Ví dụ về thỏa thuận ấn định giá

Tiểu luận Thỏa thuận ấn định giá theo quy định của pháp luật cạnh tranh

Bài mẫu Tiểu luận: Thỏa thuận ấn định giá theo quy định của pháp luật cạnh tranh sẽ là nhân vật chính của bài viết này. Trong môi trường kinh doanh với cơ chế thị trường như ngày nay, cạnh tranh tồn tại như một quy luật khách quan, đóng vai trò là động lực thúc đẩy hoạt động sản xuất, sự phát triển kinh tế, xã hội nói chung. Tuy nhiên, điều này cũng đồng nghĩa với việc các doanh nghiệp cần phải không ngừng cố gắng, nỗ lực hết mình để có thể tồn tại và giữ vị thế của mình so với đối thủ. Việc Thỏa thuận ấn định giá theo quy định của pháp luật có thể giúp các doanh nghiệp tham gia thỏa thuận tăng, giảm hay duy trì lợi nhuận.

CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THỎA THUẬN ẤN ĐỊNH GIÁ THEO QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT

Khái niệm Thỏa thuận ấn định giá theo quy định

Mặc dù việc Thỏa thuận ấn định giá theo quy định pháp luật đã được các quốc gia nói chung và Việt Nam nói riêng coi là một trong những hành vi thỏa thuận gây tác động hạn chế cạnh tranh nghiêm trọng, đồng thời cũng được điều chỉnh trong pháp luật cạnh tranh/chống độc quyền của nhiều quốc gia. Vậy nhưng trên thực tế lại chưa có một khái niệm nào được thống nhất sử dụng chung liên quan đến thuật ngữ này.

Theo một nhận định tại Mỹ [được Tòa án cấp quận khu vực đông Michigan tuyên trong bản án đưa ra cho Công ty Nu-phonics], “một thỏa thuận giá được xác định là một thỏa thuận được hình thành với mục đích và có tác động làm tăng, giảm, ấn định, duy trì hay bình ổn mức giá của hàng hóa trong thương mại liên bang”. Đồng thời thông qua một số án lệ khác, “bản án này cũng xác định một thỏa thuận ấn định giá trực tiếp là một thỏa thuận mà ở đó giá của hàng hóa hay dịch vụ đã được các bên thống nhất và thể hiện một cách rõ ràng”. Tuy nhiên cũng theo nhận định của tòa án này, nếu như giữa các đối thủ cạnh tranh trong thị trường chỉ tồn tại sự tương đồng về giá thì điều đó chưa chắc chắn để khẳng định rằng đó là hành vi thỏa thuận ấn định giá.[1]

Tại một quốc gia khác – Singapore, Ủy ban cạnh tranh của Singapore lại đưa ra quan điểm cho rằng “thỏa thuận ấn định giá là việc các đối thủ cạnh tranh cùng thống nhất ấn định, kiểm soát hoặc duy trì mức giá bán của hàng hóa hay dịch vụ” 

Tuy nhiên, ở nước Anh, Cơ quan giám sát cạnh tranh và thị trường của Anh đã có giải thích và cho rằng thỏa thuận ấn định giá được hiểu theo một nghĩa bao quát và rộng hơn. Cụ thể “thỏa thuận ấn định giá là một khái niệm rộng bao gồm các thỏa thuận về mặt pháp lý có thể thực hiện hoặc không thực hiện được, có thể được lập thành văn bản hoặc thỏa thuận miệng, nó bao gồm cả cái được gọi là thỏa thuận quân tử” 

Trên góc độ quốc tế, một khái niệm khác về thỏa thuận ấn định giá đã được tổ chức Hợp tác kinh tế và phát triển nêu tra tại cuốn tài liệu Các thuật ngữ kinh tế, công nghiệp và cạnh tranh như sau: “Thỏa thuận ấn định giá là thỏa thuận giữa những người bán để tăng hoặc ấn định giá nhằm hạn chế cạnh tranh giữa các hãng này và thu được lợi nhuận cao hơn” 

Xét về khía cạnh ngôn ngữ học, ta thấy rằng:

Trước hết, “thỏa thuận” được hiểu là sự bàn bạc, trao đổi giữa hai hay nhiều bên nhằm đưa tới sự thống nhất về ý chí đối với các vấn đề nào đó có liên quan đến các bên. 

