Thơ của Hữu Thỉnh như thế nào

THỨ NĂM, 29/07/2021 14:25:17

Năm học mới 2021 - 2022 sắp đến, lại một bài thơ của ông được đưa vào sách giáo khoa. Đó là bài Để lại cho em ở trang 128 sách Tiếng Việt 2 [tập 1] bộ Cánh diều [Nhà Xuất bản Đại học Sư phạm TP Hồ Chí Minh]. Bài Để lại cho em như sau: “Chị lên tám tuổi/ Để lại cho em/ Dép đỏ, mũ len/ Xinh xinh đôi tất// Áo chị, mẹ mua/ Bây giờ em mặc/ Hai bên hàng cúc/ Có đôi thỏ đùa// Những ngày chị qua/ Bây giờ em tới/ Cơn ho, cơn sởi/ Những ngày lên năm// Để lại cái ngoan/ Trên tay sạch sẽ/ Quàng qua cổ mẹ/ Thơm thơm thơm thơm// Em học ngày ngày/ Cái ngoan của chị/ Những ngày chị bé/ Như em bây giờ”.

Hai bài thơ với rất nhiều tầng nghĩa

Từ khóa của bài thơ Để lại cho em đặt ở khổ thơ thứ 4 - “cái ngoan”. Chữ này hút vào nó sự hàm ơn, trước sự chăm lo chu đáo, nhường nhịn đủ đầy, từ đôi tất tới cái mũ; sự vượt khó trước những thử thách xuất hiện trong đời sống tự nhiên theo từng bước trưởng thành của một cơ thể con người, từ “ho” tới “sởi”.

Đặt được “cái ngoan” lên tay nhân vật thơ ca, thì cái ngoan, một khái niệm đạo đức đã như hữu hình, đã được nhìn thấy. Tác giả, trong cách cấu tứ mang tính tự sự, đã thủ thỉ trò chuyện để hình ảnh thơ, từ chi tiết cụ thể đi tới được tính ẩn dụ trong hình ảnh, khơi gợi tưởng tượng của người đọc - đứa em thay chị vòng tay ôm cổ mẹ như quàng tràng hoa thơm hương đạo đức. Thơm ngát, nhưng giản dị, nhờ chuỗi 4 điệp từ “thơm thơm thơm thơm”. Cho tới khổ kết vĩ thanh, chữ “ngoan” được nhắc lại, để vang ngân “ngày ngày”.

Thầy cô giáo khi dạy bài này cũng nên biết, trong nguyên bản của tác giả Hữu Thỉnh [có thể đọc ở sách Văn học cho thiếu nhi, Nhà Xuất bản Văn học 1995 - tr.957-958] bài thơ có 8 khổ, các nhà biên soạn sách giáo khoa chọn 5 khổ cho vừa sức đọc của trẻ lớp 2, lại chỉ yêu cầu các em thuộc 2 khổ tự chọn, mình thích. Dù đã biên tập như thế, bài thơ vẫn nhất khí và rõ chủ đề. Chỉ xin lưu ý, ở khổ thơ thứ 8 đã bị cắt, chữ “ngoan” lại xuất hiện một lần nữa trong chuỗi 4 điệp từ này. Nhà thơ Hữu Thỉnh còn xuất hiện trong sách Ngữ văn 9, tập 2, tr.70, bài Sang thu: “Bỗng nhận ra hương ổi/ Phả vào trong gió se/ Sương chùng chình qua ngõ/ Hình như Thu đã về// Sông được lúc dềnh dàng/ Chim bắt đầu vội vã/ Có đám mây mùa Hạ/ Vắt nửa mình sang Thu// Vẫn còn bao nhiêu nắng/ Đã vơi dần cơn mưa/ Sấm cũng bớt bất ngờ/ Trên hàng cây đứng tuổi”. Đây là bài thơ khó với học sinh lớp 9. Cách chuyển ý, liên kết hình tượng đã kín mạch, lại liên tục thay đổi. Bài thơ bắt đầu bằng hình tượng khứu giác, ở dòng 1 dòng 2 nhưng tới dòng 3, chữ “chùng chình” rất tượng hình, đã vẽ ra bước sương Thu bằng cảm nhận thị giác. Những cảm giác thoáng qua kia, lại còn được ngụy trang bằng một mệnh đề suy lý, từ “bỗng” sững sờ, ngạc nhiên, tới “hình như” phân vân, nửa tin nửa ngờ, khiến cả khổ thơ mờ, tỏ, lung linh hương sắc. Kết nối khổ thứ nhất với khổ thứ 2 lại bằng một cách khác - đăng đối từ ngữ. Sương “chùng chình” điệp phụ âm đầu ch - ch, kéo theo, cũng cách điệp ấy, sông “dềnh dàng” dưới đất, chim “vội vã” trên trời, để hình tượng toàn khổ thứ 2, đang từ chuyện động không gian đất trời, hóa thành chuyển động thời gian; đám mây thơ, nửa này đang hạ, nửa kia đã thu. Biến đổi lại tiếp tục khi bài tả cảnh bất ngờ chuyển sang tả tình. Biến đổi kín tới mức người đọc chỉ biết thơ tả tình, thơ tôn vinh nhịp sống thứ thái của con người trước sấm động của thời cuộc khi đọc tới chữ cuối cùng - “đứng tuổi” trong “hàng cây đứng tuổi”. Chữ ấy như là so sánh ngầm, như là nhân hóa. Bảo chữ ấy chỉ thuộc về lý lịch hành cây, tức là khen tác giả tu từ mà không để dấu vết tu từ.

