So sánh phạm trù với phamj trù đạo đức

Ý thức xã hội tồn tại dưới nhiều hình thái khác nhau nhưng những hình thái chủ yếu của ý thức xã hội bao gồm ý thức chính trị, ý thức pháp quyền, ý thức đạo đức, ý thức nghệ thuật [hay còn gọi là ý thức thẩm mỹ], ý thức tôn giáo, ý thức ý luận [hay còn gọi là ý thức khoa học] và ý thức triết học. Tính phong phú đa dạng của các hình thái ý thức xã hội phản ánh tính phong phú, đa dạng của bản thân đời sống xã hội. Trong các hình thái ý thức xã hội có những hình thái gần với cơ sở kinh tế của tồn tại xã hội hơn, có những hình thái ý thức xã hội xa cơ sở kinh tế hơn so với các hình thái ý thức xã hội khác. Vì vậy các hình thái ý thức chính trị và ý thức pháp quyền gần gũi với cơ sở kinh tế hơn cả.

1. Ý thức chính trị Đầu tiên là hình thái ý thức chính trị. Hình thái ý thức chính trị là hình thái ý thức chỉ xuất hiện và tồn tại trong các xã hội có giai cấp và nhà nước. Nó phản ánh các quan hệ chính trị, kinh tế, xã hội giữa các giai cấp, các dân tộc và các quốc gia cũng như thái độ của các giai cấp đối với quyền lực nhà nước. Ý thức chính trị thực tiễn thông thường hình thành từ trực tiếp từ các hoạt động thực tiễn trong môi trường chính trị của xã hội. Ở trạng thái tâm lí xã hội, những cảm xúc và tâm trạng về chính trị của quần chúng cảm xúc và tâm trạng về chính trị của quần chúng thường thiếu bền vững và không ổn định. Song, những trạng thái tâm lí xã hội như vậy lại đóng vai trò to lớn và trực tiếp đối với hành vi chính trị của quần chúng đông đảo. Thông qua đó hệ tư tưởng chính trị tác động vào đời sống chính trị của xã hội. Hệ tư tưởng của một giai cấp chính trị nhất định phản ánh trực tiếp tập trung lợi ích giai cấp của giai cấp ấy. Ý thức chính trị được thể hiện trong đường lối, cương lĩnh chính trị của các chính đảng của các giai cấp khác nhau cũng như trong luật pháp chính sách nhà nước – công cụ của giai cấp thống trị, hệ tư tưởng chính trị được hình thành một cách tự giác. Nó được các nhà tư tưởng của giai cấp

xây dựng và truyền bá. Hệ tư tưởng chính trị gắn với các tổ chức chính trị, thông qua các tổ chức chính trị mà một giai cấp nào đó tiến hành cuộc đấu tranh giành ý thức. Vì lợi ích của giai cấp của mình, ý thức chính trị đặc biệt là hệ tư tưởng chính trị có vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển xã hội. Thông qua tổ chức nhà nước nó tác động trở lại cơ sở kinh tế và có thể trong những giới hạn nhất định làm thay đổi cơ sở kinh tế. Hệ tư tưởng chính trị cũng giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần của xã hội, nó thâm nhập vào các hình thái ý thức xã hội khác, tác động tích cực hoặc tiêu cực của hệ tư tưởng chính trị cũng như ý thức chính trị nói chung phụ thuộc vào tính tiến bộ, cách mạng hoặc phản tiến bộ, phản cách mạng của giai cấp mang hệ tư tưởng đó. Khi giai cấp đó tiến bộ, cách mạng tiêu biểu làm cho xu thế phát triển đi lên của lịch sử thì hệ tư tưởng chính trị của nó có tác động tích cực đến sự phát triển xã hội. Khi giai cấp đó trở thành lạc hậu, phản cách động thì hệ tư tưởng chính trị của nó có tác động tiêu cực, kìm hãm sự phát triển của xã hội

Ví dụ:

Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam hoạt động của Đảng và cách mạng Việt Nam. Chủ nghĩa Mác-Lênin là khoa học về các quy luật phát triển của tự nhiên và xã hội, khoa học về cách mạng của quần chúng bị áp bức và bị bóc lột, khoa học về sự thắng lợi của chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Đảng ta, khẳng định lấy chủ nghĩa Mác-Lênin làm kim chỉ nam cho hành động và nêu cao tư tuởng Hồ Chí Minh. Nội dung cốt lõi của chủ nghĩa Mác- Lênin là tư tưởng về sự giải phóng con người khỏi chế độ bóc lột người. Vì vậy, trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội của nhân dân ta tất nhiên phải lấy chủ nghĩa Mác- Lênin làm kim chỉ nam cho hoạt động của Đảng và cách mạng Việt Nam. Tư tưởng Hồ Chí Minh là sự vận dụng

nước ban hành. Việc thể hiện ý chí của giai cấp công nhân cũng đồng thời phản ảnh và thể hiện lợi ích dân tộc trong công cuộc đối mới tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.

3. Ý thức đạo đức

Thứ 3 là ý thức đạo đức. Ý thức đạo đức là toàn bộ những quan niệm, tri thức và các trạng thái cảm xúc, tâm lí chung của các cộng đồng người về các giá trị thiện, ác, lương tâm, trách nhiệm, hạnh phúc, công bằng, v... và về những quy tắc đánh giá, những chuẩn mực hành vi cùng cách ứng xử giữa các cá nhân với nhau và giữa các cá nhân với xã hội.

Ý thức đạo đức là một trong các hình thái ý thức ra đời từ rất sớm. Trong lịch sử, ngay từ xã hội nguyên thủy sự ý thức về lương tâm, danh dự và lòng tự trọng phản ánh khả năng tự chủ của con người là sức mạnh đặc biệt của đạo đức, là nét cơ bản quy định gương mặt đạo đức của con người, cũng là biểu hiện bản chất của con người.

Từ ý nghĩa đó, sự phát triển đạo đức là nhân tố biểu hiện tiến bộ xã hội. Trong ý thức đạo đức, yếu tố tình cảm đạo đức là yếu tố đặc biệt quan trọng. Nếu thiếu nó thì những khái niệm, phạm trù đạo đức và mọi tri thức đạo đức thu nhận được bằng con đường lí tính không thể chuyển hóa thành hành vi đạo đức. Trong tiến trình phát triển của xã hội đã hình thành những giá trị đạo đức mang tính toàn nhân loại, tồn tại trong mọi xã hội và ở các hệ thống đạo đức khác nhau. Đó là những quy tắc ứng xử đơn giản nhằm điều chỉnh hành vi và các sinh hoạt thường ngày của con người trong cộng đồng xã hội.

Tuy nhiên, trong một xã hội có sự phân chia giai cấp thì nội dung chủ yếu của đạo đức phản ánh quan hệ giai cấp nên nó có tính giai cấp. Trong các phạm trù đạo đức luôn luôn phản ánh địa vị và lợi ích của giai cấp. Mỗi giai cấp trong những giai đoạn phát triển nhất định của lịch sử xã hội đều có những quan niệm đạo đức của riêng mình. Giai cấp tiêu biểu cho sự phát triển đi lên của xã hội thì đại diện cho một nền đạo đức tiến bộ. Còn các giai cấp phản động thì đại diện cho một đạo đức suy thoái

Vd: Từ xa xưa, ông cha ta đã đúc rút ra những bài học về đạo đức để răn dạy con người, thể hiện qua những câu ca dao, tục ngữ như:

+Về đạo làm con:

Cá không ăn muối cá ươn

Con cãi cha mẹ trăm đường con hư.

Công cha nghĩa mẹ ơn thầy,

Ngày sau khôn lớn ơn dày biển sâu.

Công cha như núi Thái Sơn

Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra

Một lòng thờ mẹ kính cha

Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con.

+Về quy tắc ăn nói, giao tiếp, cư xử:

Kính trên, nhường dưới

Xét về đối tượng, khoa học chia thành khoa học tự nhiên – kỹ thuật nghiên cứu các quy luật của tự nhiên, các phương thức chinh phục và cải tạo tự nhiên và khoa học xã hội nghiên cứu những hiện tượng xã hội khác nhau, các quy luật vận động, phát triển của chúng và có cả bản thân con người như là một thực thể xã hội. Triết học cũng được coi là một khoa học bởi nó nghiên cứu những quy luật chung nhất của mọi tồn tại trong tự nhiên, xã hội và tư duy, xây dựng nên phương pháp luận chung cho việc nghiên cứu tự nhiên, xã hội và tư duy.