“Ấn định giá” được hiểu là một mức giá nhất định được đưa ra, đặt ra một cách chính thức để các bên theo đó mà áp dụng thực hiện.

Như vậy, xét trên ngôn ngữ học hay dựa trên quy định, quan điểm tại mỗi quốc gia khác nhau có được diễn đạt theo những cách thức và phạm vi khác nhau. Tuy nhiên, xét về bản chất, “thỏa thuận ấn định giá” chính là việc các bên [các doanh nghiệp đối thủ hoặc các doanh nghiệp trong chuỗi sản xuất, cung ứng dịch vụ, sản phẩm] thỏa thuận, thống nhất nhằm duy trì, tăng, giảm hoặc ấn định một mức giá đối với hàng hóa, dịch vụ trên thị trường. Theo đó, nội dung bài nghiên cứu sau đây cũng được phân tích dựa trên khái niệm này.

XEM THÊM ⇒ Dịch vụ viết thuê Tiểu luận

Những hình thức biểu hiện của thỏa thuận ấn định giá

Thỏa thuận ấn định giá theo quy định pháp luật không nhất thiết phải đảm bảo mức giá được ấn định là giống nhau hoặc phải có sự tham gia thỏa thuận của toàn bộ các đối thủ thuộc cùng một ngành cạnh tranh nhau. Theo đó, có thể có nhiều hình thức biểu hiện khác nhau đối với một thỏa thuận ấn định giá. Một số hình thức biểu hiện có thể kể đến như sau:

  • “Xây dựng và áp dụng chung mức chiết khấu.
  • Xây dựng và thống nhất mức giảm giá hay khuyến mại.
  • Thống nhất cùng giữ giá [không giảm giá].
  • Thống nhất cùng loại bỏ hoặc giảm mức chiết khấu, mức giảm giá hay khuyến mại.
  • Xây dựng và thống nhất công thức chung để tính giá.
  • Duy trì các mức giá cụ thể khác nhau giữa các dạng sản phẩm khác nhau, các kích cỡ khác nhau, hoặc duy trì khối lượng sản phẩm khác nhau.
  • Áp dụng mức phí tối thiểu hoặc thực hiện chính sách giá chung.
  • Ấn định các điều khoản về tín dụng.
  • Không thông báo về giá.
  • Trao đổi thông tin về giá.”[5]

Có thể lấy một ví dụ về hành vi thỏa thuận ấn định giá như sau: tại thành phố M, các doanh nghiệp kinh doanh vận tải hành khách bằng taxi đã cùng nhau đưa ra thỏa thuận thống nhất một mức phí sử dụng taxi như nhau. Theo đó, trước đây các doanh nghiệp này là đối thủ cạnh tranh với nhau trong lĩnh vực này, họ luôn cố gắng giảm giá thành ở mức thấp nhất đồng thời cung cấp dịch cụ tốt nhất cho khách hàng để đảm bảo tính thu hút của hãng. Tuy nhiên, thông qua thỏa thuận nêu trên, khách hàng sẽ không còn lựa chọn nào khác ngoài việc phải đi taxi với một mức phí, ngay cả khi mức phí đó có cao hơn thường lệ.

Bản chất Thỏa thuận ấn định giá theo quy định pháp luật

Để nghiên cứu và hiểu được lý do vì sao một hiện tượng, hành vi được điều chỉnh, và điều chỉnh như thế nào, điều quan trọng là cần hiểu rõ về bản chất pháp lý của hiện tượng, hành vi đó. Xem xét dưới góc độ của thỏa thuận ấn định giá, hành vi này mang bản chất pháp lý được thể hiện qua các yếu tố sau đây:

Thứ nhất, chủ thể tham gia thỏa thuận ấn định giá phải là các doanh nghiệp – những đối thủ cạnh tranh của nhau trên thị trường.

Theo đó, thỏa thuận ấn định giá được diễn ra giữa những chủ thể chính là các doanh nghiệp – đối thủ cạnh tranh của nhau trên thị trường, hay nói cách khác các doanh nghiệp tham gia thỏa thuận trên cùng một thị trường liên quan, chúng hoạt động độc lập và không phải trong mối quan hệ phụ thuộc hay công ty mẹ con hay giữa các công ty con với nhau theo quy định của luật doanh nghiệp.

