Quan hệ xã hội chủ yếu ở các quốc gia cổ đại phương Đông là gì

Chương II: XÃ HỘI CỔ ĐẠI

Bài 3: CÁC QUỐC GIA CỔ ĐẠI PHƯƠNG ĐÔNG

  Trên lưu vực các dòng sông lớn ở Châu Á và Châu Phi từ thiên niên kỷ IV [TCN] cư dân phương Đông đã biết tới nghề luyện kim, làm nông nghiệp và chăn nuôi gia súc. Họ đã xây dựng các quốc gia đầu tiên của mình, đó là xã hội có giai cấp đầu tiên mà trong đó thiểu số quý tộc thống trị đa số nông dân công xã và nô lệ. Quá trình hình thành và phát triển của Nhà nước ở các quốc gia cổ đại phương Đông không giống nhau, nhưng thể chế chung là chế độ quân chủ chuyên chế, mà trong đó vua là người nắm mọi quyền hành và được cha truyền, con nối.

  Qua bài học này chúng ta còn biết được Phương Đông là cái nôi của văn minh nhân loại, nơi mà lần đầu tiên con người đã biết sáng tạo ra chữ viết, văn học, nghệ thuật và nhiều tri thức khoa học khác.

I. Điều kiện tự nhiên và sự phát triển của các ngành kinh tế.

1. Điều kiện tự nhiên

– Thuận lợi: đất đai phù sa màu mỡ, gần nguồn nước tưới, thuận lợi cho sản xuất và sinh sống.

– Khó khăn: dễ bị lũ lụt, gây mất mùa, ảnh hưởng đến đời sống của nhân dân.

– Do thuỷ lợi, … người ta đã sống quần tụ thành những trung tâm quần cư lớn và gắn bó với nhau trong tổ chức công xã. Nhờ đó Nhà nước sớm hình thành nhu cầu sản xuất và trị thuỷ, làm thuỷ lợi.

2. Sự phát triển của các ngành kinh tế

– Nghề nông nghiệp tưới nước là gốc, ngoài ra còn chăn nuôi và làm thủ công nghiệp.

II.  Sự hình thành các quốc gia cổ đại.

– Cơ sở hình thành: Sự phát triển của sản xuất dẫn tới sự phân hoá giai cấp, từ đó Nhà nước ra đời.

– Các quốc gia cổ đại đầu tiên xuất hiện ở Ai Cập, Lưỡng Hà, Ấn Độ, Trung Quốc vào khoảng thiên niên kỷ thứ IV – III TCN.

III. Xã hội có giai cấp đầu tiên.

1. Nông dân công xã:

Chiếm số đông trong xã hội, ở họ vừa tồn tại “cái cũ”, vừa là thành viên của xã hội có giai cấp. Họ tự nuôi sống bản thân và gia đình, nộp thuế cho Nhà nước và làm các nghĩa vụ khác.

Do nhu cầu trị thuỷ và xây dựng các công trình thuỷ lợi khiến nông dân vùng này gắn bó trong khuôn khổ của công xã nông thôn. Ở họ tồn tại cả “cái cũ” [những tàn dư của xã hội nguyên thuỷ: cùng làm ruộng chung của công xã và cùng trị thuỷ], vừa tồn tại “cái mới” [đã là thành viên của xã hội có giai cấp: sống theo gia đình phụ hệ, có tài sản tư hữu,…] họ được gọi là nông dân công xã. Với nghề nông là chính nên nông dân công xã. Với nghề nông là chính nên nông dân công xã là lực lượng đông đảo nhất, có vai trò to lớn trong sản xuất, họ tự nuôi sống bản thân cùng gia đình và nộp thuế cho quý tộc, ngoài ra họ còn phải làm một số nghĩa vụ khác như đi lính, xây dựng các công trình.

2. Quý tộc:

Gồm các quan lại ở địa phương, các thủ lĩnh quân sự và những người phụ trách lễ nghi tôn giáo. Họ sống sung sướng dựa vào sự bóc lột nông dân.

