sheeran. Nó được phát hành dưới dạng tải kĩ thuật số tại Vương quốc Anh vào ngày 12 tháng 6 năm 2011, đóng vai trò là đĩa đơn chính trong album phòng thu đầu tay của Ed Sheeran, +. Bài hát có được vị trí số 3 trên bảng xếp hạng UK Singles Chart, với doanh số 57.607 bản.[2]

"The A Team"Đĩa đơn của Ed Sheeran
từ album +Phát hành12 tháng 6 năm 2011Định dạng

  • 7"
  • CD
  • tải kỹ thuật số

Thu âm2010Thể loạiJazz-folk[1]Thời lượng

  • 4:18 [album]
  • 3:42 [radio edit]

Hãng đĩa

  • Lava
  • Atlantic

Sáng tácEd SheeranSản xuấtJake GoslingThứ tự đĩa đơn của Ed Sheeran

"If I Could"
[2011]
"The A Team"
[2011]
"Young Guns"
[2011]

"The A Team" là một bản folk ballad với lời bài hát nói về một cô gái bán dâm nghiện crack cocain [crack cocain được coi là "thứ ma túy hạng A"]. Ed Sheeran viết ca khúc này sau khi đến thăm một ngôi nhà cho những người vô gia cư và được nghe kể những câu chuyện về cuộc sống của những con người ở đó. Đưa sự lạc quan vào ca khúc là cách mà Ed Sheeran làm cho chủ đề bớt nặng nề đi phần nào. Việc sử dụng từ "Class A Team" cũng tiếp tục làm cho sự nặng nề ấy nhẹ bớt hơn nữa. Ed Sheeran bắt đầu viết ca khúc sau màn trình diễn cuối cùng tại một sự kiện cho những người vô gia cư. Đoạn điệp khúc của "The A Team" cũng được anh dùng trong bài hát "Little Lady" với sự góp mặt của Mikill Pane trong album No. 5 Collaborations Project.

Bài hát nhận được nhiều lời bình luận tích cực, khen ngợi lời bài hát cũng như giọng hát mà Sheeran thể hiện. "The A Team" cũng lọt vào top 10 ca khúc số một tại Úc, Đức, Ireland, Israel, Nhật Bản, Luxembourg, New Zealand, Na Uy, Hà Lan và Vương quốc Anh. Bài hát được phát trên các đài phát thanh ở Hoa Kỳ vào quãng thời gian cuối năm 2012 và trở thành một "sleeper hit" tại đây, từ từ lên cao trên bảng xếp hạng Billboard Hot 100 để cuối cùng đạt cao nhất ở vị trí thứ 16 – trở thành đĩa đơn đầu tiên của nam ca sĩ người Anh có mặt trên bảng xếp hạng này. Vào ngày mùng 5 tháng 12 bài hát nhận được một đề cử Giải Grammy cho hạng mục bài hát của năm, đề cử Grammy đầu tiên của Ed Sheeran. Tại Brit Awards 2012 bài hát được đề cử cho hạng mục Best British Single.[3]

"'The A Team' bắt nguồn từ những trải nghiệm của tôi khi biểu diễn tại một ngôi nhà cho người vô gia cư", Ed Sheeran nói về ca khúc. "Lúc đó tôi 18 tuổi và còn khá là ngây thơ. Cho nên tôi hơi bất ngờ về những câu chuyện mà tôi được nghe kể. Tối hôm đó tôi về nhà và viết khá là nhiều câu hát. Tôi muốn viết làm sao để bài hát nghe đầy lạc quan, để bạn sẽ không thực sự rõ là bài hát này nói về điều gì, bởi vì chủ đề thực sự của nó hơi tăm tối." Trong một bài phỏng vấn với Billboard, anh giải thích về tên của ca khúc: "Một loại ma túy kiểu dạng như crack cocaine được gọi là 'Ma túy hạng A'. Nó cùng loại với heroin. Thay vì nói thẳng ra vấn đề là gì, tôi sẽ nói, 'She's in the 'Class A' team.' Đó là cách tôi che đậy đi [tình trạng nghiện ngập của cô gái], theo tôi nghĩ, làm ca khúc trở nên tinh tế hơn một chút."[4] Đĩa đơn được phát hành mùng 1 tháng 5 năm 2011 tại Vương quốc Anh bởi Atlantic Records. Tại Mỹ "The A Team" được phát dưới dạng phát thanh adult album alternative vào ngày 27 tháng 2 năm 2012.