Thứ hai, các doanh nghiệp đã có sự thỏa thuận nhằm ấn định giá.

Sự thỏa thuận ở đây thể hiện việc các bên bày tỏ ý chí về việc mong muốn được đạt được thỏa thuận đối với nội dung cụ thể đối với bên còn lại và được bên đó chấp nhận. Hay nói cách khác, đây chính là sự thống nhất ý chí giữa các doanh nghiệp về việc tăng, giảm, duy trì hoặc ấn định giá. Tuy nhiên, cũng cần nhìn nhận rằng sự thỏa thuận này không nhất thiết phải là trực tiếp ngồi đàm phán, thương lượng, mà có thể thông qua các phương pháp “gián tiếp” khác nhau. Chính vì vậy, cần xác định bản chất ở đây chính là sự thống nhất ý chí của các bên.

Thứ ba, mục đích của thỏa thuận nhằm hạn chế cạnh tranh.

Về nội dung, thỏa thuận ấn định giá rất đa dạng, điều này phụ thuộc vào phương án, hình thức ấn định giá mà các doanh nghiệp tham gia thỏa thuận lựa chọn. Tuy nhiên, dù thể hiện dưới hình thức nội dung nào thì mục đích cuối cùng của thỏa thuận này cũng làm triệt tiêu tính cạnh tranh giữa các doanh nghiệp tham gia thỏa thuận trên thị trường.

Thứ tư, về hình thức, các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh phải thể hiện ra bên ngoài dưới một hình thức nhất định.

Hình thức ở đây được biểu hiện dưới việc các doanh nghiệp tham gia thỏa thuận thống nhất cùng thực hiện, hành động, có thể là công khai hoặc bí mật. Ngoài ra cũng cần phải chứng minh giữa các doanh nghiệp tồn tại một văn bản trực tiếp hoặc gián tiếp đề cập đến việc ấn định giá, đó có thể là hợp đồng, bản ghi nhớ, biên bản họp, nghị quyết,…. Tuy nhiên, cũng cần làm rõ rằng việc xác định hình thức của thỏa thuận ấn định giá không phải tiêu chí bắt buộc khi đánh giá tính hợp pháp của một thỏa thuận ấn định giá.

XEM THÊM ⇒ Trọn bộ bài mẫu Tiểu luận hay 

Tác động của Thỏa thuận ấn định giá theo quy định pháp luật

Thoả thuận ấn định giá mang bản chất hạn chế, loại bỏ hoăc triệt tiêu cạnh tranh giữa các doanh nghiệp về giá. Những thỏa thuận này có thể được thực hiện ngầm hoặc công khai nhưng nhằm mục địch can thiệp vào giá các sản phẩm trên thị trường theo hình thức tăng, giảm, ấn định hoặc cố định giá.

Thông qua việc hạn chế, loại bỏ hoặc triệt tiêu cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường, thỏa thuận ấn định giá tạo ra những tác động tiêu cực nhất định đối với người tiêu dùng nói riêng và với nền kinh tế, xã hội nói chung. Cụ thể:

Một là xoá bỏ cơ hội của khách hàng được lựa chọn các mức giá cạnh tranh hợp lý trên thị trường.

Quay trở lại ví dụ đã nêu ở mục 1.2 trên, với hành vi thỏa thuận ấn định giá của các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ taxi đã khiến cho khách hàng không có sự lựa chọn mức giá nào khác so với mức giá đã được các doanh nghiệp ấn định. Theo đó, trước khi có thỏa thuận, có thể doanh nghiệp A sẽ lấy mức giá 11.000 đồng/km cho km đầu tiên và 6.000 đồng/km cho các km tiếp theo, doanh nghiệp B lấy thấp hơn 13.000 đồng/km cho km đầu tiên và 5.500 đồng/km cho các km tiếp theo. Khi đó khách hàng có thể lựa chọn doanh nghiệp A hoặc doanh nghiệp B tùy thuộc vào nhu cầu sử dụng và mức giá phù hợp với mình. Tuy nhiên khi các bên đã thỏa thuận, thì ngay cả đưa ra mức giá 14.000đồng/km cho km đầu tiên và 6.0000 đồng/km cho các km tiếp theo thì khách hàng cũng không còn lựa chọn nào khác nếu vẫn cần đi taxi.

