Phân tích bài thơ Thu điếu ngắn gợn nhất

Phân tích bài thơ Câu cá mùa thu của Nguyễn Khuyến. Dành tặng bạn đọc 34 mẫu phân tích bài thơ Câu cá mùa thu hay nhất do Bpackingapp.com tổng hợp nhé!

Phân tích bài thơ Câu cá mùa thu 1

Nguyễn Khuyến là người có cốt cách thanh cao và giàu lòng yêu nước, ông một lòng không hợp tác với kẻ thù. Ông được mệnh danh là “nhà thơ của dân tình, làng cảnh Việt Nam”. Ông để lại cho hậu thế nhiều tác phẩm thơ hay và đặc biệt là chùm ba bài thơ thu điển hình cho làng quê, phong cảnh Việt Nam. Trong đó nổi bật hơn cả là bài Câu cá mùa thu.

Nếu như ở bài Thu vịnh cảnh thu được đón nhận từ cao xa rồi mới đến gần thì bài Câu cá mùa thu khung cảnh thiên nhiên mùa thu lại được đón nhận ở một chiều kích khác: từ gần rồi tiến ra cao xa và từ cao xa trở về gần. Khung cảnh được mở ra với nhiều chiều hướng vô cùng sinh động.

Cảnh thu được mở ra với hình ảnh không gian hết sức trong trẻo:

Ao thu lạnh lẽo nước trong veo

Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo

Không khí mùa thu được gợi nên từ sự dịu nhẹ, nguyên sơ nhất của cảnh vật với làn nước trong veo, không một gợn đục. Mùa hè đã đi qua, những cơn mưa lớn với dòng nước đỏ đục đã không còn thay vào đó là cái thanh tĩnh, trong trẻo của làn nước, của cảnh vật. Trong không gian nhỏ hẹp ấy là hình ảnh của chiếc thuyền câu nhưng nó không hề lọt thỏm giữa không gian thiên nhiên mà lại rất hài hòa, cân xứng. Tác giả vẽ ra khung cảnh tưởng như đối lập ao thu – thuyền câu, nhưng kì thực chúng lại hòa quyện với nhau đến kì lạ. Bởi vật tác giả chọn là ao thu chứ không phải hồ thu – gợi cảm giác rộng lớn, choáng ngợp. Ao thu ấy khi có thuyền câu bên cạnh trở nên hài hòa, cân xứng và đậm chất khung cảnh làng quê Bắc Bộ Việt Nam. Hai câu thơ đầu gieo vần eo nhưng không hề gợi lên cảm giác eo hẹp, nhỏ bé, tù túng mà ngược lại gợi nên cái nhỏ nhắn, thanh thoát của cảnh vật.

Bức tranh thu tiếp tục được Nguyễn Khuyến phác họa ở cặp câu thơ tiếp theo:

Sóng biếc theo làn hơi gợn tí

Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo

Những đường nét của khung cảnh cũng hết sức mảnh mai với sóng hơi gợn tí, lá khẽ đưa vèo, dường như mọi chuyển động đều vô cùng nhẹ nhàng, thanh thoát. Vận dụng thủ pháp lấy động tả tĩnh Nguyễn Khuyến đã làm nổi bật sự tĩnh lặng tuyệt đối của không gian, của cảnh vật. Phải là không gian vô cùng yên tĩnh thì thi nhân mới có thể cảm nhận tiếng động thật khẽ, thật êm của cảnh vật, dù là sóng có gợn hay chiếc lá khẽ đưa, bằng giác quan tinh tế, nhạy cảm Nguyễn Khuyến đã nắm trọn từng khoảnh khắc của thiên nhiên. Sắc vàng nếu như ở những bài thơ khác chính là sắc màu chủ đạo, là điểm nhấn để gợi nhắc mùa thu thì trong câu thơ của Nguyễn Khuyến sắc vàng ấy cũng như bao sắc màu khác trong bức tranh: xanh của trời, trong veo của nước,… nó chỉ góp phần tạo nên đường nét hài hòa cho bức tranh, tuyệt nhiên không gợi cảm giác buồn bã của tâm trạng, hay héo úa của cảnh vật. Không chỉ vậy, cái hồn dân dã, vẻ đẹp mùa thu của làng quê Bắc Bộ còn được gợi lên từ những ngõ trúc quanh co:

Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt

Ngõ trúc quanh co khách vắng teo

Không gian được mở rộng ở chiều cao, tác giả hướng ánh mắt lên bầu trời để cảm nhận được cái “xanh ngắt” của bầu trời, và rất tự nhiên thu tầm nhìn về với ngõ trúc quanh co. Không gian mùa thu vô cùng tĩnh lặng. Mọi chuyển động đều quá nhẹ nhàng, êm ái không đủ để gợi nên âm thanh, duy chỉ có tiếng động của tiếng cá đớp mồi: “Cá đâu khẽ động dưới chân bèo”. Nhưng cái động đó kết hợp với từ “khẽ” lại chỉ càng nhấn mạnh, tô đậm hơn cái yên ắng, tĩnh mịch của cảnh vật. Với nghệ thuật lấy động tả tĩnh, Nguyễn Khuyến đã cho thấy cái thanh tĩnh tuyệt đối của làng quê Việt Nam trong cảnh thu thanh bình, dịu nhẹ.

Bài thơ có nhan đề là Câu cá mùa thu, nói về chuyện câu cá mà thực lại không phải vậy. Mượn chuyện câu cá để cảm nhận hết trời thu, cảnh thu vào cõi lòng mình. Hẳn Nguyễn Khuyến phải có tâm hồn thanh tĩnh đến tuyệt đối mới có thể có nhận đầy đủ vẻ đẹp của mùa thu: trong veo, cái hơi gợn tí của nước, độ rơi khẽ khàng của lá. Đặc biệt sự tĩnh lặng trong tâm hồn thi nhân được gợi lên một cách sâu sắc từ tiếng động duy nhất trong bài thơ là tiếng cá đớp mồi dưới chân bèo. Sự tĩnh lặng trong cảnh vật gợi cho người đọc cảm nhận về sự cô đơn, uẩn khúc trong tâm hồn nhà thơ. Trong bài các gam màu lạnh xuất hiện nhiều: trong veo, xanh ngắt,… dường như cái lạnh của thu thấm vào tâm hồn nhà thơ hay chính tâm hồn cô đơn của tác giả lan tỏa sang cảnh vật. Đặt trong bối cảnh đất nước đầy biến thiên lúc bấy giờ, có thể thấy bài thơ thể hiện tâm trạng đau buồn của Nguyễn Khuyến trước hiện tình đất nước đầy đau thương.

Bài thơ thể hiện tài năng sử dụng ngôn ngữ bậc thầy của Nguyễn Khuyến. Tiếng Việt trong sáng, giản dị nhưng lại diễn tả được tất cả nhưng gì tinh tế, đẹp đẽ nhất của cảnh vật, diễn tả được tâm trạng và tấm lòng của nhà thơ. Gieo vần “eo” – từ vận tài tình góp phần miêu tả không gian nhỏ hẹp và tâm trạng đầy uẩn khúc của tác giả. Nghệ thuật lấy động tả tĩnh gợi lên cái tĩnh lặng tuyệt đối của thiên nhiên.

Bài thơ Câu cá mùa thu với ngôn ngữ bậc thầy không chỉ cho người đọc thấy tài năng của Nguyễn Khuyến trong việc dùng từ. Mà đằng sau đó ta còn cảm nhận được một tâm hồn gắn bó tha thiết với thiên nhiên, đất nước, tấm lòng yêu nước thầm lặng nhưng không kém phần sâu nặng.

Phân tích bài thơ Câu cá mùa thu hay nhất 2

Mùa thu vốn là một đề tài quen thuộc trong thơ ca Việt Nam. Thu thường mang đến cho thi sĩ một nỗi buồn man mác, gợi nhớ hay nuối tiếc về một cái gì đó xa xôi, đầy bí ẩn. Dường như không ai vô tình mà không nói đến cảnh thu, tình thu khi đã là thi sĩ! Đến với Nguyễn Khuyến, chúng ta sẽ thấy được điều đó. Cảnh mùa thu trong thơ ông không phải là mùa thu ở bất cứ miền nào, thời nào, mà là mùa thu ở quê ông, vùng đồng chiêm Bắc Bộ lúc bấy giờ. Chỉ với bầu trời “xanh ngắt” [Thu vịnh], với cái nước “trong veo” của ao cá [Thu điếu], và cái “lưng giậu phất phơ màu khói nhạt, làn ao lóng lánh bóng trăng loe” [Thu ẩm]. Nguyễn Khuyến đã làm say đắm lòng bao thế hệ! Khi nhận xét về bải thơ Thu điếu của Nguyễn Khuyến, Xuân Diệu có viết: “Bài thơ thu vịnh là có thần hơn hết, nhưng ta vẫn phải nhận bài Thu điếu là điển hình hơn cả cho mùa thu của làng cảnh Việt Nam”. Vậy ta thử tìm hiểu xem thế nào mà “Thu điếu là điển hình hơn cả cho mùa thu của làng cảnh Việt Nam”?

