Rủi ro trong ngân hàng là gì


TS Phí Trọng Hiển

Trong quá trình tồn tại, hoạt động các ngân hàng luôn phải đối phó với rất nhiều vấn đề, mà quan trọng nhất là duy trì được thường xuyên tình trạng cân đối giữa nhu cầu và khả năng có được nguồn vốn trong mọi điều kiện để đảm bảo sự ổn
định, vững chắc về tài chính cho ngân hàng và làm thoả mãn nhu cầu của khách hàng. Muốn vậy, các nhà quản trị ngân hàng không thể không tập trung vào vấn đề quản trị rủi ro khi muốn tối đa hoá lợi nhuận và đưa ra được các biện pháp giảm thiểu thiệt hại cho ngân hàng. Trên thực tế, rủi ro ngân hàng có thể xuất hiện tại tất cả các nghiệp vụ của ngân hàng như: thanh toán, tín dụng, tiền gửi, ngoại tệ, đầu tư... Vì vậy, vấn đề rủi ro ngân hàng luôn được các ngân hàng luôn tại các nước phát triển đặc biệt chú trọng nghiên cứu, phân tích, thậm chí ngay cả khi nền kinh tế đang rất ổn định.

Liên quan đến sự gia tăng ảnh hưởng của rủi ro lên thị trường tài chính, một trong những vấn đề bức thiết của quản trị ngân hàng hiện nay là quản trị rủi ro - sử dụng các biện pháp khác nhau để xác định mức độ rủi ro dự báo có thể xảy ra trong hoạt động và đưa ra được các giải pháp để giảm thiểu mức độ của từng loại rủi ro. Phương pháp xác định và đánh giá rủi ro phải thường xuyên thay đổi cho phù hợp, bởi nó liên quan đến nhiều yếu tố, trong đó có cả những yếu tố phát sinh từ bản thân ngân hàng và cả các yếu tố nằm ngoài khả năng điều chỉnh của ngân hàng. Thông qua hệ thống quản trị rủi ro, mục tiêu và nhiệm vụ trong chính sách phát triển của các ngân hàng được phản ánh rõ rệt.

1. Cơ sở lý thuyết

Quản trị rủi ro là một quá trình quan trọng được dựa trên cơ sở kết hợp lý thuyết xác suất và lý thuyết rủi ro. Nó phụ thuộc vào chính sách của từng ngân hàng trên mức độ vi mô và của Ngân hàng Nhà nước trên mức độ vĩ mô.

1.1. Một số nguyên tắc cơ bản
Quản trị rủi ro ngân hàng được dựa trên hàng loạt những nguyên tắc, trong đó bao gồm một số nguyên tắc cơ bản:

Một là, nguyên tắc chấp nhận rủi ro. Các nhà quản trị ngân hàng cần phải chấp nhận rủi ro ở mức cho phép nếu như mong muốn có được thu nhập phù hợp từ những hoạt động nghiệp vụ của mình. Dĩ nhiên, mỗi nghiệp vụ cụ thể sau khi đánh giá mức độ rủi ro các ngân hàng thương mại [NHTM] cần xây dựng chiến thuật phòng chống rủi ro; tuy nhiên, loại bỏ hoàn toàn rủi ro trong hoạt động ngân hàng là không thể, bởi vì rủi ro ngân hàng là sự hiện hữu khách quan vốn có trong các nghiệp vụ của ngân hàng. Do đó, nguyên tắc đầu tiên trong quá trình quản trị rủi ro đối với các nhà quản trị ngân hàng là phải nhận biết những rủi ro cho phép. Việc chấp nhận mức độ, loại rủi ro ngân hàng nào chính là điều kiện quan trọng để điều tiết những tác động tiêu cực của chúng trong quá trình quản lý rủi ro.