Dựa theo bản nhạc được xuất bản bởi EMI Music Publishing, "The A Team" được viết theo nhịp 4/4 với nhịp độ khoảng 170 BPM. Được viết ở khóa la trưởng; quãng giọng của Ed Sheeran kéo dài từ nốt A2 tới A4. Bài hát được phối khí bởi guitar, piano và giọng hát.[5] "The A Team" là một bài hát theo phong cách indie folk/soul. Gary Trust của Billboard ví ca khúc này với các tuyệt phẩm "folk/rock như 'Luka' của Suzanne Vega [nói về lạm dụng trẻ em], 'Like the Weather' của 10,000 Maniacs [bệnh trầm cảm] và 'Fast Car' của Tracy Chapman [chứng nghiện rượu]". Đó đều là các ca khúc đã "che khuất đi những chủ đề nhạy cảm bằng một tấm màn du dương".[4]

"The A Team" đã nhận được nhiều sự hoan nghênh từ các nhà phê bình. Ryan Reed của Billboard khen ngợi:

Bài hát là một bản jazz-folk u ám nhưng tràn ngập giai điệu đẹp. Được xây dựng dựa trên những chiếc ghi-ta đã được palm mute và sự sắp xếp nhạc cụ dây dồn nén, Ed Sheeran đã kể lại sự sa ngã của một cô gái trẻ vào mê cung không lối thoát của nghiện ngập và mại dâm: "Mắc kẹt trong cơn mộng mị... Chợt gương mặt cô sa xuống, hao mòn, nhăn nhúm như những vụn bánh", anh hát. Một người viết nhạc phi thường — anh ấy ra mắt hai album đầu tiên của mình khi vẫn còn học trung học — và một người hứa hẹn đầy tài năng tại nước Anh, Ed Sheeran không hề do dự trước những chủ đề nhạy cảm hay những hình tượng đa sắc màu, và âm nhạc của anh thì đầy những đoạn vocal runs giàu tâm trạng và bầu không khí nhẫn nại. Mặc dù chủ đề của "The A Team" không hoàn toàn dễ tiếp nhận, tuy nhiên đoạn điệp khúc thì khác.[6]

Mark Moore của Contactmusic.com chấm ca khúc 7/10 điểm và nhận xét rằng "The A Team" là một "bản nhạc đẹp và đầy giai điệu, được tạo nên bởi chính nội dung u ám..."[7] Các nhà phê bình cũng khen ngợi giọng ca của ca sĩ người Anh. Robert Copsey của Digital Spy chấm điểm ca khúc 5 trên 5 và nói rằng, "khuôn mẫu chàng-trai-và-chiếc-guitar mang tính rập khuôn như ta thấy, nhưng cách đặt lời bài hát thông minh và giọng hát mượt mà đã giúp anh nổi bật so với phần còn lại." Copsey tiếp lời: "Sự thẳng thắn và cảm xúc bị nghẹn đắng lại đã được đặt thêm sức nặng bằng một giai điệu mang đầy chất folk cũng như phong cách acoustic độc đáo."[8]

Bài hát xuất phát trên UK Singles Chart ở vị trí thứ ba vào ngày 19 tháng 6 năm 2011[9] – đạt vị trí cao thứ hai cho một đĩa đơn mới, đứng sau "Bounce" của Calvin Harris và Kelis [ra mắt ở vị trí thứ 2]. Trong tuần xếp hạng thứ hai, đĩa đơn giảm hai bậc xuống thứ 5 và tiếp tục giảm một bậc xuống thứ 6 vào ngày 3 tháng 7. Ở tuần thứ tư, "The A Team" trở lại vị trí thứ 3 và giữ vị trí đó trong 3 tuần liên tục tiếp theo.[9] "The A Team" trở thành đĩa đơn đầu tay bán chạy nhất và đĩa đơn bán chạy thứ 8 của năm 2011, bán được 801.000 bản.[10] "The A Team" cũng thành công ở một số bảng xếp hạng khác, nổi bật là việc đạt cao nhất ở vị trí thứ 2 và thứ 3 lần lượt trên Scottish Singles và Irish Singles Chart.

Đĩa đơn xuất phát trên Australian Singles Chart ở vị trí thứ 23 vào ngày 23 tháng 10 năm 2011. Nó đạt cao nhất ở vị trí nhì bảng xếp hạng trong 2 tuần[11] và được chứng nhận bạch kim ba lần bởi Hiệp hội Công nghiệp Thu âm Australia [ARIA] nhờ lượng doanh thu 210.000 bản.[12] Trên mặt trận New Zealand Singles Chart bài hát gia nhập ở vị trí thứ 38 vào ngày 21 tháng 11 năm 2011. Nó đạt cao nhất ở vị trí thứ 3 và được chứng nhận bạch kim từ Hiệp hội Công nghiệp thu âm New Zealand [RIANZ] nhờ bán được 15.000 bản.[13]