Xin được nhắc lại, đây là bài khó với học sinh lớp 9. Khó cũng đừng dạy học sinh diễn nôm bài thơ, cũng đừng thay việc phân tích bài thơ bằng việc kể chuyện tác giả.


Bài thơ “Để lại cho em” của Hữu Thỉnh trong sách “Tiếng Việt 2” [tập 1] bộ “Cánh diều”

Một cây bút sắc trong đời và trên trang viết Hữu Thỉnh từng đi dự tuyển văn công và trúng tuyển. Ông kể: “Mùa Hè năm 1964 thị xã Vĩnh Yên náo động về một sự kiến lớn. Một đoàn cán bộ của Văn công Quân khu Tây Bắc về tuyển diễn viên. Đôi mắt đẹp mà tôi đang theo đuổi nhắn, ra thử sức xem sao…”. Anh tân binh Hữu Thỉnh, giấu đơn vị, dự tuyển. Vào vai đóng kịch, rồi đọc thơ. “Bài thơ hay quá, lại do một anh lính trẻ đọc khiến cả phòng im phăng phắc. Tôi không còn nhớ ban giám khảo. Tôi đọc cho một người. Nàng đang hồi hộp đợi tôi ngoài hành làng. Kiểm tra xong, tôi gặp đôi mắt em ngấn nước”. Và ông trúng tuyển, có giấy gọi làm diễn viên nhưng bị đơn vị giữ lại làm… báo tường cho Trung đoàn thiết giáp 202. Không thành diễn viên chuyên nghiệp nhưng Hữu Thỉnh có thể trình diễn thơ, bình thơ hấp dẫn như một “thuyết thoại nhân” kể chuyện chương hồi, từ đơn vị này tới đơn vị khác. “Vào đầu thì cũng thường thôi, nhưng dần dần cả người đọc và người nghe cứ lịm đi… Không chỉ đám lính trẻ khoái mà cả các bậc sĩ quan nữa nhé. Hết buổi, tôi còn được kéo về các tiểu đội, để đọc thơ cho họ chép vào sổ tay”. Hữu Thỉnh diễn thuyết có nghề. Đây, ông nói về công việc của người làm báo với các tổng biên tập, đến từ hội văn nghệ các tỉnh thành: “Tổng biên tập chỉ làm có một chữ “hay”. Loài người mấy trăm triệu năm giải quyết một chữ “thiện” chưa xong. Giải quyết một chữ “no” chưa xong. Giải quyết một chữ “hạnh phúc” chưa xong. Giải quyết một chữ “công bằng” chưa xong. Giải quyết một chữ “dân chủ” chưa xong. Không chỉ một nhiệm kỳ này, mà nhiệm kỳ sau cũng phải giải quyết chữ “hay”. Có những việc, tài không chưa đủ, cần có tình nữa mới thành công. Đó là việc soạn thảo hỏa tốc những “cái quan luận định” trong lúc “tang gia bối rối”, những điếu văn vĩnh biệt các tài năng văn chương, những người thầy, người bạn của mình. Có tài để đưa ra những nhận định khoa học khi nhà văn vừa nằm xuống, có tình để trân trọng những cá nhân nghệ sĩ trên tinh thần văn nhân tương thân. Ông nói trên báo Thanh niên ngày 21.4.2010 việc làm này “vừa như một kỷ niệm, lại như một lời tri ân về những đóng góp của các nhà văn đã quá cố cho sự nghiệp văn học Việt Nam”. Hữu Thỉnh đã viết lời vĩnh biệt với Phan Tứ, Võ Huy Tâm, Nguyễn Văn Bổng, Trinh Đường, Thu Bồn, Bảo Định Giang, Anh Thơ, Khương Hữu Dụng, Đào Vũ, Chính Hữu, Vũ Cao, Phạm Tiến Duật, Nguyễn Khải, Lê Đạt, Nguyễn Bùi Vợi, Ngô Quân Miện, Hữu Loan, Bùi Hiển, Tế Hanh, Hà Ân, Vũ Đình Minh, Hoàng Ngọc Hiến, Đào Thái Tôn… Xin dẫn câu ông đọc trong lễ tang người góp “màu tím hoa sim” vào văn học hiện đại Việt Nam, viết mà như khắc tạc, trên khối đá người ấy từng vác trên vai: “Hình ảnh thi nhân chở đá xây đời từ sự thật đầm đìa mồ hôi đã thành biểu tượng cao lộng của nhà thơ gắn bó trọn đời với những người dân lam lũ và nhân hậu của quê nhà”.