Nếu như ở Thu vịnh, mùa thu được Nguyễn Khuyến đón nhận từ cái không gian thoáng đãng, mênh mông, bát ngát, với cặp mát hướng thượng, khám phá dần các tầng cao của mùa thu để thấy được: “Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao”, thì ở Thu điếu, nhà thơ không tả mùa thu ở một khung cảnh thiên nhiên rộng rãi, không phải là trời thu, rừng thu hay hồ thu, mà lại chỉ gói gọn trong một ao thu: ao chuôm là đặc điểm của vùng đồng chiêm trũng, vùng quê của Nguyễn Khuyến:

Ao thu lạnh lẽo nước trong veo

Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo

Câu thơ đầu tồn tại hai vần “eo”, câu thơ thể hiện sự co lại, đọng lại không nhúc nhích, cho ta một cảm giác lạnh lẽo, yên tĩnh một cách lạ thường. Không có từ “lẽo” và từ “veo” cũng đủ cho ta thấy cảnh tĩnh, nhưng thêm hai từ này lại càng thấy cảnh tĩnh hơn nữa. Khung ao tuy hẹp nhưng tác giả lại không bị giới hạn mà mở rộng ra nhiều chiều, trong cái không khí se lạnh đó dường như làm cho làn nước ao ở độ giữa thu, cuối thu như trong trẻo hơn. Những tưởng trong “ao thu lạnh lẽo” ấy, mọi vật sẽ không xuất hiện, thế mà thật bất ngờ: Khung ao không trống vắng mà có “một chiếc thuyền câu bé tẻo teo”. Có khung cảnh thiên nhiên và có dấu vết của cuộc sống con người, khiến cảnh thu thêm được phần nào ấm cúng. Chiếc thuyền “tẻo teo” trông thật xinh xắn. Câu thơ đọc lên, làm cho đối tượng miêu tả trở nên gần gũi và thân mật biết bao! Với hai câu mở đầu, nhà thơ sử dụng những từ ngữ gợi hình ảnh, tạo độ gợi cao: “lẽo”, “veo”, “tẻo teo” mang đến cho người đọc một nỗi buồn man mác, cảnh vắng vẻ, ít người qua lại. Và rồi hình ảnh:

Sóng biếc theo làn hơi gợn tí

Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo

Càng làm cho không khí trở nên tĩnh lặng hơn, nhà thơ đã dùng cái động của “lá vàng trước gió” để miêu tả cái tĩnh của cảnh thu làng quê Việt Nam. Những cơn gió mùa thu đã xuất hiện và mang theo cái lạnh trở về, khiến ao thu không còn “lạnh lẽo”, không còn tĩnh lặng nữa vì mặt hồ đã “gợn tí”, “lá vàng khẽ đưa vèo”, cảnh vật dường như đã bắt đầu thay đổi hẳn đi! Cơn “sóng biếc” nhỏ “hơi gợn tí” và chiếc lá “trước gió khẽ đưa vèo” tưởng như mâu thuẫn với nhau, nhưng thật ra ở đây Nguyễn Khuyến đã quan sát kĩ theo chiếc lá bay trong gió, chiếc lá rất nhẹ và thon thon hình thuyền, chao đảo liệng đi trong không gian, rơi xuống mặt hồ yên tĩnh. Quả là phải có một tâm hồn yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống thật sâu sắc thì Nguyễn Khuyến mới có thể cảm nhận được những âm thanh tinh tế, tưởng chừng như chẳng ai để ý đến như thế! Như trên đã nói: mở đầu bài thơ, tác giả sử dụng vần “eo” nhưng tác giả không bị giới hạn mà đã mở rộng không gian theo chiều cao, tạo nên sự khoáng đạt, rộng rãi cho cảnh vật:

Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt

Ngõ trúc quanh co khách vắng teo

Bầu trời thu xanh ngắt xưa nay vẫn là biểu tượng đẹp của mùa thu. Những áng mây không trôi nổi bay khắp bầu trời mà “lơ lửng”. Trước đây Nguyễn Du đã từng viết về mùa thu với:

Long lanh đáy nước in trời

Thành xây khói biếc non phơi bóng vàng

Nay Nguyễn Khuyến cũng thế. Mở ra không gian rộng, cảm hứng Nguyễn Khuyến lại trở về với khung cảnh làng quê quen thuộc cũng vẫn hình ảnh tre truc, vẫn bầu trời thu ngày nào, vẫn ngõ xóm quanh co…tất cả đều thân thương vè nhuốm màu sắc thôn quê Việt Nam. Chỉ đến với Nguyễn Khuyến, chúng ta mới thấy được những nét quê tĩnh lặng, êm ả như vậy. Trời sang thu, không khí giá lạnh, đường làng cũng vắng vẻ. “Ngõ trúc quanh co” cũng “vắng teo” không bóng người qua lại. Sau này Xuân Diệu trong bài Đây mùa thu tới cũng đã bắt đựơc những nét điển hình đó của sông nước ở vùng quê, khi trời đã bắt đầu bước vào những ngày giá lạnh:

Những luồng run rẩy rung rinh lá…

… Đã nghe rét mướt luồn trong gió

Đã vắng người sang những chuyến đò

Cùng với: Cành biếc run run chân ý nhi [Thu]

Thế rồi trong cái không khí se lạnh đó của thôn quê, những tưởng sẽ không có bóng dáng của con người, ấy vậy mà thật bất ngờ đối với người đọc:

Tựa gối buông cần, lâu chẳng được

Cá đâu đớp động dưới chân bèo.

Hai câu thơ kết thúc đã góp phần bộc lộ đôi nét về chân dung tác giả. Tôi nhớ không lầm dường như đã có tài liệu cho rằng: “tựa gối, ôm cần lâu chẳng được”, “ôm” chứ không phải là “buông”. Theo Việt Nam tự điển thì “buông” hay hơn, phù hợp với tính cách của nhà thơ hơn. Trong những ngày từ quan lui về ở ẩn, mùa thu câu cá, đó là thú vui của nhà thơ nơi làng quê để tiêu khiển trong công việc, để hoà mình vào thiên nhiên, mà quên đi những bận lòng với nước non, cho tâm hồn thanh thản. “Buông”: thả lỏng, đi câu không cốt để kiếm cái ăn [hiểu theo đúng nghĩa của nó], mà để giải trí, cho nên “ôm” không phù hợp với hoàn cảnh. Từ “buông” mang đến cho câu thơ hiệu quả nghệ thuật cao hơn.

Tóm lại, qua Thu điếu, ta phần nào thấy được tấm lòng của nhà thơ đối với thiên nhiên, đối với cuộc sống: chỉ có những ao nhỏ, những “ngõ trúc quanh co”, màu xanh của bầu trời, cũng đã làm say đắm lòng người. Thì ra mùa thu ở thôn quê chẳng có gì là xa lạ, mùa thu ở thôn quê chính là cái hồn của cuộc sống, cái duyên của nông thôn. Câu cuối này là thú vị nhất, vừa gợi được cảm giác, vừa biểu hiện đựơc cuộc sống ngây thơ nhất với sự việc sử dụng những âm thanh rất trong trẻo có tính chất vang ngân của những cặp vần, đã chiếm được cảm tình của độc giả, đã đọc qua một lần thì khó mà quên được.