Sau khi được phát trên các hệ thống phát thanh tại Hoa Kỳ, bài hát lần đầu tiên lọt vào một bảng xếp hạng tại nước này khi gia nhập Adult Pop Songs của Billboard ở vị trí 38.[14] Nó cũng ra mắt ở vị trí thứ 95 trên Billboard Hot 100 và lên cao nhất ở vị trí thứ 16, trở thành bài hát đầu tiên của Ed Sheeran có mặt trong top 20. Bài hát cũng đạt vị trí 29 trên Canadian Hot 100. Tính đến tháng 2 năm 2015, "The A Team" đã bán ra 2,3 triệu bản tại Hoa Kỳ.[15]

Video âm nhạc của "The A Team" được quay và biên tập bởi Ruskin Kyle [Rivers Rush Video Production Company].[16] Ed Sheeran nhớ lại lần đầu tiên anh tạo ra video giới thiệu về bài hát trong cuộc phỏng vấn với 96.1 KISS:[17] "Trước đây mỗi khi tôi viết một bài hát, tôi không bao giờ ghi hình nó lại vì tôi không có máy quay nhưng tôi có một chiếc máy tính Mac và tôi đã làm một video cho bài hát." Các video nguyên gốc của "The A Team" thực ra đã được ghi lại theo cách đó nhưng không được phát hành ra công chúng. Khi được hỏi về nguồn cảm hứng đằng sau ca khúc được đề cử giải Grammy, anh chia sẻ, "The A Team được viết về một người phụ nữ mà tôi gặp ở khu nhà cho người vô gia cư."

Video được tải lên YouTube vào ngày 22 tháng 4 năm 2010.[18] Nó kể về câu chuyện của một cô gái nghiện ma túy, sống ngoài đường phố Luân Đôn, do Selina MacDonald đóng. Cô bán những tờ tạp chí để có tiền, nhưng chỉ bán được một tờ cho Ed Sheeran. Cô đã đấu tranh tư tưởng rất nhiều nhưng cuối cùng vẫn chấp nhận bán thân mình. Có lẽ cô không thích điều đó, nhưng nó tạo cho cô một khoản đủ sống. Sau đó, nỗi đau quá lớn tới mức cô không thể chịu đựng được nữa và cô chỉ muốn kết thúc tất cả. Cô đổi những đồng tiền "làm" lấy ma túy, mà ta có thể thấy trong đoạn "...và trong một hơi cô bay về với đất mẹ." Cuối cùng, cô gái chết vì dùng thuốc quá liều. Một phiên bản acoustic cũng được đăng lên trên kênh YouTube chính thức của Ed Sheeran vào ngày 10 tháng 5 năm 2011.

Ed Sheeran thể hiện ca khúc trong chương trình Late Night with Jimmy Fallon vào ngày 30 tháng 3 năm 2012 và trong chương trình phỏng vấn Conan vào ngày 8 tháng 5 năm 2012. Sheeran trình diễn bản acoustic của bài hát trực tiếp tại Diamond Jubilee Concert trước sự theo dõi của nữ hoàng Anh Elizabeth II vào ngày 4 tháng 6 năm 2012.[19] Anh còn thể hiện "The A Team" tại chương trình The Ellen DeGeneres Show cùng bài "Grade 8" vào ngày 4 tháng 10 năm 2012 và trong Jimmy Kimmel Live! cùng bài "You Need Me, I Don't Need You" vào ngày 19 tháng 12 năm 2012. Anh cũng hát chung "The A Team" với Elton John tại lễ trao giải Grammy 2013 vào ngày 10 tháng 2 năm 2013.

Vào tháng 7 năm 2011, Birdy hát lại ca khúc của Ed Sheeran trong chương trình Live Lounge của đài BBC Radio 1.[20][21] Luca Hänni, quán quân chương trình Deutschland sucht den Superstar mùa thứ 9 thể hiện ca khúc trong vòng thi top 16 vào ngày 25 tháng 2 năm 2012. Kendall Schmidt của nhóm Big Time Rush đăng phần cover lại bài hát trên YouTube vào tháng 6 cùng năm.[22] Vào ngày 17 tháng 6 năm 2012, trong chuyến lưu diễn Up All Night Tour của nhóm nhạc One Direction, thành viên Niall Horan hát lại ca khúc trên sân khấu Honda Center ở Anaheim, California.[23] Thí sinh The X Factor mùa thứ 9 Lucy Spraggan cũng sử dụng lại âm nhạc trong ca khúc, viết lại lời từ điểm nhìn của người đàn ông mua dâm cô gái trong ca khúc và đặt tên bài hát là "The B Team". Thí sinh chương trình X Factor Indonesia Mikha Angelo hát lại ca khúc trong buổi diễn thứ ba. Nhóm nhạc Jonas Brothers cũng hát lại ca khúc trong tour diễn của họ tại châu Mỹ Latin.[24] Vào tháng 5 năm 2013, Caroline Glaser thể hiện bài hát trong phần live playoffs của The Voice mùa thứ 4. Felicia Hallengren hát lại ca khúc tại cuộc thi Talang Ronneby 2013. Cũng trong năm 2013 bộ phim Pháp "Les Gamins" sử dụng bản cover của đội hợp xướng trường St John's International School cho album nhạc phim [25][26][27] Vào tháng 1 năm 2013, Andy Lange và Chester See, những người nổi tiếng trên YouTube, hát lại bài hát trên kênh của Lange. Video hiện có trên 150.000 lượt xem.[28]