Hai là làm giảm tính cạnh tranh trên thị trường kinh tế.

Khi thỏa thuận ấn định giá làm giảm mức độ cạnh tranh giữa các đối thủ, các doanh nghiệp tham gia thỏa thuận bằng sự thống nhất hành động. Như vậy, khi đã có những thỏa thuận chung, những tiêu chuẩn chung về vấn đề bất kỳ nào đó như giá, kỹ thuật hay điều kiện kinh doanh, những doanh nghiệp này sẽ không chịu sức ép về cạnh tranh mà chạy đưa nhau trên khía cạnh đó nữa. Lẽ đương nhiên, với cách thức này, các đối thủ “có thể bọc lột những bạn hàng, đối tác thương mại của mình [người tiêu dùng, nhà cung cấp nguyên vật liệu đầu vào, nhà phân phối sản phẩm] để qua đó tối đa hóa lợi nhuận trên thị trường”[6]. Nhìn xa hơn nữa, những tác động này còn có ảnh hưởng tới toàn bộ nền kinh tế và xã hội ở một quốc gia, bởi lẽ khi các doạnh nghiệp bị triệt tiêu cạnh tranh, động lực phát triển qua đó cũng bị giảm sút nghiêm trọng. Điều này khiến các doanh nghiệp khó bứt phá và vươn lên; đồng nghĩa với việc một nền kinh tế sẽ không thể phát triển nếu như những doanh nghiệp này đủ nhiều, đủ lớn.

CHƯƠNG 2. THỎA THUẬN ẤN ĐỊNH GIÁ THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM

Các hành vi Thỏa thuận ấn định giá theo quy định pháp luật bị cấm

Theo quy định tại khoản 1 Điều 11 Luật Cạnh tranh 2018: “thỏa thuận ấn định giá hàng hóa, dịch vụ một cách trực tiếp hoặc gián tiếp” là thỏa thuận hạn chế cạnh tranh. Như vậy, thỏa thuận ấn định giá theo quy định của pháp luật Việt Nam được xác định là một trong những thỏa thuận hạn chế cạnh tranh [“thỏa thuận hạn chế cạnh tranh là hành vi thỏa thuận giữa các bên dưới mọi hình thức gây tác động hoặc có khả năng gây tác động hạn chế cạnh tranh”[7]].

Theo đó, xét về nội dung, thỏa thuận ấn định một cách trực tiếp và gián tiếp được xác định như sau:

Thứ nhất, thỏa thuận trực tiếp là các thoả thuận giữa các doanh nghiệp đề cập, điều chỉnh, tác động trực tiếp tới giá cả. Thông qua đó, một mặt bằng chung về giá được tạo ra và giá này thay vì được điểu chỉnh bởi quy luật chung của thị trường giờ sẽ phụ thuộc vào sự thỏa thuận giữa các doanh nghiệp tham gia. Có thể kể đến một số biểu hiện của hành vi thỏa thuận ấn định giá trực tiếp như sau:

  • “Thỏa thuận áp dụng các mức giá cụ thể đối với hàng hóa, dịch vụ;
  • Thỏa thuận tăng giá ở một mức cụ thể hoặc thống nhất về tỉ lệ tăng giá;
  • Thỏa thuận không giảm giá hoặc chỉ giảm giá ở một mức cụ thẻ hoặc thống nhất về tỉ lệ giảm giá;
  • Thỏa thuận áp dụng công thức tính giá hoặc các yếu tố cấu thành giá;
  • Thỏa thuận về mức giá tối thiểu của hàng hóa, dịch vụ;
  • Thỏa thuận về xác định hoặc duy trì giá trong một khoảng nhất định;
  • Thỏa thuận về việc phải thông tin, tham vấn lẫn nhau mỗi khi tăng hoặc giảm giá bán hàng hóa, dịch vụ;
  • Thỏa thuận về các mức giá của hàng hóa, dịch vụ để đàm phán ký kết hợp đồng với một bên thứ ba bất kỳ.”[8]