Trong mỗi khoa học có thể phân chia thành các cấp độ kinh nghiệm và lý luận [hay lí thuyết]. Cấp độ kinh nghiệm là những tư liệu hiện thực đã tích lũy được qua sự tổng hợp quan sát, thí nghiệm; lý luận là sự khái quát kinh nghiệm thể hiện trong những lý thuyết về quy luật và nguyên lý tương ứng. Cấp độ lý luận của các khoa học cụ thể kết hợp với nhau trong sự giải thích các nguyên lý và quy luật chung được phát hiện ở tầm nghiên cứu triết học, hình thành thế giới quan và phương pháp luận của toàn bộ nhận thức khoa học.

Nguồn gốc sâu xa của khoa học là do nhu cầu phát triển sản xuất. Cùng với sự phát triển của sản xuất và thực tiễn xã hội, khoa học cũng không ngừng phát triển. Trong quá trình đó, vai trò của khoa học trong đời sống xã hội ngày càng tăng lên. Ngày nay, trong sự tự động hóa sản xuất, tri thức khoa học được kết tinh trong mọi nhân tố của lực lượng sản xuất - trong đối tượng lao động, kỹ thuật, quá trình công nghệ và cả trong những hình thức tổ chức tương ứng của sản xuất; người lao động không còn là nhân tố thao tác trực tiếp trong hệ thống kỹ thuật mà chủ yếu là vận dụng tri thức khoa học để điều khiển quá trình sản xuất; khoa học cho phép hoàn thiện các phương pháp sản xuất, hoàn thiện việc quản lý kinh tế. Hơn nữa khoa học còn trở thành một ngành hoạt động sản xuất với quy mô ngày càng lớn, bao hàm hàng loạt các viện, phòng thí nghiệm, trạm, trại, xí nghiệp với số cán bộ khoa học ngày càng tăng, vốn đầu tư ngày càng lớn, hiệu quả đầu tư ngày càng cao. Do

những biến đổi căn bản về vai trò của khoa học đối với sản xuất mà khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. VD: Các định luật của Newton về chuyển động là tập hợp của 3 định luật cơ học phát biểu bởi nhà bác học Isaac Newton, đặt nền tảng cho cơ học cổ điển [còn gọi là cơ học Newton]. Nội dung 3 định luật:

 Định luật 1 Newton : Nếu một vật không chịu tác dụng của lực nào hoặc chịu tác dụng của các lực có hợp lực bằng không thì nó giữ nguyên trạng thái đứng yên hoặc chuyển động thẳng đều.  Định luật 2 Newton : Gia tốc của một vật cùng hướng với lực tác dụng lên vật. Độ lớn của gia tốc tỉ lệ thuận với độ lớn của lực và tỉ lệ nghịch với khối lượng của vật.  Định luật 3 Newton : Trong mọi trường hợp, khi vật A tác dụng lên vật B một lực, thì vật B cũng tác dụng lại vật A một lực. Hai lực này có cùng giá trị, cùng độ lớn, nhưng ngược chiều.

5. Ý thức thẩm mĩ Đối với phần ý thức thẩm mĩ, thì đây là sự phản ánh hiện thực vào ý thức con người trong quan hệ với nhu cầu thưởng thức và sáng tạo cái Đẹp. Trong các hoạt động thưởng thức và sáng tạo cái đẹp nghệ thuật là biểu hiện cao nhất của ý thức thẩm mĩ. Ví dụ: với tư cách là một hình thái ý thức xã hội, khi phản ánh về con người nói chung, khoa học chỉ quan tâm về những gì mà nó vốn có [cấu tạo cơ thể con người gồm những bộ phận nào; chức năng cụ thể của từng bộ phận này ra sao; ....] còn các nghệ sĩ thì lại quan tâm phản ánh đến đời sống tâm hồn, tâm tư tình cảm con người; đặc biệt là đi sâu tìm tòi phát hiện ra những vẻ đẹp tiềm ẩn từ sâu bên trong những con người bình dị, đời thường

dối; nghệ thuật chỉ có thể là tiếng đau khổ kia, thoát ra từ những kiếp lầm than...” [trích tác phẩm “ Trăng sáng” của Nam Cao]

