Ví dụ về tính cộng đồng và tính tự trị

Nếu tính cộng đồng là sự ứng xử trong mối quan hệ giữa các thành viên trong làng với nhau thì tính tự trị lại là sự ứng xử trong mối quan hệ giữa làng này với làng khác. Do tính cố kết cộng đồng cao khiến cho mỗi làng là một đơn vị độc lập, khép kín, co cụm lại trong không gian khá biệt lập của mỗi làng, tạo nên tính chất tự trị, khép kín như một đặc trưng nổi bật của văn hóa làng.

  • Cơ sở hình thành tính tự trị: Phương thức sản xuất nông nghiệp trồng trọt ở định cư và nền kinh tế tiểu nông tự túc tự cấp là nguyên nhân tạo nên lối sống khép kín, tự trị, hướng nội của văn hóa làng.

Biểu hiện của tính tự trị:

  • Về không gian địa lý: cư dân mỗi làng sống quần tụ trong một không gian khá biệt lập, bao quanh làng là lũy tre và cổng làng, mỗi làng như một vương quốc nhỏ khép kín, làng nào làng ấy biết.
  • Về kinh tế: mỗi làng tồn tại như một đơn vị kinh tế độc lập, có khả năng tự túc tự cấp nên không có nhu cầu quan hệ giao thương với bên ngoài.
  • Về mặt hành chính: mỗi làng có một đơn vị hành chính tự quản độc lập, có vai trò và chức năng giải quyết mọi việc trong làng. Bộ máy hành chính của mỗi làng gồm: Hội đồng kì mục [có chức năng như bộ phận lập pháp], lý dịch [có chức năng như bộ phận hành pháp], lệ làng – hương ước là luật lệ của làng.
  • Về tình cảm: các thành viên trong làng đều có quan hệ họ hàng nên quan hệ giao lưu tình cảm cũng tự đầy đủ, khép kín trong phạm vi làng.
  • Về tín ngưỡng: mỗi làng đều có thành hoàng là vị thần bảo trợ cho dân làng, có hội hè, đình đám riêng của mỗi làng.

Sự độc lập về không gian địa lí, về kinh tế, về bộ máy hành chính, về tình cảm, phong tục, tín ngưỡng đã khiến cho mỗi làng tồn tại như một vương quốc nhỏ, khép kín khá biệt lập với làng khác và cũng thể hiện chức năng tự quản trong quan hệ với nhà nước.

  • Tạo nên ý thức độc lập, tự chủ.
  • Tinh thần tự lực, tự cường, đức tính cần cù, chịu khó, tiết kiệm.

Tác động tiêu cực:

  • Tính tự trị làng xã là cơ sỡ hình thành tư tưởng tiểu nông tư hữu, ích kỉ.
  • Tư tưởng bè phái, địa phương cục bộ, bảo thủ.
  • Tính gia trưởng, tôn ti, lối sống kiểu gia đình chủ nghĩa.
  • Tính tự trị của làng xã tạo nên lối tư duy hướng nội, bảo thủ, trí tuệ, tâm lí không thích sự thay đổi.

Việc tổ chức nông thôn đồng thời theo nhiều nguyên tắc khác nhau tạo nên tính cộng đồng làng xã. Tính cộng đồng là sự liên kết các thành viên trong làng xã lại với nhau, mỗi người đều hướng tới những người khác - nó là đặc trưng dương tính, hướng ngoại. Sản phẩm của tính cộng đồng là một tập thể làng xã mang tính tự trị: làng nào biết làng ấy, các làng tồn tại khá biệt lập với nhau và phần nào độc lập với triều đình phong kiến. Tính cộng đồng và tính tự trị chính là hai đặc trưng bao trùm nhất, quan trọng nhất của làng xã. Chúng tồn tại song song như hai mặt của một vấn đề.

+] Biểu tượng truyền thống của tính cộng đồng là sân đình - bến nước - cây đa. 