Thứ hai, thỏa thuận ấn định giá gián tiếp là các thỏa thuận mà mặt bằng về giá không trực tiếp tạo nên, không được thể hiện ra nhưng lại tạo động lực, tiền đề mà qua đó các doanh nghiệp lựa chọn định giá dựa trên những chuẩn mực đã được định sẵn thay vì tự do và độc lập định giá theo ý chí của từng doanh nghiệp. Mặc dù mức giá của mỗi doanh nghiệp đưa ra là không hoàn toàn giống nhau, tuy nhiên điều này dẫn tới quy luật của thị trường cạnh tranh không hoàn toàn tác động với việc định giá của những doanh nghiệp này mà thay vào đó là chịu sự chi phối bởi nội dung của thỏa thuận. Theo đó, tính bất hợp lý của mức giá được các bên ấn định không nhất thiết phải được đưa ra để chứng minh thỏa thuận ấn định giá[9]. Một số hành vi thỏa thuận ấn định giá gián tiếp có thể kể đến như: Tham khảo thêm các bài mẫu về Ngành Luật điểm cao.

  • “Các hành vi thỏa thuận tại khoản 1 điều này đối với các hàng hóa, dịch vụ khác có liên quan;
  • Thỏa thuận không chiết khấu, không khuyến mại, không cấp tín dụng hoặc không thực hiện các chương trình hậu mãi, chăm sóc khách hàng hoặc các điều kiện thương mại có liên quan trực tiếp đến giá khác;
  • Thỏa thuận giữa nhà cung cấp với các đại lý, nhà phân phối về giá bán lại tối thiểu hàng hóa, dịch vụ cho khách hàng;
  • Trao đổi thông tin về giá và các chương trình khuyến mại, giảm giá, chiết khấu.”[10]

Xét về chủ thể, thỏa thuận ấn định giá bị cấm theo quy định tại khoản 1 và khoản 4 Điều 12 Luật Cạnh tranh 2018 phải thuộc một trong hai trường hợp:

  • Giữa các doanh nghiệp trên cùng thị trường; hoặc
  • Giữa các doanh nghiệp kinh doanh ở các công đoạn khác nhau trong cùng một chuỗi sản xuất, phân phối, cung ứng đối với một loại hàng hóa, dịch vụ nhất định. Trong trường hợp này, thỏa thuận ấn định giá còn phải đáp ứng điều kiện về hậu quả là “gây ra tác động hoặc có khả năng gây ra tác động hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể trên thị trường”.

Tuy nhiên, Luật Cạnh tranh 2018 cũng đưa ra chính sách phù hợp xem xét dựa trên khía cạnh tác động của hành vi thỏa thuận ấn định giá gây ra. Theo đó, đối với những thỏa thuận ấn định giá thuộc trường hợp bị cấm nhưng nếu có lợi cho người tiêu dùng và đáp ứng một số điều kiện nhất định sẽ được miễn trừ có thời hạn. Cụ thể khoản 1 Điều 14 Luật Cạnh tranh 2018 đưa ra các điều kiện sau:

  • “Tác động thúc đẩy tiến bộ kỹ thuật, công nghệ, nâng cao chất lượng hàng hóa, dịch vụ;
  • Tăng cường sức cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam trên thị trường quốc tế;
  • Thúc đẩy việc áp dụng thống nhất tiêu chuẩn chất lượng, định mức kỹ thuật của chủng loại sản phẩm;
  • Thông nhất các điều kiện thực hiện hợp đồng, giao hàng, thanh toán nhưng không liên quan đến giá và các yếu tố của giá.”
Tiểu luận Thỏa thuận ấn định giá theo quy định của pháp luật cạnh tranh

Nguyên tắc, hình thức, mức độ xử lý hành vi Thỏa thuận ấn định giá theo quy định pháp luật

Theo quy định tại Điều 110 Luật Cạnh tranh 2018, tùy theo tính chất, mức độ vi phạm, tổ chức cá nhân có hành vi vi phạm pháp luật về cạnh tranh nói chung và với thỏa thuận ấn địnhg giá nói riêng có thể bị xử lý kỷ luật, xử phạt vi phạm hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Ngoài ra, tổ chức, cá nhân còn phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật nếu hành vi vi phạm gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân khác.