Hai là, nguyên tắc điều hành rủi ro cho phép. Nguyên tắc này đòi hỏi phần lớn rủi ro trong gói rủi ro cho phép phải có khả năng điều tiết trong quá trình quản lý, mà không phụ thuộc vào những hoàn cảnh khách quan và chủ quan của nó. Chỉ đối với những loại rủi ro như vậy thì các nhà quản trị ngân hàng mới có thể sử dụng tất cả những vũ khí, nghệ thuật của mình để điều tiết chúng. Ngoài ra, đối với các loại rủi ro không có khả năng điều chỉnh cần phải được chuyển đẩy sang các công ty bảo hiểm bên ngoài.

Ba là, nguyên tắc quản lý độc lập các rủi ro riêng biệt. Một trong những nguyên lý cơ bản của lý thuyết quản trị rủi ro là các loại rủi ro khá độc lập với nhau và sự thiệt hại do một loại nào đó trong gói rủi ro cho phép gây nên không nhất thiết sẽ làm tăng xác suất xảy ra với các loại rủi ro khác. Nói cách khác, về nguyên tắc sự thiệt hại đối với ngân hàng do các loại rủi ro khác nhau gây nên là khá độc lập với nhau và quá trình quản lý chúng cần phải được điều tiết riêng biệt, không thể gộp các loại rủi ro khác nhau vào một nhóm để đưa ra cùng một phương pháp điều hành.

Bốn là, nguyên tắc phù hợp giữa mức độ rủi ro cho phép và mức độ thu nhập. Nguyên tắc này là nền tảng của lý thuyết quản trị rủi ro. Các ngân hàng trong quá trình hoạt động của mình chỉ được phép chấp nhận các loại, mức độ rủi ro mà thiệt hại khi chúng xảy ra ở mức không được cao quá mức thu nhập phù hợp. Có nghĩa rằng, tất cả các loại rủi ro có mức độ rủi ro cao hơn mức độ thu nhập mong đợi cần phải được loại bỏ.

Năm là, nguyên tắc phù hợp giữa mức độ rủi ro cho phép và khả năng tài chính. Giá trị thiệt hại mà ngân hàng mong muốn từ những khoản rủi ro phải phù hợp với phần vốn mà ngân hàng có thể trích dự phòng cho những thiệt hại khi chúng xảy ra. Khi rủi ro xảy ra, nó kéo theo sự thiệt hại thu nhập, giảm tiềm năng lợi nhuận và nhịp độ phát triển của ngân hàng trong tương lai. Do đó, giá trị thiệt hại phải phù hợp với mức vốn dự phòng của ngân hàng và ngân hàng phải xác định được mức độ [dự báo] phù hợp, bao gồm cả những khoản rủi ro không thể chuyển được sang cho đối tác hay các công ty bảo hiểm bên ngoài.

Sáu là, nguyên tắc hiệu quả kinh tế. Mục đích cơ bản của việc quản lý rủi ro ngân hàng là điều tiết những tác động tiêu cực của rủi ro khi xảy ra. Cùng với điều này, chi phí của ngân hàng bỏ ra để điều tiết phải thấp hơn giá trị thiệt hại do những rủi ro ngân hàng có khả năng xảy ra và thậm chí ở mức độ giá trị cao nhất khi chúng xảy ra.

Bảy là, nguyên tắc hợp lý về thời gian. Thời gian tồn tại của một nghiệp vụ ngân hàng càng lâu thì biên độ xảy ra rủi ro càng lớn, khả năng điều tiết những tác động tiêu cực của nó và tính kinh tế của quản lý rủi ro càng thấp. Khi bắt buộc phải tồn tại các nghiệp vụ này thì ngân hàng phải đảm bảo có mức độ thu nhập phụ trội cần thiết không chỉ vì lợi nhuận mà còn vì mục đích bù đắp những chi phí để điều tiết tác động của rủi ro trong trường hợp chúng xảy ra.

Tám là, nguyên tắc phù hợp với chiến lược chung của ngân hàng. Hệ thống quản lý rủi ro cần phải được dựa trên nền tảng những tiêu chí chung của chiến lược phát triển của ngân hàng cũng như các chính sách điều hành từng hoạt động riêng biệt của ngân hàng.