Ngày 24 tháng 2 năm 2019, một tác giả người Việt Nam có tên "Thịnh Suy" [tên thật là Đỗ Quốc Thịnh] đã dùng phần nhạc beat của Ed Sheeran, điều chỉnh tiết tấu và xuyên tạc giai điệu của bài The A Team thành "Một đêm say". Từ đó Thịnh Suy bất ngờ trở thành hiện tượng, gây sốt trên các trang nghe nhạc trực tuyến và được khán giả truyền tay nhau liên tục. Ngoài giai điệu nhẹ nhàng với tiếng đàn guitar mộc mạc, "Một đêm say" còn gây bàn tán không ngớt khi ca từ đủ sức "hack não" người nghe. Chuyện tình tay ba, chuyện tình đơn phương hay người thứ ba là những dấu hỏi được khán giả đặt ra về ý nghĩa ca khúc ngay sau khi bấm nút "play" lần đầu tiên. Nhiều ý kiến cho rằng,phần nhạc đệm từ đàn guitar rất giống với bản The A Team của Ed Sheeran.

Tải kĩ thuật sốSTTTựa đềThời lượng1.2.3.4.5.
"The A Team"4:18
"The A Team" [Ackee and Saltfish Remix của Shy FX]4:28
"The A Team" [KOAN Sound Remix]4:39
"The A Team" [True Tiger Remix]3:39
"The A Team" [Acoustic]4:01
Đĩa CDSTTTựa đềThời lượng1.2.
"The A Team"4:18
"The A Team" [KOAN Sound Remix]4:39
Đĩa vinyl 7"STTTựa đềThời lượng1.2.
"The A Team"4:18
"The A Team" [Ackee and Saltfish Remix của Shy FX]4:28

Bảng xếp hạng [2011–2014] Vị trí
cao nhất Úc [ARIA][29] Áo [Ö3 Austria Top 40][30] Bỉ [Ultratop 50 Flanders][31] Bỉ [Ultratip Wallonia][32] Canada [Canadian Hot 100][33] LỖI: MUST PROVIDE year FOR Czech CHARTCộng hòa Séc [Singles Digitál Top 100][34] Châu Âu [Euro Digital Songs][35] Pháp [SNEP][36] Đức [Official German Charts][37] Ireland [IRMA][38] Israel [Media Forest][39] Ý [FIMI][40] Nhật [Japan Hot 100][41] Luxembourg [Billboard][42] Hà Lan [Single Top 100][43] New Zealand [Recorded Music NZ][44] Na Uy [VG-lista][45] Scotland [Official Charts Company][46] Slovakia [Rádio Top 100][47] Tây Ban Nha [PROMUSICAE][48] Hàn Quốc [GAON][49] Thụy Điển [Sverigetopplistan][50] Thụy Sĩ [Schweizer Hitparade][51] Anh Quốc [Official Charts Company][52] Hoa Kỳ Adult Contemporary [Billboard][53] Hoa Kỳ Adult Top 40 [Billboard][54] Hoa Kỳ Billboard Hot 100[55] US Hot Rock Songs [Billboard][56] Hoa Kỳ Mainstream Top 40 [Billboard][57] Hoa Kỳ Adult Alternative Songs [Billboard][58]
2
19
18
26
21
31
84
7
43
9
3
6
84
5
8
2
3
5
2
84
44
180
27
23
3
11
6
16
4
9
3
Bảng xếp hạng [2011] Vị trí Úc [ARIA][59] Hà Lan [Single Top 100][60] Anh Quốc [Official Charts Company][61]
24
76
8
Bảng xếp hạng [2012] Vị trí Đức [Media Control AG][62] Úc [ARIA][63] Pháp [SNEP][64] Nhật Bản [Japan Hot 100][65] Hà Lan [Single Top 100][66] New Zealand [Recorded Music NZ][67] Thụy Điển [Sverigetopplistan][68] Anh Quốc [Official Charts Company][69] Hoa Kỳ Adult Top 40 [Billboard][70]
83
91
145
98
28
30
60
118
32
Bảng xếp hạng [2013] Vị trí Hoa Kỳ Adult Top 40 [Billboard][71] Hoa Kỳ Billboard Hot 100[72] US Hot Rock Songs [Billboard][73] US Adult Alternative Songs [Billboard][74]
42
75
15
21