Theo đó, hình thức xử phạt chính đối với hành vi vi phạm pháp luật về cạnh tranh của cá nhân, tổ chức là: cảnh cáo hoặc phạt tiền. Trong đó với mỗi hành vi vi phạm chỉ được áp dụng xử phạt bằng một trong hai hình thức nêu trên. Đối với hình thức phạt tiền, Luật Cạnh tranh đặt ra mức phạt tiền tối đa đối với hành vi vi phạm quy định về thỏa thuận cạnh tranh [trong đó bao gồm thỏa thuận ấn định giá], là “10% tổng doanh thu của doanh nghiệp có hành vi vi phạm trên thị trường liên quan trong năm tài chính liền kề trước năm thực hiện hành vi vi phạm, nhưng thấp hơn mức phạt tiền thấp nhất đối với hành vi vi phạm được quy định trong Bộ luật Hình sự”[11]. Ngoài ra, cụ thể hơn, khoản 1 Điều 7 Nghị định 75/201/NĐ-CP đã quy định “phạt tiền từ 01% đến 05% tổng doanh thu trên thị trường liên quan trong năm tài chính liền kề trước năm thực hiện hành vi vi phạm của từng doanh nghiệp là các bên tham gia thỏa thuận đối với hành vi ấn định giá hàng hóa, dịch vụ một cách trực tiếp hoặc gián tiếp khi thỏa thuận đó gây tác động hoặc có khả năng gây tác động hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể trên thị trường”. Theo đó việc đánh giá tác động hoặc khả năng gây tác động hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể của thỏa thuận ấn định giá được do Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia thực hiện căn cứ trên những yếu tố nhất định. Ngoài hình thức xử phạt chính, cá nhân, tổ chức vi phạm còn có thể bị áp dụng một hoặc một số hình thức xử phạt bổ sung. Việc lựa chọn hình thức xử phạt bổ sung phụ thuộc vào tính chất, mức độ của hành vi vi phạm, theo đó bao gồm:

  • “Thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp hoặc văn bản tương đương, tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề;
  • Tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để vi phạm pháp luật về cạnh tranh;
  • Tịch thu khoản lợi nhuận thu được từ việc thực hiện hành vi vi phạm.”[12].

Bên cạnh đó, đối với những trường hợp có hậu quả phát sinh, tổ chức, cá nhân có thể bị áp dụng thêm một hoặc một số biện pháp khắc phục hậu quả tùy theo từng trường hợp, bao gồm:

  • “Cơ cấu lại doanh nghiệp lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, lạm dụng vị trí độc quyền;
  • Loại bỏ điều khoản vi phạm pháp luật ra khỏi hợp đồng, thỏa thuận hoặc giao dịch kinh doanh;
  • Chia, tách, bán lại một phần hoặc toàn bộ vốn góp, tài sản của doanh nghiệp hình thành sau tập trung kinh tế;
  • Chịu sự kiểm soát của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về giá mua, giá bán hàng hóa, dịch vụ hoặc các điều kiện giao dịch khác trong hợp đồng của doanh nghiệp hình thành sau tập trung kinh tế;
  • Cải chính công khai;
  • Các biện pháp cần thiết khác để khắc phục tác động của hành vi vi phạm.” 

CHƯƠNG 3. ĐÁNH GIÁ VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN

Đánh giá thực tiễn áp dụng Thỏa thuận ấn định giá theo quy định pháp luật

Có thể thấy, pháp luật cạnh tranh Việt Nam đã có những quy định khá đầy đủ, chi tiết và phù hợp với thực tiễn liên quan đến hành vi thỏa thuận ấn định giá. Theo đó, tư duy xây dựng và cách tiếp cận pháp lý đã có sự kết hợp chặt chữ với tư duy kinh tế, điều này giúp các quy định đưa ra phù hợp hơn với thực tiễn tại nước ta và trên thế giới. Trong đó có một số vấn đề nổi bật như sau:

Một là việc xác định thỏa thuận ấn định giá có thể là trực tiếp hoặc gián tiếp. Điều này là hết sức chính xác, khoa học, đi sâu vào bản chất của hành vi thay vì chỉ thể hiện bên ngoài hình thức. Trên thực tế, không thiếu những hình thức thỏa thuận, ấn định các yếu tố kinh tế, nội dung không liên quan đến giá nhưng khi xét sâu vào bản chất, thực tế đây lại là dạng hành vi có tác động trực tiếp đến giá.