- Làng nào cũng có một CÁI ĐÌNH. Đó là biểu tượng tập trung nhất của làng về mọi phương diện: trung tâm hành chính, trung tâm văn hoá, trung tâm về mặt tôn giáo và trung tâm về mặt tình cảm. 

- BẾN NƯỚC là nơi phụ nữ quần tụ lại. 

- CÂY ĐA cổ thụ mọc um tùm ở đầu làng, gốc cây có miếu thờ lúc nào cũng khói hương nghi ngút - đó là nơi hội tụ của thánh thần [Thần cây đa, ma cây gạo, cú cáo cây đề]. Cây đa, gốc cây có quán nước, còn là nơi nghỉ chân gặp gỡ của những người đi làm đồng, những khách qua đường... Nhờ khách qua đường, gốc cây đa trở thành cánh cửa sổ liên thông làng với thế giới bên ngoài. 

+] Biểu tượng truyền thống của tính tự trị là LUỸ TRE. Rặng tre bao kín quanh làng, trở thành một thứ thành luỹ kiên cố bất khả xâm phạm: đốt không cháy, trèo không được, đào đường hầm thì vướng rễ thông qua. Luỹ tre là một đặc điểm quan trọng làm cho làng xóm phương Nam khác hẳn ấp lí Trung Hoa có thành quách đắp bằng đất bao bọc.

+] Tính cộng đồng và tính tự trị là hai đặc trưng gốc rễ, chúng là nguồn gốc sản sinh ra hàng loạt ưu điểm và nhược điểm về tính cách của con người Việt Nam:

Ưu điểm  

+Tính cộng đồng  

- Do đồng nhất nên người Việt luôn sẵn sàng đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau, coi mọi người trong cộng đồng như anh em ruột trong nhà. 

- Người Việt Nam luôn có tính tập thể rất cao, hoà nhập vào cuộc sống chung. 

- Là ngọn nguồn của nếp sống dân chủ, bình đẳng, bộc lộ trong các nguyên tắc tổ chức nông thôn theo địa bàn cư trú, theo nghề nghiệp, theo giáp.

+ Tính tự trị 

- Do sự khác biệt, cơ sở của tính tự trị tạo nên tinh thần tự lập cộng đồng: mỗi người phải tự lo liệu lấy mọi việc => truyền thống cần cù. 

-Nếp sống tự cấp, tự túc: mỗi làng đáp ứng nhu cầu cho cuộc sống của mình, mỗi nhà đều trồng rau, nuôi gà, thả cá => đảm bảo nhu cầu về ăn; có bụi tre, rặng xoan, gốc mít => đảm bảo nhu cầu về ở.

Nhược điểm  

+ Tính cộng đồng 

- Ý thức về con người cá nhân bị thủ tiêu: người Việt Nam luôn hoà tan vào các mối quan hệ xã hội, giải quyết xung đột theo lối hoà cả làng. 

- Hay dựa dẫm, ỷ lại vào tập thể: "nước trôi thì bèo trôi", tình trạng cha chung không ai khóc. 

- Tư tưởng cầu an, cả nể, làm gì cũng sợ "rút dây động rừng". 

- Thói đồ kị, cào bằng, không muốn ai hơn mình. 

=> Cái tốt nhưng tốt riêng sẽ trở thành cái xấu. Ngược lại, cái xấu nhưng xấu tập thể thì trở thành cái tốt. 

=> Khái niệm giá trị trở nên hết sức tương đối. - Óc tư hữu ích kỉ: "bè ai người nấy chống, ruộng nhà ai người nấy đắp bờ".

+ Tính tự trị 

- Óc bè phái, địa phương cục bộ, làng nào biết làng ấy, chỉ lo vun vén cho địa phương mình: "trống làng nào làng ấy đánh. Thánh làng nào làng ấy thờ". 