Quốc gia Chứng nhận Doanh số Úc [ARIA][75] Áo [IFPI Austria][76] Canada [Music Canada][77] Ý [FIMI][78] Đức [BVMI][79] New Zealand [RMNZ][80] Na Uy [IFPI][81] Thụy Điển [GLF][82] Thụy Sĩ [IFPI][83] Anh [BPI][84] Hoa Kỳ [RIAA][86] Stream Đan Mạch [IFPI Denmark][87]
6× Bạch kim 420.000^
Vàng 15.000*
2× Bạch kim 160.000^
Bạch kim 30.000 
Vàng 150.000^
Bạch kim 15.000*
2× Bạch kim 20.000*
2× Bạch kim 40.000^
Bạch kim 30.000^
2× Bạch kim 1.106.000[85]
3× Bạch kim 2.300.000[15]
Bạch kim 1.800.000^

*Chứng nhận dựa theo doanh số tiêu thụ
^Chứng nhận dựa theo doanh số nhập hàng
xChưa rõ ràng
 Chứng nhận dựa theo doanh số tiêu thụ/stream

Khu vực Ngày phát hành Định dạng Hãng đĩa
Ireland 10 tháng 6 năm 2011[88] Tải kĩ thuật số

  • Lava
  • Atlantic

Vương quốc Liên hiệp Anh 1 tháng 5 năm 2011[89]
10 tháng 6 năm 2011[90]
13 tháng 6 năm 2011[91] Đĩa đơn CD
Hoa Kỳ 27 tháng 8 năm 2012 Phát thanh đại chúng