Bài phân tích 3

Thu điếu nằm trong chùm thơ thu gồm ba bài nức danh nhất về thơ Nôm cùa Nguyễn Khuyến. Bài thơ nói lên một nét thu đẹp tĩnh lặng nơi làng quê xưa, biểu lộ mối tình thu đẹp mà cô đơn, buồn của một nhà Nho nặng tình với quê hương đất nước. Thu điếu cũng như Thu ẩm, Thu vịnh chỉ có thể được Nguyễn Khuyến viết vào thời gian sau khi ông đã từ quan về sống ở quê nhà [1884] Hai câu thơ: Ao thu lạnh lẽo nước trong veo – Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo mở ra một không gian nghệ thuật, một cảnh sắc mùa thu đồng quê. Chiếc ao thu nước trong veo có thể nhìn được rong rêu tận đáy, tỏa ra khí thu lạnh lẽo như bao trùm không gian. Không còn cái se lạnh đầu thu nữa mà là đã thu phân, thu mạt rồi nên mới lạnh lẽo như vậy. Trên mặt ao thu đã có một chiếc thuyền câu bé tẻo teo tự bao giờ. Một chiếc gợi tả sự cô đơn của thuyền câu. Bé tẻo teo nghĩa là rất bé nhỏ; âm điệu của vần thơ cũng gợi ra sự hun hút của cảnh vật [trong veo – bé tẻo teo]. Đó là một nét thu đẹp và êm đềm. Hai câu thực [Sóng nước theo làn hơi gợn tí – Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo] tả không gian hai chiều. Màu sắc hòa hợp, có sóng biếc với lá vàng. Gió thổi nhẹ cũng đủ làm cho chiếc lá thu màu vàng khẽ đưa vèo, làm cho sóng biếc lăn tăn từng làn từng làn hơi gợn tí. Phép đối tài tình làm nổi bật một nét thu, tô đậm cái nhìn thấy và cái nghe thấy. Ngòi bút của Nguyễn Khuyến rất tinh tế trong dùng từ và cảm nhận, lấy cái lăn tăn của sóng hơi gợn tí phối cảnh với độ bay xoay xoay khẽ đưa vèo của chiếc lá thu. Chữ vèo là một nhân tự mà sau này thi sĩ Tản Đà vừa khâm phục, vừa tâm đắc. Ông thổ lộ một đời thơ mới có được một câu vừa ý: vèo trông lá rụng đầy sân [cảm thu, tiễn thu].

Bức tranh thu được mở rộng dần ra qua hai câu thơ:

Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo.

Bầu trời thu xanh ngắt thăm thẳm, bao la. Áng mây, tầng mây lơ lửng nhè nhẹ trôi. Thoáng đãng, êm đềm, tĩnh lặng và nhẹ nhàng. Không một bóng người lại qua trên con đường làng đi về các ngõ xóm: Ngõ trúc quanh co khách vắng teo. Vắng teo nghĩa là vô cùng vắng lặng không một tiếng động nhỏ nào, cũng gợi tả sự cô đơn, trống vắng. Ngõ trúc trong thơ Tam nguyên Yên Đổ lúc nào cũng gợi tả một tình quê nhiều bâng khuâng, man mác:

Dặm thế, ngõ đâu từng trúc ấy Thuyền ai khách đợi bến đâu đây?

[Nhớ núi Đọi]

Ngõ trúc và tầng mây cũng là một nét thu đẹp và thân thuộc cùa làng quê. Thi sĩ như đang lặng ngắm và mơ màng đắm chìm vào cảnh vật.
Đến hai câu kết thì bức tranh thu mới xuất hiện một đối tượng khác:

Tựa gối ôm cần lâu chẳng được
Cá đâu đớp động dưới chân bèo.

Thu điếu nghĩa là mùa thu câu cá. Sáu câu đầu mới chỉ có cảnh vật: ao thu, chiếc thuyền câu, sóng biếc, lá vàng, tầng mây, ngõ trúc. Mãi đến phần kết mới xuất hiện người câu cá. Một tư thế nhàn: tựa gối ôm cần. Một sự đợi chờ: lâu chẳng được. Một cái chợt tỉnh khi mơ hồ nghe cá đâu đớp động dưới chân bèo. Người câu cá như đang ru hồn mình trong giấc mộng mùa thu. Người đọc nghĩ về một Lã Vọng câu cá chờ thời bên bờ sông Vị hơn mấy nghìn năm về trước. Chỉ có một tiếng cá đớp động sau tiếng lá thu đưa vèo, đó là tiếng thu của làng quê xưa. Âm thanh ấy hòa quyện với một tiếng trên không ngỗng nước nào, như đưa hồn ta về với mùa thu quê hương. Người câu cá đang sống trong một tâm trạng cô đơn và lặng lẽ buồn. Một cuộc đời thanh bạch, một tâm hồn thanh cao đáng trọng.
Xuân Diệu đã hết lời ca ngợi cái diệu xanh trong Thu điếu. Có xanh ao, xanh sóng, xanh trời, xanh tre, xanh bèo… và chỉ có một màu vàng của chiếc lá thu đưa vèo. Cảnh đẹp êm đềm, tĩnh lặng mà man mác buồn. Một tâm thế an nhàn và thanh cao gắn bó với mùa thu quê hương, với tình yêu tha thiết. Mỗi nét thu là một sắc thu, tiếng thu gợi tả cái hồn thu đồng quê thân thiết, vần thơ: veo – teo – vèo – teo – bèo, phép đối tạo nên sự hài hòa cân xứng, điệu thơ nhẹ nhàng bâng khuâng… cho thấy một bút pháp nghệ thuật vô cùng điêu luyện, hồn nhiên – đúng là xuất khẩu thành chương. Thu điếu là một bài thơ thu, tả cảnh ngụ tình tuyệt bút.