Khi phản ánh thế giới hiện thực trong các hình tượng nghệ thuật chân thực và có giá trị thẩm mĩ cao, nghệ thuật đã tác động đến lí trí và tình cảm của con người, kích thích tính tích cực của con người, sẽ nuôi dưỡng cho con người những hành vi đạo đức tốt đẹp.

Trong xã hội có sự phân chia giai cấp, bao giờ nghệ thuật cũng mang tính giai cấp. Tính giai cấp của nghệ thuật biểu hiện trước hết ở chỗ nó không thể không chịu sự tác động của thế giới quan, các quan điểm chính trị của một giai cấp, không thể đứng ngoài chính trị và các quan hệ kinh tế. Trong xã hội chia thành các giai cấp mà phủ nhận mối liên hệ của nghệ thuật với chính trị thì hoàn toàn sai lầm. Khi nhấn mạnh tính giai cấp của nghệ thuật, trong xã hội có giai cấp, quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin không phủ nhận tính nhân loại chung của nó, không ít tác phẩm nghệ thuật mà giá trị của chúng được lưu truyền khắp thế giới qua các thời đại mặc dù tác giả là đại biểu của một giai cấp nhất định. Có những nền nghệ thuật của một dân tộc nhất định nhưng đã trở thành những giá trị văn hóa tiểu biểu của cả nhân loại. Tính giai cấp của nghệ thuật, cách mạng và tiến bộ không những không mâu thuẫn với tính nhân loại mà ngược lại còn làm rõ sâu sắc giá trị toàn nhân loại.

VD: Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta luôn đánh giá cao vai trò của văn nghệ, của các văn nghệ sĩ, đồng thời cũng đòi hỏi ở văn nghệ và văn nghệ sĩ tinh thần trách nhiệm cao cả đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

6. Ý thức tôn giáo

Phần tiếp theo đó chính là ý thức tôn giáo. Nói về bản chất của tôn giáo, Ăng ghen viết: “ Tất cả mọi tôn giáo chẳng qua chỉ là sự phản ánh hư ảo vào trong đầu óc con người – của những lực lượng bên ngoài chi phối cuộc sống hàng ngày của họ, chỉ là sự phản ánh trong đó những lực lượng ở trần thế đã mang những hình thức siêu trần thế ”.

Nguồn gốc của tôn giáo phải tìm trong tồn tại xã hội, trong quan hệ giữa con người với tự nhiên lẫn trong các quan hệ xã hội của con người. Khi những công cụ lao động và phương tiện sản xuất còn kém phát triển, con người dễ cảm thấy yếu đuối bất lực trước giới tự nhiên. Sự bất lực và sợ hãi của con người trước những sức mạnh của giới tự nhiên là một trong những nguồn gốc của tôn giáo. Nguồn gốc của tôn giáo còn nằm trong những mối quan hệ xã hội. Trong điều kiện xã hội có áp bức giai cấp và có tính tự phát còn là những đặc trưng của sự phát triển xã hội. Những quy luật xã hội biểu hiện như những thế lực mù quáng, trói buộc con người và thường xuyên quyết định đến số phận của họ khiến con người sợ hãi đó là một trong những nguồn gốc của tôn giáo