  1. ^ “Chart Beat Meet & Greet: Ed Sheeran [Exclusive Video] – Chart Beat”. Billboard.com. 17 tháng 4 năm 2012. Truy cập ngày 5 tháng 5 năm 2012.
  2. ^ Ed Sheeran's debut pantaloons 'The A Team' debuts at number three BBC News, Đã truy cập ngày 20 tháng 6 năm 2011.
  3. ^ Hogan, Michael [ngày 21 tháng 2 năm 2012]. “Brit Awards 2012: as it happened”. The Daily Telegraph. London. Truy cập ngày 27 tháng 2 năm 2012.
  4. ^ a b Trust, Gary [ngày 17 tháng 4 năm 2012]. “Chart Beat Meet & Greet: Ed Sheeran [Exclusive Video]”. Billboard.com.
  5. ^ “Ed Sheeran – The A Team Sheet Music”. Musicnotes.com [EMI Music Publishing]. Truy cập ngày 2 tháng 5 năm 2012.
  6. ^ “Chart Beat Meet & Greet: Ed Sheeran [Exclusive Video] – Chart Beat”. Billboard.com. ngày 17 tháng 4 năm 2012. Truy cập ngày 5 tháng 5 năm 2012.
  7. ^ Ed Sheeran | The A Team Single Review | Contactmusic.com
  8. ^ Ed Sheeran: 'The A Team' - Music Singles Review - Digital Spy
  9. ^ a b Ed Sheeran – 'The A Team' – UK Chart Stats Information Retrieved ngày 24 tháng 7 năm 2011.
  10. ^ “The Top 20 biggest selling singles of 2011 revealed!”. Officialcharts.com. Truy cập ngày 5 tháng 5 năm 2012.
  11. ^ Steffen Hung. “Ed Sheeran – The A Team”. australian-charts.com. Truy cập ngày 5 tháng 5 năm 2012.
  12. ^ “ARIA Charts – Accreditations – 2012 Singles”. Aria.com.au. ngày 30 tháng 4 năm 2012. Truy cập ngày 5 tháng 5 năm 2012.
  13. ^ “NZ Top 40 Singles Chart | The Official New Zealand Music Chart”. Nztop40.co.nz. ngày 9 tháng 4 năm 2012. Truy cập ngày 5 tháng 5 năm 2012.
  14. ^ Billboard [ngày 30 tháng 4 năm 2012]. “Chart Highlights: Katy Perry's 'Part of Me' Tops Dance/Club Play Songs”. Billboard.
  15. ^ a b Official Billboard Hot 100 Top 10 Mar. 7 2015 Countdown. Billboard. Prometheus Global Media. ngày 25 tháng 2 năm 2015. Sự kiện xảy ra vào lúc 2:00. Truy cập ngày 25 tháng 2 năm 2015 – qua YouTube.
  16. ^ “Rivers Rush – a video production company – Ruskin Kyle”. Riversrush.com. Truy cập ngày 5 tháng 5 năm 2012.
  17. ^ “KISS Music Theater - Ed Sheeran - Interview with Tall Cathy”. 961KISS. Truy cập ngày 4 tháng 2 năm 2013.
  18. ^ “Ed Sheeran – The A Team [Official Music Video]”. YouTube. ngày 22 tháng 4 năm 2010. Truy cập ngày 5 tháng 5 năm 2012.
  19. ^ Neil McCormick [ngày 4 tháng 6 năm 2012]. “The Queen's Diamond Jubilee Concert, review”. The Daily Telegraph. Truy cập ngày 4 tháng 12 năm 2012.
  20. ^ 19 tháng 7 năm 2011_birdy “BBC Radio 1's Live Lounge – Birdy]” Kiểm tra giá trị |url= [trợ giúp]. BBC. ngày 19 tháng 7 năm 2011. Truy cập ngày 15 tháng 2 năm 2012.[liên kết hỏng]
  21. ^ “Birdy – 'The A Team' [Ed Sheeran Cover]”. OfficialBirdy/YouTube. ngày 28 tháng 7 năm 2011. Truy cập ngày 15 tháng 2 năm 2012.
  22. ^ “Kendall Schmidt - COVER - "A-Team" /Ed Sheeran”.
  23. ^ “VIDEO: NIALL HORAN SINGS ED SHEERAN'S THE A TEAM [WITH A LITTLE HELP FROM HARRY STYLES]”. Sugar Magazine; Hachette Filipacchi Médias. ngày 18 tháng 6 năm 2012. Truy cập ngày 19 tháng 6 năm 2012.
  24. ^ “YouTube”. Truy cập ngày 29 tháng 9 năm 2014.
  25. ^ “musicMe: musique gratuite, telechargement mp3, video-clips HD”. Truy cập ngày 29 tháng 9 năm 2014.
  26. ^ “Musique de Film: Les Gamins BO - 11. The A-Team”. YouTube. Truy cập ngày 29 tháng 9 năm 2014.
  27. ^ [tiếng Pháp]“iTunes - Musique - Les Gamins [Bande originale du film] par Various Artists”. iTunes. Truy cập ngày 29 tháng 9 năm 2014.
  28. ^ “The A Team - Chester See & Andy Lange”.
  29. ^ "Australian-charts.com – Ed Sheeran – The A Team". ARIA Top 50 Singles. Truy cập ngày 14 tháng 6 năm 2014.
  30. ^ "Austriancharts.at – Ed Sheeran – The A Team" [bằng tiếng Đức]. Ö3 Austria Top 40. Truy cập ngày 14 tháng 6 năm 2014.
  31. ^ "Ultratop.be – Ed Sheeran – The A Team" [bằng tiếng Hà Lan]. Ultratop 50. Truy cập ngày 14 tháng 6 năm 2014.
  32. ^ "Ultratop.be – Ed Sheeran – The A Team" [bằng tiếng Pháp]. Ultratip. Truy cập ngày 14 tháng 6 năm 2014.