Bài phân tích  4

Đi câu là một cái thú thanh tao của các bậc trí giả. Có bậc hiền nhân có tài, bất đắc chi đi câu để chờ thời. Ngồi trên bờ ai mà nghĩ đến chuyện năm châu bốn biển, nghĩ đến thế sự đảo điên. “Cá ăn đứt nhợ vểnh râu ngồi bờ” [có người còn dùng lưỡi câu thẳng như Khương Tử Nha – Trung Quốc]. Có bậc đại nhân vác cần đi câu để hương thú nhàn tản, hòa hợp với thiên nhiên, suy tư trong trạng thái thư giãn. Nguyễn Khuyến đi câu theo kiểu này. Ông đã mở hết các giác quan để cảm nhận mùa thu, cũng là mùa câu của xứ Bắc. Như những đứa trẻ trong xóm, ông câu cá cũng chăm chú, cũng hồi hộp, cũng say mê. Kết quả của cuộc chơi ấy là ông đã được một bài thơ “Thu điếu” vào loại kiệt tác của nền vãn học nước nhà:

Ao thu lạnh lẽo nước trong veo, Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo. Sóng biếc theo làn hơi gợn tí, Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo. Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt. Ngõ trúc quanh co khách vắng teo. Tựa gối, ôm cần lâu chẳng được,

Cá đâu đớp động dưới chân bèo.

Hình ảnh mùa thu hiện lên trong bài thơ với một không gian hẹp ở chốn làng quê của tác giả, trong một cái ao nhỏ với chiếc thuyền câu nhẹ thênh thênh:

Ao thu lạnh lẽo nước trong veo,
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo.

Cái tôi trữ tình lặn phía sau ngôn từ. Cảm giác của thi nhân thì hiện lên sắc sảo và tinh tế. Mùa thu đã vào chiều sâu, “ao thu lạnh lẽo” với mặt nước “trong veo” rất muốn nhìn, ao thu như là chiếc gương tròn của làng quê. Làng Bùi của nhà thơ là đồng chiêm trũng rất nhiều ao, ao nhỏ. Ao nhỏ thì thuyền câu cũng nhỏ theo “bé tẻo teo”, vần eo là thử vận hiểm hóc, vậy mà câu thơ trôi chảy tự nhiên như không, như không có chút gì là kĩ xảo cả.
Thuyền câu đã hiện ra đấy mà người câu đâu chẳng thấy. Cũng chưa thấy cần thấy nhợ gì cả. Người đi câu còn mải mê với trời nước của mùa thu:

Sóng biếc theo làn hơi gợn tí,
Lá vàng, trước gió khẽ đưa vèo.

Ao thu không còn tĩnh lặng nữa mà đã nổi sóng với hai thanh trắc ở đầu câu [sóng biếc] và hai thanh trắc ở cuối câu [gợn tí]. Sóng nhỏ vì ao nhỏ, lại là trong chỗ khuất. Gió nhẹ, gió heo may mùa thu. Sóng lại có màu sắc, “sóng biếc” thật đẹp. Ngòi bút của tác giả tinh tế đến từng chi tiết nhỏ. Hai câu thực đối rất chỉnh “sóng biếc” đối với “lá vàng”, đều là màu sắc đặc trưng của mùa thu. “Hơi gợn tí” đối với “khẽ đưa vèo”, vận động của chiều dọc tương xứng với vận động của chiều ngang thật tài tình. Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo.