Chín là, nguyên tắc chuyển đẩy các loại rủi ro không cho phép. Nguyên tắc này đòi hỏi các loại rủi ro nằm trong gói rủi ro cho phép phải có khả năng/tính chuyển đẩy cao. Các loại rủi ro không tương thích với khả năng của ngân hàng trong việc điều tiết những hậu quả tiêu cực khi chúng xảy ra hay không phù hợp với những yêu cầu cụ thể của chiến lược và chính sách điều hành hoạt động của ngân hàng cần phải được loại bỏ khỏi gói rủi ro cho phép. Hay nói cách khác, chúng chỉ được cho vào khi có khả năng chuyển đẩy cao sang các đối tác hoặc các công ty bảo hiểm bên ngoài.

Trên đây là 9 nguyên tắc cơ bản để từ đó mỗi ngân hàng xây dựng cho mình một chính sách quản trị rủi ro ngân hàng riêng biệt. Chính sách quản trị rủi ro ngân hàng phải được xem là một cấu phần trong chiến lược hoạt động chung của ngân hàng và nó đòi hỏi phải xây dựng được một hệ thống phòng chống từ xa, đưa ra được giải pháp nhằm điều tiết các tác động xấu đến tình hình tài chính của ngân hàng.

1.2. Những giai đoạn cơ bản

Sự hình thành và thực thi chính sách quản trị rủi ro ngân hàng thông thường cần phải được thực hiện qua những giai đoạn cơ bản sau:

Thứ nhất, nhận diện các loại rủi ro ngân hàng. Hiệu quả của việc quản trị rủi ro phụ thuộc rất nhiều vào việc phân loại rủi ro. Phân loại rủi ro được hiểu là việc phân rủi ro thành từng nhóm riêng biệt theo dấu hiệu của chúng. Cơ sở khoa học về việc phân loại rủi ro đã tạo điều kiện cho các nhà quản trị ngân hàng có thể xác định rõ ràng vị trí của từng loại rủi ro trong hệ thống rủi ro. Việc phân loại rủi ro hợp lý sẽ giúp nâng cao khả năng và hiệu quả áp dụng những phương pháp phù hợp trong việc quản trị rủi ro.

Việc phân loại rủi ro xuất phát từ nhiệm vụ phân tích hoạt động của ngân hàng và hoàn thiện các phương pháp quản trị rủi ro, nó tạo điều kiện giải quyết những vấn đề quan trọng làm rõ các chỉ số cơ bản để đánh giá tính hiệu quả của ngân hàng, xác định những yếu tố bên trong và bên ngoài ảnh hưởng đến kết quả tiềm năng mà ngân hàng có thể đạt được. Thông thường rủi ro được phân theo những loại sau: rủi ro tín dụng, rủi ro thị trường, rủi ro lãi suất, rủi ro thanh khoản, rủi ro hoạt động, rủi ro luật pháp Nhưng bởi vì có nhiều loại rủi ro khác nhau, không có cùng mức độ ảnh hưởng đến sự vững chắc của ngân hàng và hình thành từ nhiều yếu tố khác nhau, có mức độ khác nhau nên không thể cùng áp dụng một loại phương pháp đánh giá và quản trị chung. Kinh nghiệm của thế giới đã chỉ ra nhiều yếu tố khác nhau mà chúng có thể làm nền tảng cho việc phân loại rủi ro ngân hàng, bao gồm những yếu tố cơ bản.

Thứ hai, phân tích rủi ro. Phân tích rủi ro được bắt đầu từ việc làm sáng tỏ nguồn gốc và nguyên nhân của chúng. Quan trọng nhất trong công việc này là xác định chính xác nguồn gốc của rủi ro, khả năng thiệt hại cũng như lợi nhuận từ những nghiệp vụ ngân hàng có tiềm ẩn rủi ro. Việc phân tích sẽ giúp ngân hàng lựa chọn kịp thời những giải pháp tối ưu trong nhiều giải pháp khác nhau.