Mâm cơm thời chiến

Đắng đót là mâm cơm người chị “chinh phụ”, Hữu Thỉnh đã vẽ chân dung, trong trường ca Đường tới thành phố bằng những nét chữ tối giản, để có thể bày cả cuộc chiến tranh vào cái khung tranh tròn có treo trong tất cả các gia đình Việt Nam ngày ấy: “Chị đợi chờ quay mặt vào đêm/ Hai mươi năm mong trời chóng tối/ Hai mươi năm cơm phần để nguội/ Thôi Tết đừng về nữa chị tôi buồn…// Một mình một mâm cơm/ Ngồi bên nào cũng lệch/ Chị chôn tuổi xuân trong má lúm đồng tiền…”. Trong ca dao xưa, người đàn bà Việt đã hờn trách “mất tiền mua mâm thì đâm cho thủng”, người đàn bà “3 đảm đang” của Hữu Thỉnh, không hờn trách, chỉ chịu đựng sức tàn phá của cả một cuộc chiến, và âm thầm “an táng” quyền đàn bà trên chỉ một hõm duyên má hồng!Còn đây, mâm cơm ngọt lành dù là mâm dã chiến bày trong Dinh Độc lập ngày 30.4.1975, một mâm tiệc thân thiện với thiên nhiên: “Mâm xanh - sân cỏ xanh mải miết/ Quây quần đồng đội đến vui chung/ Hàng cây so đũa cùng ta đó/ Ăn bữa cơm ở đích cuối cùng”. Không chỉ xanh mâm, xanh đũa như thế, món chính của bữa tiệc, món ruột của những người chiến thắng, cũng xanh: “Cơm dã chiến nấu bằng bếp điện/ Rau muống xanh như hái tự ao nhà/ Trời còn đầy ắp hoa và pháo/ Nhìn nhau chưa vội mở vung ra”. Và xanh nhất là tình người, ta nhìn thấy trong khẩu phần dành cho kẻ chiến bại: “Tăng vẫn dàn đội hình chiến đấu/ Xích còn vương đất đỏ Phan Rang/ Vừa mới vào mâm anh nuôi bận/ Chia thêm tổng - thống - ngụy - đầu - hàng”.

Đặc tả cận cảnh cuộc chiến 20 năm qua 2 mâm cơm. Đóng góp như thế vào văn học, kể cũng là nhiều!

Vài nét về nhà thơ Hữu Thỉnh

Nhà thơ Hữu Thỉnh tên thật là Nguyễn Hữu Thỉnh sinh 1942. Ông từng là bộ đội xe tăng, từng học Trường Viết văn Nguyễn Du và Viện Văn học Gorki [Liên Xô cũ], từng giữ các cương vị Chủ tịch Liên hiệp các hội Văn học nghệ thuật Việt Nam, Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam. Ông là tác giả 16 tác phẩm văn học gồm thơ và lý luận phê bình. Ông nhận Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học nghệ thuật năm 2012. Hiện ông cư ngụ tại Hà Nội.