Vốn xuất thân từ các bô lão đứng đầu các thị tộc, họ gồm các quan lại từ Trung Ương xuống địa phương. Tầng lớp này sống sung sướng [ở nhà rộng và xây lăng mộ lớn] dựa trên sự bóc lột nông dân: họ thu thuế của nông dân dưới quyền trực tiếp hoặc nhận bổng lộc của Nhà nước cũng do thu thuế của nông dân.

3. Nô lệ:

Chủ yếu là tù bình và thành viên công xã bị mắc nợ hoặc bị phạm tội. Họ phải làm các việc nặng nhọc và hầu hạ quý tộc. Cùng với nông dân công xã họ là tầng lớp bị bóc lột trong xã hội.

IV. Chế độ chuyên chế cổ đại.

– Quá trình hình thành Nhà nước là từ các liên minh bộ lạc, do nhu cầu trị thuỷ và xây dựng các công trình thuỷ lợi, các liên minh bộ lạc liên kết với nhau ® Nhà nước ra đời đề điều hành, quản lý xã hội. Quyền hành tập trung vào tay nhà vua tạo nên chế độ chuyên chế cổ đại.

– Chế độ Nhà nước do vua đứng đầu, có quyền lực tối cao [tự coi mình là thần thánh dưới trần gian, người chủ tối cao ủa đất nước, tự quyết định mọi chính sách và công việc] và giúp việc cho vua là một bộ máy quan liêu thì được gọi là chế độ chuyên chế cổ đại.

V. Văn hoá cổ đại phương Đông.

1. Sự ra đời của lịch và thiên văn học

– Thiên văn học và lịch là 2 ngành khoa học ra đời sớm nhất, gắn liền với nhu cầu sản xuất nông nghiệp.

Thiên văn học và lịch là 2 ngành khoa học ra đời sớm nhất, gắn liền với nhu cầu sản xuất nông nghiệp. Để cày cấy đúng thời vụ, người nông dân đều phải “trông Trời, trông Đất”. Họ quan sát sự chuyển động của mặt Trăng, mặt Trời và từ đó sáng tạo ra lịch – nông lịch [lịch nông nghiệp], lấy 365 ngày là một năm và chia làm 12 tháng [cư dân sông Nin còn dựa vào mực nước sông lên xuống mà chia làm 2 mùa: mùa mưa là mùa nước sông Nin lên; mùa khô là mùa nước sông Nin xuống, từ đó có kế hoạch gieo trồng và thu hoạch cho phù hợp].

– Việc tính lịch chỉ đúng tương đối, nhưng nông lịch thì có ngay tác dụng đối với việc gieo trồng.

– Mở rộng hiểu biết: Con người đã vươn tầm mắt tới trời, đất, trăng, sao vì mục đích làm ruộng của mình và nhờ đó đã sáng tạo ra hai ngành thiên văn học và phép tính lịch [trong tay chưa có nổi công cụ bằng sắt nhưng đã tìm hiểu vũ trụ…].

2. Chữ viết

– Nguyên nhân ra đời của chữ viết: do nhu cầu trao đổi, lưu giữ kinh nghiệm m.à chữ viết sớm hình thành từ thiên niên kỷ IV TCN.1`

– Ban đầu là chữ tượng hình, sau đó là tượng ý, tượng thanh.

– Tác dụng của chữ viết: đây là phát minh quan trọng nhất, nhờ nó mà chúng ta hiểu được phần nào lịch sử thế giới cổ đại.

3. Toán học

– Nguyên nhân ra đời: Do nhu cầu tính lại ruộng đất, nhu cầu xây dựng, tính toán … mà toán học ra đời.

– Thành tựu: Các công thức sơ đẳng về hình học, các bài toán đơn giản về số học … phát minh ra số 0 của cư dân Ấn Độ.

– Tác dụng: Phục vụ cuộc sống lúc bấy giờ và đề lại kinh nghiệm quý cho giai đoạn sau.

4. Kiến trúc

– Do uy quyền của các nhà vua mà hàng loạt các công trình kiến trúc đã ra đời: Kim tự tháp Ai Cập, vườn treo Babilon, Vạn Lý trường thành…

– Các công trình này thường đồ sộ thể hiện cho uy quyền của vua chuyên chế.

– Ngày nay còn tồn tại một số công trình như Kim tự tháp Ai Cập, Vạn lý trường thành, cổng Isơta thành babilon… Những công trình này là những kì tích về sức lao động và tài năng sáng tạo của con người.