Thứ ba, đánh giá rủi ro. Đánh giá rủi ro tạo điều kiện cho các nhà quản trị ngân hàng xác định đại lượng của rủi ro ngân hàng. Tính chuẩn mực của việc đánh giá những thiệt hại dự báo phụ thuộc vào việc lựa chọn phương pháp đánh giá rủi ro. Hiện nay trên thực tế có 3 phương pháp cơ bản sau:
- Phương pháp thống kê: Bản chất của phương pháp này là dựa trên việc tính toán xác suất xảy ra thiệt hại đối với những nghiệp vụ được nghiên cứu.
- Phương pháp kinh nghiệm: Nếu như phương pháp thống kê dựa trên việc thống kê các thông tin đã được lựa chọn thì phương pháp kinh nghiệm được hình thành trên kinh nghiệm của các chuyên gia. Để chính xác hơn các nhà quản trị ngân hàng có thể kết hợp hai phương pháp này với nhau.
- Phương pháp tính toán - phân tích: Phương pháp này xây dựng lên đường cong xác suất thiệt hại và đánh giá rủi ro ngân hàng dựa trên nền tảng toán ứng dụng. Tuy nhiên, việc đánh giá rủi ro tài chính, rủi ro tín dụng và những rủi ro khác trên cơ sở toán ứng dụng về mặt lý thuyết chưa được hoàn thiện. Vì vậy, phương pháp này hiện nay trên thực tế chưa được ứng dụng.

Thứ tư, cảnh báo và giảm thiểu rủi ro. Trong hệ thống điều hành rủi ro ngân hàng, cơ chế điều tiết nội bộ đóng vai trò rất quan trọng. Cơ chế điều tiết nội bộ rủi ro ngân hàng là một hệ thống giảm thiểu tối đa những ảnh hưởng tiêu cực của rủi ro do bản thân ngân hàng xây dựng, lựa chọn và thực hiện. Hệ thống này hình thành trên những phương pháp cơ bản sau:
- Xây dựng những phương pháp phòng chống rủi ro từ xa đối với từng loại nghiệp vụ cụ thể;
- Xây dựng cơ chế giới hạn rủi ro thông qua các qui định giới hạn mức độ rủi ro cho phép cũng như đối với các nghiệp vụ ngân hàng;
- Đa dạng hoá các hình thức kinh doanh;
- Phân bố rủi ro cho các đối tác thông qua các nghiệp vụ ngân hàng;
- Tự bảo hiểm bằng việc trích lập dự phòng rủi ro.

Thứ năm, giám sát và kiểm tra. Giai đoạn tiếp theo của điều hành rủi ro ngân hàng là kiểm tra, giám sát rủi ro. Để phối hợp giữa việc thực hiện những mục tiêu của ngân hàng và việc kiểm tra mức độ rủi ro của ngân hàng cần phải xây dựng một hội đồng kiểm tra và quy chế về chính sách kiểm tra rủi ro. Việc thực hiện giám sát các chương trình kiểm tra rủi ro cho thấy: để nâng cao tính hiệu quả của các chương trình kiểm tra rủi ro đòi hỏi việc xây dựng những tiêu chuẩn đối với các chương trình này, trong đó bao gồm việc lựa chọn và phân tích thông tin. Hệ thống chỉ số điều tiết những hậu quả tiêu cực của các loại rủi ro ngân hàng riêng biệt bao gồm:
- Mức độ điều tiết thiệt hại cho ngân hàng;
- Tính hiệu quả của việc điều tiết [tương quan giữa chi phí bỏ ra và giá trị thiệt hại có khả năng xảy ra];
- Đánh giá tổng hợp các loại rủi ro và đưa ra các biện pháp điều tiết chúng.
Như vậy, quản trị rủi ro ngân hàng được xem như một hệ thống tổ chức độc lập và phức tạp với cơ cấu kiến trúc đa tầng. Một trong những vấn đề cơ bản đặt ra trong lĩnh vực quản trị rủi ro là hình thành tối ưu phương pháp phân loại rủi ro ngân hàng. Xác định rõ khái niệm rủi ro ngân hàng và bản chất quản trị chúng sẽ cho phép chi tiết hoá trong việc phân loại rủi ro.