Theo Thể thao & Văn hóa

  • TAG
  • NHÀ THƠ HỮU THỈNH
  • SÁCH GIÁO KHOA
  • SANG THU
  • ĐỂ LẠI CHO EM

Đề bài: Thiên nhiên mùa thu  dưới cái nhìn của Hữu Thỉnh qua bài Sang Thu

Mỗi khoảnh khắc giao thoa giữa hai mùa Hạ và Thu luôn là thời điểm khiến cho lòng người cảm thấy xốn xang nhất. Khi mà cảnh vật hòa cùng với đất trời tạo nên một bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp. Chẳng thế mà với một tâm hồn đậm chất thơ của mình Hữu Thỉnh đã vẽ nên một bức tranh thiên nhiên đất trời khi chuyển mùa sang Thu bằng chất liệu ngôn từ đẹp đẽ nhất và cũng lãng mạn nhất qua bài “Sang thu”.

Hạ qua-thu đến, đó là quy luật khách quan không thể nào thay đổi. Trong khoảnh khắc giao mùa tuyệt vời, đất trời có những biến chuyển nhẹ nhàng mà rõ rệt. Nét đẹp chuyển thu thật  tinh tế, dịu dàng. “Sang thu” ở đây là chớm thu. Mùa hè vẫn chưa hết mà mùa thu đã bắt đầu tới với những tín hiệu đầu tiên. Trước những sự thay đổi tinh vi ấy, phải nhạy cảm lắm mới có thể cảm nhận được. Ngay từ những câu thơ đầu, tác giả đã thể hiện sự tinh tế đó của mình qua dấu hiệu của mùa thu. hông như những nhà thơ khác cảm nhận màu thu qua sắc vàng của hoa cúc, của lá ngô đồng hay qua tiếng lá khô xào xạc: “Con nai vàng ngơ ngác – Đạp trên lá vàng khô”[Lưu Trọng Lư]. Hữu Thỉnh đón nhận mùa thu từ những dấu hiệu đời thường, gần gũi.Và trong biết bao hương vị thân thuộc của làng quê, Hữu Thỉnh giật mình thảng thốt, nhận ra cái làn hương ngây ngất, ngọt ngào của trái ổi đầu mùa.

“Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se”

“Hương ổi” thân thương sực thẳng vào miền kí ức, đánh thức hương vị của làng quê bắc bộ yêu thương. Đó là thứ hương vị thật dễ dàng để nhận ra ở chốn làng quê thôn dã. Nhưng có phải bởi quen thuộc quá nên đôi khi ta lãng quên? Để đến khi nhận ra hết thảy chúng ta đều không khỏi bất ngờ: “Bỗng nhận ra hương ổi”. Từ “bỗng” như được gieo lên trong niềm ngỡ ngàng ngạc nhiên. Từ bao giờ nhỉ, thu về? Tất cả đến với tác giả nhẹ nhàng mà cũng đột ngột quá, thu về với đất trời quê hương, với lòng người mà không hề báo trước. Để rồi trong phút giây ngỡ ngàng, nhà thơ chợt nhận ra hương thơm nồng nàn “phả” vào trong gió se.  Mùi hương ấy không hòa vào quyện vào mà “phả” vào trong gió. “Phả” nghĩa là bốc mạnh và tỏa ra từng luồng. Hữu Thỉnh đã không tả mà chỉ gợi, đem đến cho người đọc một sự liên tưởng thú vị: tại vườn tược quê nhà,những quả ổi chín vàng trên các cành cây kẽ lá tỏa ra hương thơm nức, thoang thoảng trong gió. Chỉ một chữ “phả” thôi cũng đủ gợi hương thơm như sánh lại. Sánh lại bởi hương đậm một phần, sánh bởi tại gió se. Nhận ra trong gió có hương ổi là cảm nhận tinh tế của một người sống giữa đồng quê và nhà thơ đã đem đến cho ta một tín hiệu mùa thu dân dã mà thi vị. Ông đã phát hiện một nét đẹp đáng yêu của mùa thu vàng nông thôn vùng đồng bằng Bắc Bộ. Cũng nhờ hương ổi, bức tranh giao mùa có một sức sống mạnh mẽ đến kì lạ, mà cũng bất ngờ cho long người. Hương ổi từ đó mà lan tỏa mãi trong ko gian và rồi vấn vương trong gió se - cơn gió heo may đầu mùa.

“Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về”

Không gian có sự hoà hợp giữa hương ổi dịu dàng, gió thu nhẹ nhẹ và sương thu mơ màng tạo nên một ấn tượng đặc biệt mà ta khó lòng quên được. Không phải là màn sương dày đặc, mịt mù như trong câu ca dao quen thuộc miêu tả cảnh Hồ Tây lúc ban mai “Mịt mù khói tỏa ngàn sương”, hay như nhà thơ Quang Dũng đã viết trong bài thơ “Tây Tiến”: “Sài Khao sươnglấp đoàn quân mỏi” mà là “Sương chùng chình qua ngõ” gợi ra những làn sương mỏng, mềm mại, giăng  màn khắp đường thôn ngõ xóm làng quê. Nó làm cho khí thu mát mẻ và cảnh thu thơ mộng, huyền ảo, thong thả, bình yên. "Chùng chình" là sự cố ý muốn làm chậm lại, rung rinh, lay động. Nó mang dáng vẻ thong thả, nhẹ nhàng như thiễu nữ đôi mươi. Vạn vật trong thời khắc chuyển mùa vì thế càng trở nên duyên dáng, nhịp nhàng. Cảm quan tinh tế cùa nhà thơ đã phát hiện ra vẻ đẹp rất riêng, rất duyên đó để rồi xao xuyến: "Hình như thu đã về". Lời reo vui cũng thì thầm nhỏ nhẹ, bâng khuâng vang lên trong lòng Hữu Thỉnh như bước đi của mùa thu. Bằng tất cả các giác quan: khứu giác, xúc giác và thị giác, nhà thơ cảm nhận những nét đặc trưng của mùa thu đều hiện diện. Có “hương ổi”, “gió se” và “sương”. Mùa thu đã về trên quê hương. Vậy mà nhà thơ vẫn còn dè dặt: “Hình như thu đã về”. Thu đến nhẹ nhàng quá, mơ hồ quá.

Sau giây phút ngỡ ngàng và khe khẽ vui mừng, cảm xúc củathi sĩ tiếp tục lan tỏa, mở ra trong cái nhìn xa hơn, rộng hơn:

"Sông được lúc dềnh dàng
Chim bắt đầu vội vã
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu"

Hơi thở của thu đã rõ rệt hơn. Sự hiện diện của thu không còn mơ hồ mà đã cụ thể, hữu hình trong thiên nhiên và tạo vật. Trong không gian rộng lớn hơn, từ bầu trời tới mặt đất, đâu đâu cũng thấy cảnh sắc nhuốm thu. Dòng sông chảy khoan thai, lững lờ, mà mềm mại và duyên dág chứ không ào ạt, cuộn dâng như trong hạ. Thế nhưng trái lại với vẻ chậm chạp của dòng sông, đàn chim trời lại đang vội vã, chuẩn bị cho một hành trình mới, khi thu sang, ngày ngắn, đêm dài và gió se đã thổi. Như vậy, mùa thu của Hữu Thỉnh không chỉ có bình yên, thư thả mà còn có cả sự vội vã, gấp gáp. Sông dưới mật đất, chim ở trên trời; sông “dềnh dàng” chậm rãi, chim “vội vã” lo lắng,... Hai hình ảnh xinh xắn đó được đặt cạnh nhau để khái quát không gian mặt đất và bầu trời.

Bức tranh mùa thu được cảm nhận bởi sự thay đổi của đất trời theo tốc độ di chuyển từ hạ sang thu, nhẹ nhàng mà rõ rệt. Thiên nhiên sang thu đã được cụ thể bằng những hình ảnh: “sông dềnh dàng”, “chim vội vã”, “đám mây vắt nửa mình”. Như thế,thiên nhiên đã được quan sát ở một không gian rộng hơn, nhiều tầng bậc hơn. Và bức tranh sang thu từ những gì vô hình như “hương ổi” ,”gió se”, từ nhỏ hẹp như con ngõ chuyển sang những nét hữu hình, cụ thể với một không gian vừa dài rộng, vừa xa vời.