- Óc gia trưởng - tôn ti: Tính tôn ti, sản phẩm của nguyên tắc tổ chức nông thôn theo huyết thống, tự thân nó không xấu, nhưng khi nó gắn liền với óc gia trưởng tạo nên tâm lí "quyền huynh thế phụ", áp đặt ý muốn của mình cho người khác, tạo nên tư tưởng thức bậc vô lí, thì nó trở thành một lực cản đáng sợ cho sự phát triển xã hội.

=> Tất cả những cái tốt và những cái xấu ấy cứ đi thành từng cặp và đều tồn tại ở Việt Nam, bởi lẽ tất cả đều bắt nguồn từ hai đặc trưng gốc trái ngược nhau là tính cộng đồng và tính tự trị.


1.     phân tích các đặc trưng cơ bản của nông thôn Việt Nam?

2 đặc trưng cơ bản của nông thôn Việt Nam là tính cộng đồng và tính tự trị, là 2 đặc trưng bao trùm nhất, quan trọng nhất của làng xã, chúng tồn tại song song như 2 mặt của một vấn đề

Tính cộng đồng:

* Định nghĩa:

Việc tổ chức nông thôn đồng thời theo nhiều nguyên tắc khác nhau tạo nên tính cộng đồng làng xã. Tính cộng đồng là sự liên kết các thành viên trong làng lại với nhau, mỗi người đều hướng tới những người khác – nó là đặc trưng dương tính, hướng ngoại.

* Biểu tượng:

Biểu tượng truyền thống của tính cộng đồng là sân đình, bến nước, cây đa

Làng nào cũng có một cái đình. Đó là biểu tượng tập trung nhất của làng về mọi phương diện

Trước hết, nó là một trung tâm hành chính, nơi duễn ra mọi công việc quan trọng, nơi hội họp, thu sưu thuế…

Thứ đến, đình là một trung tâm văn hóa, nơi tổ chức các cuộc hội hè, ăn uống [ do vậy mà có từ đình đám ], nơi biểu diễn chèo tuống.

Đình còn là một trung tâm về mặt tôn giáo: thế đất, hướng đình được xem là quyết định vận mệnh cả làng, đình cũng là nơi thờ thần Thành Hoàng bảo vệ cho làng.

Cuối cùng, đình là một trung tâm vế mặt tình cảm: nói đến làng, người ta nghĩ ngay tới cái đình với tất cả những tình cảm gắn bó thân thương nhất Qua đình ngã nón trông đình, Đình bao nhiêu ngói thương mình bấy nhiêu.

Do ảnh hưởng của Trung Hoa, đình từ chỗ là nơi tập trung của tất cả mọi người dần dần chỉ còn là chốn lui tới của đàn ông. Bị đẩy ra khỏi đình, phụ nữ quần tụ lại nơi BẾN NƯỚC [ ở những làng ko có sông chảy qua thì có giếng nước ]- chỗ hàng ngày chị e gặp nhau cùng rửa rau, giặt giũ, chuyện trò…

Cây đa cổ thụ mọc um tùm ở đầu làng, gốc cây có miếu thờ lúc nào cũng khói hương nghi ngút -  đó là nơi hội tụ của thánh thần: thần cây da, ma cây gạo, cú cáo cây đề; sợ thần sợ cả cây đa. Cây đa, gốc cây có quán nước, còn là nơi nghỉ chân gặp gỡ của những người đi làm đồng, những khách qua đường…nhờ khách qua đường, gốc cây đa trở thành cánh cửa sổ liên kết làng với thế giới bên ngoài.

* Biểu hiện tích cực của tính cộng đồng trong nông thôn Việt Nam

- Tinh thần đoàn kết, tương trợ

Tính cộng đồng nhấn mạnh vào sự đồng nhất. do đồng nhất[ cùng hội cùng thuyền, đồng cảnh ngộ ] cho nên người Việt Nam luôn sẵng sàng đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau, coi mọi người trong cộng đồng như anh chị e trong nhà: tay đứt ruột xót; chị ngã e nâng…

- Tính tập thể hòa đồng

Do đồng nhất [ giống nhau ] nên người Việt Nam luôn có tính tập thể rất cao, hòa đồng vào cuộc sống chung

- Nếp sống dân chủ, bình đẳng

Sự đồng nhất cũng chính là ngọn nguồn của nếp sống dân chủ - bình đẳng bookc look trong các nguyên tắc tổ chức nông thôn theo địa bàn cư trú, theo nghề nghiệp, theo giáp.