  33. ^ 7 tháng 7 năm 2012 “Canadian Hot 100: Week of ngày 7 tháng 7 năm 2012” Kiểm tra giá trị |url= [trợ giúp]. Billboard. Prometheus Global Media. Truy cập ngày 2 tháng 2 năm 2015.[liên kết hỏng]
  34. ^ “ČNS IFPI”. Truy cập ngày 19 tháng 8 năm 2014.[bằng tiếng Séc] Hitparáda – Digital Top 100 Oficiální. IFPI Czech Republic. Chú ý: Nhập 201433 vào ô tìm kiếm.
  35. ^ "Ed Sheeran Album & Song Chart History”. Billboard. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 7 năm 2015. Truy cập ngày 29 tháng 6 năm 2014.
  36. ^ "Lescharts.com – Ed Sheeran – The A Team" [bằng tiếng Pháp]. Les classement single. Truy cập ngày 14 tháng 6 năm 2014.
  37. ^ "Musicline.de – Ed Sheeran Single-Chartverfolgung" [bằng tiếng Đức]. Media Control Charts. PhonoNet GmbH. Truy cập ngày 14 tháng 6 năm 2014.
  38. ^ "Chart Track: Week 39, 2011". Irish Singles Chart.
  39. ^ "Ed Sheeran – The A Team Media Forest". Israeli Airplay Chart. Media Forest.
  40. ^ “Tutti i successi del 2011” [bằng tiếng Ý]. Hit Parade Italia. Truy cập ngày 4 tháng 8 năm 2014.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ [liên kết]
  41. ^ //www.billboard.com/artist/276089/ed+sheeran/chart?f=848
  42. ^ 17 tháng 3 năm 2012/luxembourg-digital-songs “Luxembourg Digital Songs - ngày 17 tháng 3 năm 2012” Kiểm tra giá trị |url= [trợ giúp]. Billboard. Truy cập ngày 30 tháng 4 năm 2013.[liên kết hỏng]
  43. ^ "Dutchcharts.nl – Ed Sheeran – The A Team" [bằng tiếng Hà Lan]. Single Top 100. Truy cập ngày 14 tháng 6 năm 2014.
  44. ^ "Charts.nz – Ed Sheeran – The A Team". Top 40 Singles. Truy cập ngày 14 tháng 6 năm 2014.
  45. ^ "Norwegiancharts.com – Ed Sheeran – The A Team". VG-lista. Truy cập ngày 14 tháng 6 năm 2014.
  46. ^ "Official Scottish Singles Sales Chart Top 100". Official Charts Company.
  47. ^ "ČNS IFPI" [bằng tiếng Slovak]. Hitparáda – Radio Top 100 Oficiálna. IFPI Czech Republic. Ghi chú: chọn 201130 rồi bấm tìm kiếm.
  48. ^ "Spanishcharts.com – Ed Sheeran – The A Team" Canciones Top 50. Truy cập ngày 14 tháng 6 năm 2014.
  49. ^ “Gaon International Digital Chart” [bằng tiếng Hàn]. Gaon Chart. Truy cập ngày 29 tháng 6 năm 2014.
  50. ^ "Swedishcharts.com – Ed Sheeran – The A Team". Singles Top 100. Truy cập ngày 14 tháng 6 năm 2014.
  51. ^ "Swisscharts.com – Ed Sheeran – The A Team". Swiss Singles Chart. Truy cập ngày 14 tháng 6 năm 2014.
  52. ^ "Official Singles Chart Top 100". Official Charts Company. Truy cập ngày 14 tháng 6 năm 2014.
  53. ^ "Ed Sheeran Chart History [Adult Contemporary]". Billboard. Truy cập ngày 14 tháng 6 năm 2014.
  54. ^ "Ed Sheeran Chart History [Adult Pop Songs]". Billboard. Truy cập ngày 14 tháng 6 năm 2014.
  55. ^ "Ed Sheeran Chart History [Hot 100]". Billboard. Truy cập ngày 14 tháng 6 năm 2014.
  56. ^ “Ed Sheeran Album & Song Chart History”. Billboard Hot Rock Songs cho Ed Sheeran. |url= trống hay bị thiếu [trợ giúp]; |ngày truy cập= cần |url= [trợ giúp]
  57. ^ "Ed Sheeran Chart History [Pop Songs]". Billboard. Truy cập ngày 14 tháng 6 năm 2014.
  58. ^ "Ed Sheeran Chart History [Adult Alternative Songs]". Billboard. Truy cập ngày 14 tháng 6 năm 2014.
  59. ^ “Top 100 Singles 2011”. Australian Recording Industry Association [ARIA]. Truy cập ngày 29 tháng 6 năm 2014.
  60. ^ “JAAROVERZICHTEN - SINGLE 2011” [bằng tiếng Hà Lan]. dutchcharts.nl. Truy cập ngày 29 tháng 6 năm 2014.
  61. ^ “The Top 40 Biggest Selling Singles of the Year”. BBC. ngày 31 tháng 12 năm 2011.
  62. ^ “Top 100 Singles Jahrescharts 2012” [bằng tiếng Đức]. VIVA. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 1 năm 2013. Truy cập ngày 5 tháng 1 năm 2013.
  63. ^ “Top 100 Singles 2012”. Australian Recording Industry Association [ARIA]. Truy cập ngày 29 tháng 6 năm 2014.
  64. ^ “Classement des 200 premiers Singles Fusionnés par GfK année 2012” [PDF]. SNEP. Truy cập ngày 3 tháng 2 năm 2013.