Nhà thơ đã thả hồn theo chiếc lá vàng “khẽ đưa vèo” trên mặt ao trong veo. Cái màu vàng của mùa thu mà bao nhiêu thi nhân đã ngợi ca:

Con nai vàng ngơ ngác Đạp trên lá vàng khô [Lưu Trọng Lư] Vàng rơi! Vàng rơi! Thu mênh mông.

[Bích Khê]

Và đây là chiếc lá vàng của Nguyễn Khuyến trong bài thơ “Thu điếu” dưới ánh mắt của Xuân Diệu: “Cái thú vị của bài Thu Điếu ở các điệu xanh, xanh ao, xanh bờ, xanh sóng, xanh tre, xanh trời, xanh bèo, có một màu vàng đâm ngang của chiếc lá thu rơi…”. Lời bình của Xuân Diệu thật là tâm đắc. Nhà thơ mở không gian lên chiều cao tạo nên không khí khoáng đạt và không gian được mở rộng nên bức tranh “Thu điếu” thêm đường nét, thêm màu sắc: Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt, Ngõ trúc quanh co khách vắng teo.

Màu da trời “xanh ngắt” thật là đẹp, màu xanh xao mà tha thiết. Trong màu “xanh ngắt” có cái thăm thẳm của chiều cao. Mây không trôi mà “lơ lửng” những áng mây trắng “lơ lửng” trên bầu trời “xanh ngắt” thật là thanh bình. Rồi tác giả lại trở về cận cảnh với hình ảnh của làng quê. “Ngõ trúc quanh co”, đường làng quanh co thân thuộc với bóng tre trùm mát rượi. Nhưng bao giờ trong thơ Nguyễn Khuyến tre cũng nói là trúc, “Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu” [Thu vịnh], “Ngõ trúc quanh co khách vắng teo”. Nguyễn Khuyến thích cái hình thể loại cây chí khí ấy “Trúc dầu cháy đốt ngay vẫn thẳng”. Những nét trúc thẳng đốì lập với những nét quanh co của đường làng thật là gợi cảm. Trời lạnh, đường quê vắng vẻ, “khách váng teo”. Bức tranh thu đượm buồn. Các thi sĩ thích miêu tả cảnh thu trong tĩnh lặng, đẹp, nhưng buồn. Sau Nguyễn Khuyến, nhà thơ lãng mạn Xuân Diệu cũng viết:

Đã nghe rét mướt luồn trong gió Đã vắng người sang những chuyến đò

[Đây mùa thu tới]

Bài thơ kết thúc với hình ảnh của người đi câu như một nét tự họa:

Tựa gối, ôm cần lâu chẳng được,
Cá đâu đớp động dưới chân bèo.

Nhà thơ thu mình lại “tựa gối ôm cần”, dường như để tương xứng với khung ao nhỏ, với chiếc thuyền “bé tẻo teo”. Người đi câu đang đắm chìm trong suy tư thì một cử động đã làm cho nhà thơ sực tỉnh:

Cá đâu đớp động dưới chân bèo.

Ba chữ “đ” [đâu, đớp, dộng] miêu tả một chút xao động trong làn ao và rất nhiều xao động trong lòng thật là tài tình. Có ý kiến cho rằng cử chỉ đi câu của Nguyễn Khuyến giống với Khương Tử Nha và nhà bình luận đó hết lời ngợi ca cả hai ông. Không! Nguyễn Khuyến đâu có còn chờ thời. Nhà thơ chỉ muôn tan hòa vào thiên nhiên, vào non nước. Toàn bộ hình tượng thơ “Thu điếu” đã sửa soạn cho thái độ này. Khung cảnh hẹp, làn ao nhỏ, chiếc thuyền “bé tẻo teo”. Nhà thơ thu mình lại “tựa gối ôm cần” hòa điệu với thiên nhiên, tan hòa với non nước. Thế thì làm sao thái độ đi câu của Nguyễn Khuyên lại giống với thái độ đi câu của Khương Tử Nha được? Còn đồng tình với ai đó là chuyện riêng. Tôi đồng tình với Nguvễn Khuyến.