2. Tình hình thực tế quản trị rủi ro ngân hàng trong hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam

Nhờ những biện pháp quản trị rủi ro tín dụng hiện đại nên trong nhiều năm qua tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ của các ngân hàng thương mại [NHTM] tính theo tiêu chuẩn Việt Nam đã giảm liên tục, từ 8,5% năm 2001 xuống 4,74% năm 2003 và đến cuối tháng 11/2004 xuống còn 4,4%. Xu hướng giảm dần nợ xấu là một cố gắng lớn của các NHTM trong việc nâng cao chất lượng tín dụng và ngăn ngừa nợ xấu. Tuy nhiên, nếu hạch toán theo tiêu chuẩn quốc tế thì nợ xấu trong các NHTM Việt Nam vẫn còn khá lớn. Bên cạnh đó, hệ số an toàn vốn của toàn hệ thống NHTM chưa đạt tới thông lệ quốc tế [³ 8%], rủi ro kỳ hạn và rủi ro tỷ giá lớn [chỉ có 28% nguồn vốn huy động là vốn trung, dài hạn và 29% trong tổng nguồn vốn huy động là bằng ngoại tệ] và khả năng sinh lời, hiệu quả sử dụng tài sản có còn thấp chưa tương xứng với mức độ rủi ro mà ngân hàng phải gánh chịu.

Trong khi hệ thống ngân hàng đang loay hoay giải quyết các vấn đề nội tại [như xây dựng, hoàn thiện và triển khai áp dụng sổ tay tín dụng, tái cơ cấu khu vực NHTM nhà nước, hoàn thiện Luật các Tổ chức tín dụng và nhiều văn bản khác] thì xu hướng toàn cầu hoá, áp lực lộ trình gia nhập các tổ chức quốc tế đã khiến các NHTM đứng trước những thách thức mới, cụ thể:

2.1. Dưới góc độ vĩ mô

Môi trường kinh tế vĩ mô trong nước chưa ổn định, nền kinh tế thị trường phát triển ở trình độ thấp, thể chế kinh tế thị trường chưa hoàn chỉnh, hệ thống pháp luật đảm bảo cho hoạt động của nền kinh tế thị trường chưa đồng bộ. Các chủ thể kinh tế hoạt động còn manh mún, chưa xây dựng được một thị trường văn minh, hiện đại. Tiến độ cải cách khu vực doanh nghiệp nhà nước chưa tương xứng với sự phát triển của thị trường nên dẫn đến tình trạng yếu kém về tài chính và hoạt động của khu vực này. Bên cạnh đó, cơ quan quản lý tiền tệ [Ngân hàng Nhà nước] còn chịu nhiều chi phối trực tiếp của Chính phủ và sự can thiệp của nhiều cơ quan chức năng trong quá trình xây dựng và thực hiện các chức năng quản lý, giám sát hoạt động ngân hàng. Mức độ can thiệp hành chính vào hoạt động ngân hàng còn lớn, quyền lợi và quyền tự chủ kinh doanh của các NHTM chưa được đảm bảo bằng pháp luật, đặc biệt khi xảy ra tranh chấp. Nhiều quy định, chính sách chưa phù hợp với nguyên tắc kinh tế thị trường và các thông lệ, chuẩn mực quốc tế, còn khá nhiều nghiệp vụ có tác dụng giảm thiểu và phân tán rủi ro chưa được đưa vào áp dụng rộng rãi, các chuẩn mực quốc tế về kiểm toán và giám sát hoạt động ngân hàng chưa đủ khả năng áp dụng - là những yếu tố chứa đựng nhiều tiểm ẩn nguy cơ rủi ro cho các NHTM Việt Nam khi tham gia vào các sân chơi quốc tế lớn.