Trên nền trời xanh còn có hình ảnh một “đám mây mùa hạ / vắt nửa mình sang thu" diệu kì như chiếc cầu vồng rực rỡ sắc màu. Hình ảnh ấy khiến lòng ta rung động, không phải là "lớp lớp mây cao đùn núi bạc" hay "mây biếc về đâu bay gấp gấp" mà lại là "đám mây mùa hạ, vắt nửa mình sang thu". Có thể là một đám, hai đám hay nhiều hơn nữa nhưng có lẽ trong Sang thu mây không thể nào "lớp lớp mây cao" được. Vì mùa thu mới bắt đầu chưa thể nhuốm đượm lên "lớp lớp" sự vật được. Hình ảnh đám mây là một phát hiện rất mới lạ và độc đáo của Hữu Thĩnh. Nhưng trong thực tế không hề có đám mây nào như thế vì mắt thường đâu dễ nhìn thấy được sự phân chia rạch ròi của đám mây mùa hạ và thu.Đó chỉ là một sự liên tưởng thú vị - một hình ảnh đầy chất thơ. Thời khắc giao mùa được sáng tạo từ một hồn thơ tinh tế, nhạy cảm, độc đáo không những mangđến cho người đọc…mà còn đọng lại những nỗi bâng khuâng trước vẻ dịu dàng êm mát của mùa thu. Bức tranh chuyển mùa vì thế càng trở nên sinh động, giàu sắc gợi cảm.

Thiên nhiên vẫn âm thầm vận động sang thu và hơi hướng mùa hạ vẫn còn vương vấn trong nắg, mưa, sấm, chớp, nhưng cái hồn thu đã rõ rệt hơn nhiều.

“Vẫn còn bao nhiêu nắng
Đã vơi dần trong mưa
Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi”

Nắng, mưa vốn là hiện tượng của thiên nhiên vận hành theo quy luật riêng của nó. Hữu Thỉnh đã nhìn ra từ cái mưa nắng hàng ngày một sự hụt vơi – dấu hiệu của sự chuyển mùa từ hạ sang thu. Vẫn là nắng, vẫn là mưa, sấm như mùa hạ nhưng mức độ đã khác rồi. Lúc này, những tiếng sấm bất ngờ cùng những cơn mưa rào không còn nhiều nữa. Các từ “vẫn còn, bao nhiêu, đã, vợi” gợi cảm giác như nhà thơ đang cân, đo, đong, đếm nắng mưa của đất trời. Đất trời sang thu, “nắng, mưa, sấm vẫn còn nhưng không mạnh mẽ, dữ dội như trong hạ. Nắng nhạt dần, mưa vơi bớt, sấm cũng không còn ghê gớm như sấm của giông bão mùa hè, không thể làm rung chuyển hàng cây đã cứng cáp, trưởng thành.

Hai câu thơ cuối gợi cho ta nhiều suy nghĩ, liên tưởng thú vị.

“Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi”

Giọng thơ trầm hẳn xuống, câu thơ không đơn thuần chỉ là gượng kể, là sự cảm nhận mà còn là sự suy ngẫm, chiêm nghiệm. Cụm từ “hàng cây đứng tuổi” gợi cho người đọc nhiều liên tưởng. Đời người như một loài cây, cũng non tơ, trưởng thành rồi già cỗi. Phải chăng, cái đứng tuổi của cây chính là cái đứng tuổi của đời người. Hình ảnh vừa có ý nghĩa tả thực, vừa có ý nghĩa biểu tượng. Vẻ chín chắn, điềm tĩnh của hàng cây trước sấm sét, bão giông vào lúc sang thu cũng chính là sự từng trải, chín chắn của con người khi đã đứng tuổi. Phải chăng mùa thu của đời người là sự khép lại những ngày tháng sôi nổi bồng bột của tuổi trẻ, để mở ra một mùa mới, một không gian mới thâm trầm, điềm đạm, vững vàng hơn. Ở tuổi “sang thu”, con người không còn bất ngờ trước những tác động bất thường của ngoại cảnh, của cuộc đời.

Thời khắc “Sang thu” trong bài thơ của Hữu Thỉnh mang một vẻ đẹp tinh tế, trong sáng và dịu nhẹ. Đời sống cũng vừa “sang thu”, lòng người có nhiều trăn trở, xúc động. Bài thơ của Hữu Thỉnh đánh thức tình cảm của mỗi người vềtình yêu quê hương đất nước và suy ngẫm về cuộc đời.

Video liên quan

Chủ Đề