Ý thức tôn giáo với tính cách là hình thái xã hội gồm có tâm lí tôn giáo và hệ tư tưởng tôn giáo. Tâm lý tôn giáo là toàn bộ những biểu tượng, tình cảm, tâm trạng thói quen của quần chúng về tín ngưỡng tôn giáo. Hệ tư tưởng tôn giáo là hệ thống giáo lý do các giáo sĩ, các nhà thần học tạo ra và truyền bá trong xã hội. Đứng về mặt lịch sử, tâm lí tôn giáo và hệ tư tưởng tôn giáo là hai giai đoạn phát triển của ý thức tôn giáo nhưng chúng liên hệ tác động qua lại và bổ sung nhau. Tâm lí tôn giáo đem lại cho hệ tư tưởng tôn giáo một tính chất đặc trưng, một sắc thái tình cảm riêng. Hệ tư tưởng tôn giáo thuyết minh những hiện tượng tâm lí tôn giáo, khái quát chúng và làm cho chúng biến đổi theo một chiều hướng nhất định. Ý thức tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội thực hiện chủ yếu chức năng chủ yếu của mình là chức năng đền bù – hư ảo trong một xã hội cần đến sự đền bù – hư ảo.

  • Con người có sống chết nhưng linh hồn thì tồn tại mãi và luôn hồi qua nhiều kiếp khác nhau chỉ khi nào Át man hoà nhập với Braman thì mới chấm dứt được thuyết luân hồi

7. Ý thức triết học

Cuối cùng đó chính là ý thức Triết học. Đây là loại ý thức đặc biệt và cao nhất của tri thức cũng như của các ý thức xã hội. Triết học nhất là Triết học Mác-Lênin cung cấp cho con người tri thức về thế giới như một chỉnh thể thông qua việc tổng kết toàn bộ lịch sử phát triển của khoa học và chính bản thân triết học. Khi đánh giá mối liên hệ của tinh thần với triết học, Hêghen khẳng định: “Xét từ góc độ tinh thần, chúng ta có thể gọi Triết học là cái cần thiết nhất.” Với Mác thì “mọi triết học chân chính đều là tinh hoa về mặt tinh thần của thời đại mình” nên nhất định sẽ có thời kì mà triết học, không chỉ về bên trong, theo nội dung của nó mà về cả bên ngoài, theo sự biểu hiện của nó, sẽ tiếp xúc và tác động qua lại với thế giới hiện thực của thời đại mình. “Lúc đó triết học sẽ khong còn là một hệ thống nhất định đối với các hệ thống nhất định khác, nó trở thành triết học nói chung đối với thế giới, trở thành triết học của thế giới hiện đại. Những biểu hiện bên ngoài chứng minh rằng triết học đã có ý nghĩa khiến cho nó trở thành linh hồn sống của văn hóa...”

Đồng thời, với tư cách là một hình thái ý thức xã hội, triết học nói chung và nhất là triết học duy vật biện chứng nói riêng, có sứ mệnh trở thành thế giới quan, mà cơ sở và hạt nhân của thế giới quan đó là tri thức. Chính thế giới quan đó giúp con người trả lời cho các câu hỏi được nhân loại từ xưa tới nay thường xuyên đặt ra cho mình. Chẳng hạn, thế giới xung quan ta là gì? Thế giới ấy có điểm bắt đầu và điểm kết thúc hay không? Sức mạnh nào chi phối sự tồn tại và sự biến đổi đó? Con người là gì và sinh ra từ đâu và có quan hệ như thế nào với thế giới ấy? Cuộc sống

của con người có ý nghĩa gì? Con người có vị trí nào trong thế giới đó? v... Như vậy, thế giới quan triết học bao hàm trong nó cả nhân sinh quan. Trong thời đại hiện nay, thế giới quan khoa học chân chính nhất là thế giới quan triết học duy vật biện chứng. Triết học duy vật biện chứng có vai trò to lớn để nhận thức đúng đắn ý nghĩa và vai trò của các hình thái ý thức xã hội khác; để xác định đúng đắn vị trí của những hình thái ấy trong cuộc sống và trong xã hội để nhận thức tính quy luật cùng những đặc điểm và sự phát triển của chúng.

VD: Ý thức được sự vận động phát triển của xã hội việt nam từ chế độ phong kiến lên chủ nghĩa xã hội.

Ý thức được mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong xã hội. Như trong quá trình khai thác than, nếu mỗi người làm việc tách biệt nhau, không có sự phối hợp giữa các cá nhân, không nghe lời chỉ đạo..ức không tồn tại mqh giữa những con người [qhsx] thì không thể khai thác than hiệu quả.

Chủ Đề