Thứ hai, Luật Cạnh tranh 2018 cho phép xác định phạm vi áp dụng pháp luật và đối tượng áp dụng pháp luật về ấn định giá nói riêng và về các hành vi hạn chế trạnh tranh nói riêng không chỉ giới hạn trong lãnh thổ Việt Nam mà còn tính trên cả góc độ thế giới. Cụ thể hơn là phạm vi điều chỉnh bao gồm những hành vi thỏa thuận ấn định giá gây tác động hoặc có khả năng gây tác động hạn chế cạnh tranh đến thị trường Việt Nam không phân biệt được thực hiện trong hay ngoài nước.

Tuy nhiên cũng cần nhìn nhận rằng, những quy định liên quan đến việc trên phạm vi nước ngoài vẫn còn chung chung, chưa đi vào cụ thể trường hợp phát sinh nhất định. Điều này có thể dẫn tới những khó khăn trong quá trình áp dụng vào thực tế khi liên quan đến trường hợp hành vi thỏa thuận ấn định giá được thực hiện ở ngoài nước.

Thứ ba, việc đánh giá tác động hoặc khả năng gây tác động hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể của thỏa thuận ấn định giá nói riêng và thỏa thuận hạn chế cạnh tranh nói chung đã được giao cho Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia. Vậy nhưng, trên thực tế kể từ khi Luật Cạnh tranh năm 2018 có hiệu lực đến nay vẫ chưa thành lập được Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia. Điều này dẫn đến việc triển khai tổ chức thực thi pháp luật cạnh tranh còn gặp phải nhiều khó khăn, công tác điều tra và xử lý các vụ việc vi phạm pháp luật cạnh tranh trong giai đoạn 2019 – 2021 không thể triển khai theo quy định.

Thứ tư, bồi dưỡng nâng cao kiến thức bản thân bằng những bài Tiểu luận mẫu Luật lao động 

Kiến nghị hoàn thiện Thỏa thuận ấn định giá theo quy định pháp luật

Nhằm hoàn thiện quy định pháp luật cũng như nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về thỏa thuận ấn định giá nói riêng và thỏa thuận hạn chế cạnh tranh nói chung, đồng thời căn cứ những đánh giá đã được nêu ở trên, em xin đưa ra một số kiến nghị như sau:

Thứ nhất, cần bổ sung các nội dung quy định cụ thể hơn đối với các hành vi thỏa thuận ấn định giá được thực hiện trong phạm vi ngoài quốc gia. Theo đó, những quy định này cần đảm bảo phù hợp với thực tế pháp luật trong nước, pháp luật quốc tế và các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên, tránh việc xung đột lợi ích giữa các quốc gia nhưng vẫn đồng thời đảm bảo hiệu quả mục tiêu thực hiện. Các quy định này liên quan đến việc hướng dẫn áp dụng pháp luật, cách thức xử phạt và những nội dung khác có liên quan.

Thứ hai, cần sớm kiện toàn mô hình, tổ chức hoạt động có hiệu quả đối với Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia. Thông qua đó có thể sớm hoàn thiện mô hình cơ quan cạnh tranh độc lập, có vị thế đủ mạnh, qua đó phát huy và tiến tới việc duy trì, đảm bảo môi trường cạnh tranh lành mạnh, công bằng, góp phần ổn định thị trường, phát triển kinh tế, xã hội.

DOWNLOAD

Thông qua nội dung bài nghiên cứu trên đây có thể hiểu khái quát được các vấn đề lý luận cơ bản về thỏa thuận ấn định giá để từ đó thấy được bản chất pháp lý và những ảnh hưởng tiêu cực của hành vi thỏa thuận ấn định giá giữa các doanh nghiệp đến nền kinh tế thị trường và xã hội hiện nay. Đồng thời, AD đã có nhiều tài liệu chủ đề về bài mẫu Luật cạnh tranh, tham khảo tại đây

Video liên quan

Chủ Đề