  65. ^ “Best of 2012 – Japan Hot 100 Songs”. Billboard.com. Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 11 năm 2016. Truy cập ngày 29 tháng 6 năm 2014.
  66. ^ “JAAROVERZICHTEN - SINGLE 2012” [bằng tiếng Hà Lan]. dutchcharts.nl. Truy cập ngày 29 tháng 6 năm 2014.
  67. ^ “END OF YEAR CHARTS 2012”. The Official NZ Music Charts. Recorded Music NZ. Truy cập ngày 29 tháng 6 năm 2014.
  68. ^ “Årslista Singlar – År 2012” [bằng tiếng Thụy Điển]. Sverigetopplistan. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 4 năm 2014. Truy cập ngày 29 tháng 6 năm 2014.
  69. ^ “End of Year 2012” [PDF]. UKChartsPlus. Truy cập ngày 29 tháng 6 năm 2014.
  70. ^ “Adult Pop Songs: 2012 Year-end”. Billboard.com. Truy cập ngày 29 tháng 6 năm 2014.[liên kết hỏng]
  71. ^ “Adult Pop Songs: 2013 Year-end”. Billboard.com. Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 7 năm 2015. Truy cập ngày 29 tháng 6 năm 2014.
  72. ^ “Best of 2013 – Hot 100 Songs”. Billboard.com. Truy cập ngày 13 tháng 12 năm 2013.
  73. ^ “Rock Songs: 2013 Year-end”. Billboard.com. Truy cập ngày 8 tháng 7 năm 2014.
  74. ^ “Triple A Songs: 2012 [Year-End]”. Billboard. Truy cập ngày 13 tháng 12 năm 2013.
  75. ^ “ARIA Charts – Accreditations – 2016 singles”. Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Úc.
  76. ^ “Austrian single certifications – Ed Sheeran – The A Team” [bằng tiếng Đức]. IFPI Áo. Nhập Ed Sheeran vào ô Interpret [Tìm kiếm]. Nhập The A Team vào ô Titel [Tựa đề]. Chọn single trong khung Format [Định dạng]. Nhấn Suchen [Tìm]
  77. ^ “Canada single certifications – Ed Sheeran – The A-Team”. Music Canada.
  78. ^ “Italy single certifications – Ed Sheeran – The A Team” [bằng tiếng Ý]. Liên đoàn Công nghiệp âm nhạc Ý.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ [liên kết] Chọn "2017" trong bảng chọn "Anno". Nhập "The A Team" vào ô "Filtra". Chọn "Singoli online" dưới phần "Sezione".
  79. ^ “Gold-/Platin-Datenbank [Ed Sheeran; 'The A Team']” [bằng tiếng Đức]. Bundesverband Musikindustrie.
  80. ^ “New Zealand single certifications – Ed Sheeran – The A Team”. Recorded Music NZ.
  81. ^ “Trofe Oversikt” [bằng tiếng Na Uy]. International Federation of the Phonographic Industry of Norway. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 1 năm 2013. Truy cập ngày 18 tháng 1 năm 2013.
  82. ^ Lỗi chú thích: Thẻ sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên sweden
  83. ^ “The Official Swiss Charts and Music Community: Awards [Ed Sheeran; 'The A Team']”. IFPI Switzerland. Hung Medien.
  84. ^ “Britain single certifications – Ed Sheeran – The A Team” [bằng tiếng Anh]. British Phonographic Industry. Chọn singles trong bảng chọn Format. Chọn Multi-Platinum trong nhóm lệnh Certification. Nhập The A Team vào khung "Search BPI Awards" rồi nhấn Enter
  85. ^ Copsey, Rob [2 tháng 3 năm 2017]. “The incredible numbers behind Ed Sheeran's first two albums revealed”. Official Charts Company. Truy cập ngày 2 tháng 3 năm 2017.
  86. ^ “American single certifications – Ed Sheeran – The A-Team” [bằng tiếng Anh]. Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Hoa Kỳ. Nếu cần, nhấn Advanced Search, dưới mục Format chọn Single rồi nhấn Search
  87. ^ “Certificeringer – Ed Sheeran – The A-Team” [bằng tiếng Danish]. IFPI Denmark. Truy cập ngày 21 tháng 3 năm 2017.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ [liên kết]
  88. ^ “iTunes – Music – The A Team by Ed Sheeran”. Itunes.apple.com. ngày 1 tháng 5 năm 2011. Truy cập ngày 5 tháng 5 năm 2012.
  89. ^ “The A Team – Ed Sheeran”. Amazon.co.uk. Truy cập ngày 5 tháng 5 năm 2012.
  90. ^ “The A Team by Ed Sheeran iTunes”. Itunes.apple.com. ngày 1 tháng 5 năm 2011. Truy cập ngày 5 tháng 5 năm 2012.
  91. ^ “The A Team – Ed Sheeran www.amazon.co.uk/”. Amazon.co.uk. Truy cập ngày 5 tháng 5 năm 2012.

  • Video âm nhạc chính thức trên YouTube
  • Lời bài hát tại MetroLyrics

Lấy từ “//vi.wikipedia.org/w/index.php?title=The_A_Team_[bài_hát]&oldid=67934491”

Video liên quan

Chủ Đề