* Biểu hiện tiêu cực

- sự thủ tiêu vai trò cá nhân

Chính do đồng nhât mà ở người Việt Nam, ý thức về con người cá nhân bị thủ tiêu: người Việt Nam luôn hòa tan vào các mối quan hệ xã hội [ với người này là em, người kia là cháu, với người khác nữa là anh/ chị…], giải quyết xung đột theo lối hòa cả làng. Điều này khác hắn với truyền thống phương Tây, nơi con người được rèn luyện ý thức cá nhân ngay từ nhỏ.

- Thói dựa dẫm, ỷ lại vào tập thể:

Sự đồng nhất còn dẫn đến chỗ người Việt Nam hay dựa dẫm, ỷ lại vào tập thể: Nước trôi thì bèo trôi, Nước nổi thì bèo nổi. Tệ hơn nữa là tình trạng Cha chung không ai khóc; Lắm sãi ko ai đóng cửa chùa… Cùng với thỏi dựa dẫm, ỷ lại là tư tưởng cầu an [ an phận thủ thường] và cả nể, làm gì cũng sợ rút dây động rừng nên có việc gì thường chỉ trương đóng cửa bảo nhau…

- Thói cào bằng, đố kị

Một nhược điểm trầm trọng thứ 3 là thói cào bằng , đố kị, không muốn cho ai hơn mình [ để cho tất cả đều giông nhau, đồng nhất ] Xấu đều hơn tốt lòi, Khôn độc không bằng ngốc đàn…

Những thói xấu có nguồn gốc từ tính cộng đồng này khiến cho ở Việt Nam, khái niệm “ giá trị” trở nên hết sức tương đối [ nó khẳng định đặc điểm tính chủ quan của lối tư duy nông nghiệp]. cái tốt nhưng tốt riêng rẽ thì trở thành cái xấu, ngược lại,  cái xấu, nhưng là xấu tập thể thì trở nên bình thường: Toét mắt là tại hướng đình, Cả làng cùng toét phải mình e đâu

Tính tự trị

* Định nghĩa

Sản phẩm của tính cộng đồng là một tập thể làng xã mang tính tự trị: làng nào biết làng nấy, các làng tồn tại khá biệt lập với nhau và phần nào độc lập với triều đình phong kiến. Mỗi làng là một “vương quốc” nhỏ khép kín với luật pháp riêng [ hương ước ] và “tiểu triều đình” riêng [ trong đó hội đồng kì mục là cơ quan lập pháp, lí dịch là cơ quan hành pháp, nhiều làng tôn xưng bốn cụ cao tuổi nhất làng là tứ trụ ]. Sự biệt lập đó tạo nên truyền thống phép vua thua lệ làng. Đây là đặc trưng âm tính – hướng nội.

* Biểu tượng

Biểu tượng truyền thống của tính tự trị là lũy tre. Rặng tre bao kín làng, trở thành một thứ thành lũy kiên cốbất khả xâm phạm: đốt ko cháy, trèo ko được, đào đường hầm thì vướng rễ ko qua [ chính vì vậy mà tiếng Việt mới gọi rặng tre là lũy, thành lũy]. Lũy tre là một đặc điểm quan trọng làm cho làng xóm phương Nam khác hẳn ấp lí Trung Hoa có thành quách đắp bằng đất.