Các quốc gia cổ đại phương Đông bắt đầu được hình thành vào khoảng cuối thế kỷ IV trước công nguyên, bao gồm: Ai Cập, Lưỡng Hà, Ấn Độ và Trung Quốc.

1. Sự hình thành các quốc gia cổ đại phương Đông

Châu Á và Đông bắc bộ Châu Phi là nơi phát nguyên của những nền văn minh cổ kính nhất của loài người. Ở đây đã từng phát sinh và phát triển những quốc gia chiếm hữu nô lệ tối cổ, xây dựng trên sự tan rã của chế độ công xã nguyên thủy và sự phân chia xã hội thành giai cấp. Những nền văn minh cổ kính đó trước sau đã lần lượt xuất hiện trên lưu vực những hệ thống sông ngòi lớn chạy dài trên một dải đất rộng, đi từ bờ biển phía đông Địa Trung Hải đến bờ biển Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương: đó là lưu vực sông Nin ở Ai Cập, lưu vực hai con sông Hoàng Hà và Trường Giang tạo nên vùng đồng bằng Hoa Bắc rộng lớn và phì nhiêu.

Những lưu vực sông lớn đó bị ngăn cách bởi những hệ thống núi non trùng điệp và những vùng sa mạc mênh mông: sa mạc Ả Rập ở phía đông Ai Cập, dãy núi Zagros ở phía đông Lưỡng Hà, dãy núi Himalaya và cao nguyên Pamir ở phía Bắc và Đông Bắc Ấn Độ, và vùng sa mạc nội, ngoại Mông ở phía Bắc và Tây Bắc Trung Hoa. Địa thế hiểm trở đó cùng với những phương tiện giao thông hết sức hạn chế thời cổ, đã làm cho các nền văn minh cổ đại nói trên xuất hiện và phát triển một cách tương đối độc lập, buổi đầu hầu như không có liên hệ gì với nhau, do đó mỗi nền văn minh có tính chất độc đáo của nó và mang màu sắc dân tộc đậm đà.

Nhìn chung, các lưu vực sông lớn nói trên là những miền đồng bằng rộng và phì nhiêu, rất thuận lợi cho sự phát triển của nông nghiệp: thủy lượng cao, khí hậu ấm áp, đất đai màu mỡ và dễ canh tác. Bởi vậy, những bộ lạc du cư sống rải rác trên các miền khác nhau của Châu Á và Đông Bắc Bộ châu Phi, từ thời đại nguyên thủy, đã sớm phát hiện và biết lợi dụng những điều kiện thiên nhiên thuận lợi đó để đến định cư ở những vùng thung lũng lớn và theo đòi nghề nông từ rất sớm. Tại những nơi ấy, nông nghiệp và đi đôi với nông nghiệp là thủ công nghiệp phát triển mạnh hơn; xã hội sớm phân hóa thành giai cấp và nhà nước cũng sớm ra đời.

Lịch sử của các quốc gia cổ đại phương Đông bắt đầu với sự hình thành xã hội chiếm hữu nô lệ và nhà nước chiếm hữu nô lệ vào khoảng cuối thiên niên kỷ IV trước công nguyên. Tuy nhiên, các quốc gia chiếm hữu nô lệ không ra đời cùng một lúc ở các vùng khác nhau của châu Á và châu Phi, cũng không kết thúc cùng một lúc ở các xã hội cổ đại khác nhau của phương Đông. Nếu ở Ai Cập và Lưỡng Hà, lần đầu tiên trong lịch sử xã hội loài người, nhà nước chiếm hữu nô lệ xuất hiện sớm nhất vào cuối thiên niên kỷ IV trước công nguyên, thì ở khu vực sông Ấn và sông Hằng, cũng như ở khu vực Hoàng Hà và Trường Giang, nhà nước đó xuất hiện muộn hơn một ít vào thiên niên kỷ III trước công nguyên.