2.2. Dưới góc độ vi mô

Bản thân các NHTM Việt Nam năng lực tài chính còn yếu kém, trình độ quản lý kinh doanh còn non yếu, công tác quản lý rủi ro ngân hàng lỏng lẻo, chưa được thực sự chú trọng và mang tính chuyên nghiệp; thu nhập từ hoạt động tín dụng vẫn chiếm tỷ lệ cao [trên 60%] và cho vay chủ yếu dựa vào tài sản đảm bảo. Trong khi đó, năng lực thẩm định tín dụng yếu, hệ thống phân loại nợ chưa phù hợp, nguyên tắc kiểm tra, kiểm soát nội bộ thiếu chặt chẽ, sản phẩm dịch vụ ngân hàng còn đơn điệu và chất lượng chưa cao; mặt khác, hoạt động phi tín dụng và dịch vụ chưa phát triển, các sản phẩm, dịch vụ tiên tiến ít rủi ro đi kèm chưa có môi trường để thực thi... đã bắt buộc chúng ta cần phải sớm chủ động xây dựng một hệ thống đồng bộ các giải pháp.

3. Hệ thống các giải pháp quản trị rủi ro ngân hàng

3.1 Đối với các NHTM

- Đẩy mạnh công tác kiểm soát nội bộ với mục tiêu quan trọng xây dựng được hệ thống tìm kiếm những xu hướng tiềm ẩn tiêu cực, bất ổn và thiếu sót trong hoạt động của ngân hàng để đưa ra biện pháp chấn chỉnh;
- Khi xây dựng chiến lược hoạt động cần phân tích, tính toán các điều kiện kinh tế vĩ mô, xu hướng phát triển của thị trường dịch vụ, thị trường vốn, trong đó có tính đến tình hình quốc tế;
- Chỉ chấp nhận các loại rủi ro cho phép đối với từng nghiệp vụ sau khi đã phân tích chi tiết trên tất cả các khía cạnh luật pháp và kinh tế;
- Tích cực áp dụng các khuyến nghị của ủy ban Basel về giám sát ngân hàng;
- Khi quyết định thực hiện các nghiệp vụ cần phân chia phù hợp nguồn vốn của ngân hàng với mức độ rủi ro cho phép;
- Nâng cao chất lượng chuyên nghiệp của cán bộ công nhân viên, đồng thời tập trung xây dựng thương hiệu cho ngân hàng với mục tiêu giảm thiểu rủi ro nhân lực và rủi ro hoạt động;
- Nâng cao độ mở thông tin hoạt động thông qua các báo cáo tình hình tài chính của ngân hàng với các đối tác, khách hàng và các tổ chức thanh tra, kiểm toán;
- Mở rộng hình thức đồng tài trợ với mục tiêu hợp lý hoá sử dụng nguồn vốn và giảm thiểu rủi ro;
- Cần xem xét ưu tiên quan hệ tín dụng đối với các ngành sản xuất hàng hoá xuât-nhập khẩu; tham gia vào các dự án đầu tư phát triển chuyển giao công nghệ; mở rộng tín dụng bán lẻ cho khách hàng là các doanh nghiệp nhỏ và vừa và tín dụng tiêu dùng.