* Biểu hiện tích cực của tính tự trị trong nông thôn Việt Nam

- Tinh thần tự lập

Tính tự trị chú trọng nhấn mạnh vào sự khác biệt. Khởi đầu là sự khác biệt của cộng đồng [ làng, họ ] này so với cộng đồng [ làng, họ ] khác. Sự khác biệt – cơ sở của tính tự trị - tạo nên tinh thần tự lập cộng đồng: mỗi làng, mỗi tập thể phải tự lo liệu lấy mọi việc

- Nếp sống tự câp, tự túc, tính cần cù

Vì phải tự lo liệu, nên người Việt Nam có truyền thống cần cù, đầu tắt mặt tối, bán mặt cho đất, bán lưng cho trời. nó cũng tạo nên nếp sống tự cấp tự túc: mỗi làng tự đáp ứng mọi nhu cầu cho cuộc sống của làng mình; mỗi nhà có vường rau, chồng gà, ao cá – tự đảm bảo nhu cầu về ăn, có bụi tre, rặng xoan, gốc mít – tự đảm bảo nhu cầu về ở.

* Biểu hiện tiêu cực của tính tự trị

- Óc tư hữu, ích kỉ

Chính do nhấn mạnh vào sự khác biệt – cơ sở của tính tự trị - mà người Việt Nam có thói xấu là óc tư hữu, ích kỉ: bè ai người nấy lo; ruộng ai người nấy đắp bờ, ai có thân người nấy lo; ai có bò người nấy giữ…Óc tư hữu, ích kỉ nảy sinh ra từ tính tự trị của làng xã Việt và đã luôn bị chính người Việt phê phán: của mình thì giữ bo bo, của người thì để cho bò nó ăn; của người bò tát, của mình buộc lạt…

- Óc bè phái, địa phương cục bộ

Làng nào biết làng ấy, chỉ lo vun vén cho địa phương mình: trống làng nào làng nấy đánh, thánh làng nào làng nấy thờ; trâu ta ăn cỏ đồng ta…

- Óc gia trưởng – tôn ti:

Tính tôn ti, sản phẩm của nguyên tắc tổ chức nông thôn theo huyết thống, tự thân nó không phải là xấu, nhưng khi nó gắn liền với óc gia trưởng, tạo nên tâm lí “quyền huynh thế phụ”, áp đặt ý muốn của mình cho người khác, tạo nên tư tưởng thứ bậc vô lý: sống lâu lên lão làng, áo mặc không qua khỏi đầu, thì nó trở thành một lực cản đáng sợ cho sự phát triển xã hội, nhất là khi mà thói gia đình chủ nghĩa vẫn đang là một căn bệnh lan tràn.

Đặc điểm môi trường sống quy định đặc tính tư duy. Cả hai quy định tính cách của dân tộc. cộc sống nông nghiệp lúa nước và lối tư duy biện chứng, như ta đã biết, dẫn đến dự hình thành nguyên lý âm dương và lối ứng xử nước đôi chính là một đặc điểm tính cách của dân tộc Việt. Người Việt đồng thời vừa có tinh thần đoàn kết tương trợ lại vừa có óc tư hữu ích kỉ và thói cào bằng; vừa có tính tập thể hòa đồng lại vừa có có bè phái, địa phương; vừa có nếp sống dân chủ bình đẳng lại vừa có óc gia trưởng tôn ti, vừa có tinh thần tự lập lại vừa xem nhẹ vai trò cá nhân; vừa có tính cần cù và nếp sống tự cấp tự túc vừa có thói dựa dẫm, ỷ lại. Tất cả những cái tốt và cái xấu ấy đều đi thành từng cặp và đều tồn tại ở người Việt Nam; bởi lẻ tất cả  đều bắt nguồn từ 2 đặc trưng gốc trái ngược nhau là tính cộng đồng và tính tự trị. Tùy lúc tùy nơi mà mặt tốt hoặc mặt xấu sẽ được phát huy: khi đứng trước những khó khăn lớn, những nguy cơ đe dọa sự sống còn của cộng đồng thì cái nổi lên sẽ là tinh thần đoàn kết và tính tập thể; nhưng khi nguy cơ ấy đi qua rồi thì thói tư hữu và óc bè phái địa phương có thể nối lên.

Video liên quan

Chủ Đề