Mặt khác nếu chúng ta xem sự sụp đổ của đế quốc Ba Tư hồi thế kỷ IV trước công nguyên và sự thành lập đế quốc Tần ở Trung Quốc thế kỷ III trước công nguyên là những sự kiện lịch sử đánh dấu sự tan rã của xã hội cổ đại ở miền Trung Cận Đông và ở Trung Quốc, thì xã hội Ấn Độ cổ đại còn kéo dài mãi đến những thế kỷ đầu tiên của công nguyên khi những quan hệ sản xuất phong kiến bắt đầu hình thành và phát triển ở miền Bắc Ấn.

2. Đặc điểm của các quốc gia cổ đại phương Đông

Các quốc gia cổ đại phương Đông đều có những đặc trưng chung của một xã hội chiếm hữu nô lệ, ví như việc phân chia xã hội thành hai giai cấp đối kháng: giai cấp quý tộc chủ nô thống trị và giai cấp nô lệ bị áp bức, bóc lột một cách tàn nhẫn và thô bạo nhất. Nhưng các quốc gia đó cũng có nhiều đặc điểm riêng làm cho người ta có thể phân biệt chúng với các quốc gia chiếm hữu nô lệ phương Tây như Hy Lạp và La Mã cổ đại bởi những đặc điểm riêng biệt chủ yếu là như sau:

  1. Các quốc gia cổ đại phương Đông ra đời ở thời kỳ mà sức sản xuất xã hội đang còn ở trình độ thấp kém, vào khoảng cuối của thời đại đồ đá mới tiến lên thời đại đồ đồng. Trình độ sức sản xuất thời ấy không cho phép các quốc gia đó phát triển chế độ chiếm hữu nô lệ của mình một cách nhanh chóng, khiến cho trước sau các quốc gia đó không trở thành những xã hội chiếm hữu nô lệ phát triển thành thục và điển hình.
  2. Sự tồn tại dai dẳng và ngoan cố của những tổ chức công xã nông thôn [hay công xã láng giềng], tàn tích của chế độ xã hội thị tộc thời nguyên thủy, và sự phát triển rất yếu ớt của chế độ tư hữu về ruộng đất trong các xã hội cổ đại phương Đông.
  3. Sự bảo tồn lâu dài của chế độ nô lệ gia trưởng và của các hình thức áp bức, bóc lột kiểu gia trưởng, việc sử dụng lao động của nô lệ chưa được phổ cập trong các ngành sản xuất xã hội và vai trò của nô lệ trong sản xuất kinh tế chưa chiếm địa vị chủ đạo.
  4. Sự xuất hiện và phát triển của một hình thức tổ chức nhà nước đặc biệt, nhà nước quân chủ chuyên chế trung ương tập quyền mạnh mẽ, gọi là chủ nghĩa chuyên chế phương Đông mà đặc trưng chủ yếu là quyền lực vô hạn của các đế vương, nắm quyền sở hữu tối cao về ruộng đất và về thần dân trong cả nước.

Những đặc điểm của chế độ chiếm hữu nô lệ của các quốc gia cổ đại phương Đông nêu trên, đều có thể coi là những nguyên nhân gây nên tình trạng trì trệ tương đối của các xã hội cổ đại phương Đông. Tuy nhiên không thể phủ nhận hoặc đánh giá thấp vai trò và vị trí của các quốc gia cổ đại phương Đông đối với tiến trình phát triển của xã hội loài người. Đó là vì phương Đông cổ đại là nơi chôn rau cắt rốn của những nền văn minh tối cổ của nhân loại, là nơi đặt nền móng cho một nền văn hóa vật chất và tinh thần mà những thành tựu rực rỡ của nó là những cống hiến vô cùng quý báu và phong phú cho kho tàng văn hóa của thế giới cổ kim.

Phương Đông cổ đại là nơi đã phát triển kinh tế rất sớm, đã trải qua một quá trình thống nhất về chính trị và hưng thịnh về văn hóa rất sớm. phương Đông cổ đại cũng là nơi dựng lên những kim tự tháp hùng vĩ, những đền đại, cung điện nguy nga, những bức trường thành vạn dặm, là nơi đã phát sinh ra những tư tưởng triết học duy vật và vô thần sớm nhất, nơi nảy sinh những tri thức đầu tiên của loài người về khoa học và kỹ thuật, về văn hóa và nghệ thuật.

Video liên quan

Chủ Đề