3.2. Đối với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

- Phối hợp với các Bộ, ngành hoàn thiện hệ thống kế toán theo chuẩn mực kế toán quốc tế [IAS]. Xây dựng các giải pháp hoàn thiện phương pháp kiểm soát và kiểm toán nội bộ trong các tổ chức tín dụng [TCTD] và tiến tới theo các chuẩn mực quốc tế;
- Hoàn thiện mô hình tổ chức bộ máy thanh tra ngân hàng theo ngành dọc từ Trung ương xuống cơ sở và có sự độc lập tương đối về điều hành và hoạt động nghiệp vụ trong tổ chức bộ máy của Ngân hàng Nhà nước;
- Tiếp tục ứng dụng những nguyên tắc cơ bản về giám hiệu quả hoạt động ngân hàng của ủy ban Basel, cũng như việc tuân thủ những quy tắc thận trọng trong công tác thanh tra;
- Đưa ra các biện pháp hoàn thiện hệ thống giám sát ngân hàng theo các hướng cơ bản sau:
[1] Nâng cao chất lượng phân tích tình hình tài chính và phát triển hệ thống cảnh báo sớm những tiềm ẩn trong hoạt động của các TCTD, bao gồm việc phân tích báo cáo tài chính và xác định các điểm nhạy cảm;[2] Phát triển và thống nhất cách thức giám sát ngân hàng trên cơ sở lý luận và thực tiễn;[3] Xây dựng cách tiếp cận tới công việc đánh giá chất lượng điều hành rủi ro trong nội bộ các TCTD;[4] Nâng cao đòi hỏi kỹ thuật trong việc trích lập dự phòng rủi ro.
- Xây dựng hệ thống và các biện pháp kiểm soát luồng vốn quốc tế và nợ nước ngoài, trong đó tập trung vào cơ chế giám sát cho vay và vay bằng ngoại tệ của các NHTM để tránh rủi ro về tỷ giá, ngoại hối kỳ hạn, qua đó có những cảnh báo sớm cho các NHTM;
- Xây dựng hệ thống báo cáo đồng bộ để giảm thiểu khối lượng rủi ro và nâng cao chất lượng thông tin;
- Nâng cao tiêu chí trong việc cấp giấy phép và đòi hỏi kỹ thuật đối với các TCTD dựa trên những tiêu chuẩn về độ vững chắc tài chính và các chỉ số an toàn trong hoạt động của các TCTD.
- Tiếp tục tiến hành sắp xếp lại hệ thống ngân hàng, đẩy nhanh quá trình cổ phần hoá các NHTM nhà nước đồng thời gắn liền với việc niêm yết cổ phiếu trên thị trường chứng khoán để phân tán rủi ro;
- Tiếp tục hoàn thiện khung pháp lý và đẩy mạnh việc sử dụng các giấy tờ có giá như thương phiếu, chứng chỉ tiền gửi và các loại tín phiếu, trái phiếu của các NHTM. Triển khai mạnh hơn nữa trên thị trường tiền tệ các nghiệp vụ như repo đảo ngược, furture, option

3.3. Đối với các tổ chức kiểm toán

- Cùng với Ngân hàng Nhà nước xây dựng các nguyên tắc cơ bản và tiêu chí về kiểm toán ngân hàng trên cơ sở tiếp thu những đòi hỏi của quốc tế về các điều kiện trong hoạt động kiểm toán;
- Xây dựng và tiến hành áp dụng vào thực tế những tiêu chuẩn nâng cao chất lượng kiểm toán;
- Phối hợp tích cực với Ngân hàng Nhà nước trong việc trao đổi thông tin và xây dựng cách thức phân tích tình hình tài chính của các TCTD theo hướng phù hợp với các chuẩn mực quốc tế.

3.4. Về phía Chính phủ

- Tiếp tục đưa ra các giải pháp cơ cấu lại nền kinh tế, tập trung thúc đẩy hoạt động đầu tư, củng cố và phát triển hệ thống tài chính, thị trường chứng khoán và hệ thống ngân hàng;
- Nâng cao đủ mạnh tính độc lập cũng như tăng cường quyền hạn quản lý nhà nước về hoạt động tiền tệ cho Ngân hàng Nhà nước;
- Cải thiện môi trường thu hút đầu tư, bao gồm cả đầu tư nước ngoài vào nền kinh tế và khu vực ngân hàng sao cho phát triển phù hợp với cơ sở hạ tầng tài chính trong nước;
- Nâng cao tính minh bạch thông tin của tất cả các tổ chức thông qua ứng dụng các chuẩn mực kế toán quốc tế;
- Xem xét xây dựng biểu thuế phù hợp đối với các NHTM trên cơ sở so sánh với các loại hình kinh doanh khác. Biểu thuế được xác định không chỉ với mục tiêu ngân sách mà còn có tác dụng không làm tê liệt kinh doanh và gây ra hiện tượng kinh tế ngầm;
- Xây dựng hệ thống thông tin về các TCTD, các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài, về những dự án đầu tư trong tương lai trên lãnh thổ Việt Nam và xem xét độ mở thông tin đối với các dự án này.

Video liên quan

Chủ Đề