Trong chùm thơ bài viết về mùa thu của Nguyễn Khuyến, nếu được chọn một bài thì đó là bài “Thu điếu”. Bài thơ “Thu điếu” là kiệt tác trong nền thơ cổ điển nước nhà. Bức tranh mùa thu được miêu tả bằng những hòa sắc tinh tế, những đường nét gợi cảm. Nhạc điệu cũng độc đáo. vần gieo hiểm hóc mà tự nhiên, hồn nhiên. Theo Xuân Diệu, cả bài thơ không còn lép chữ nào. Thật là một nghệ sĩ cao tay. Cái tình của nhà thơ cũng theo kịp cái tài. Cái tình của nhà thơ đối với quê hương làng cảnh, với non sông đất nước thấm trong mỗi chữ mỗi lời làm xúc động hết thảy mỗi tâm hồn Việt Nam.

Bài phân tích 5

Mùa thu luôn là cảm hứng dạt dào, quen thuộc trong thi cổ trung đại. Mùa thu mang lại những cảm xúc dạt dào mãnh liệt trong từng trang văn, khiến cho xúc cảm của mỗi người lại bâng khuâng, xao xuyến, dào dạt. Nó khiến cho mỗi người nghệ sĩ lại có nguồn cảm hứng, nhấc bút để tỉa ra từng chữ tinh hoa trên trang giấy. Trong đó phải kể đến Nguyễn Khuyến với 3 chùm thơ thu nổi tiếng. Mỗi bài mang một màu sắc rất riêng và ta phải kể đến “thu điếu” với một phong cảnh nên thơ mà man mác buồn.

“Ao thu lạnh lẽo nước trong veo Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo Sóng biếc theo làn hơi gợn tí Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt Ngõ trúc quanh co khách vắng teo Tựa gối ôm cần lâu chẳng được

Cá đâu đớp động dưới chân bèo.”

Vẻ đẹp miền quê Bắc Bộ được vị Tam nguyên Yên Đổ lột tả một cách tinh tế với mang nhiều nét nên thơ và độc đáo rất riêng. Bằng tài năng tả cảnh Nguyễn Khuyến đã thổi hồn vào cảnh vật, khung cảnh mùa thu mang đến cho đất trời mua thu một vẻ đẹp nên thơ rất riêng. Một bức tranh làng quê yên ả được mở ra ở đầu tác phẩm:

“Ao thu lạnh lẽo nước trong veo
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo”

Địa điểm mà nhân vật trữ tình câu cá ở đây là một chiếc “ao thu”. Hai chữ “ao” và “thu” kết hợp với nhau tạo thành một sự vật “ao thu” như chỉ một chiếc ao mà riêng của mùa thu mới có. Một nét đặc trưng không lẫn với bất cứ thứ gì của mùa thu, từ đó ta thấy rõ nét sắc thu đã bắt đầu thấm đượm trong không gian đất trời. Tính từ “lạnh lẽo” được ghép với “ao thu” như muốn kéo cả không gian trùng xuống. Thu sang, từng cơn gió cành cây bắt đầu đượm sự se lạnh của thời khắc giao mùa. Sau một mùa hạ nóng nực thì thu cũng đến với bao sự mát mẻ hòa lẫn cái se se của gió đầu mùa. Nhưng đó là cái “lạnh lẽo” trong trẻo với mặt nước hồ yên lặng, “nước trong veo”. Đến đây cả không gian nghệ thuật như được mở ra rộng hơn, yên bình đến lạ thường.

Giữa nước trời “trong veo” ấy xuất hiện một chiếc thuyền câu “bé tẻo teo”. Nguyễn khuyến ưa dùng các tính từ đặc biệt là các láy từ. Với láy từ “tẻo teo” chỉ sự rất nhỏ bé của chiếc thuyền câu. Một chiếc thuyền nhỏ bé, lặng trôi giữa mặt hồ, vừa thực vừa mơ không gian đất trời dường như càng thu hẹp hơn mà cũng nên thơ nhẹ nhàng hơn cả. từ đó mà mở ra cho tác giả cảm nhận sự chuyển hóa cảu vạn vật đất trời

“Sóng biếc theo làn hơi gợn tí
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo”

Khung cảnh mùa thu đến đây như được mở ra thêm cao lên, không còn là sự yên lặng ở hai câu thơ đầu. Những âm thanh, đường nét của khung cảnh mùa thu đã bắt đầu len lỏi vào từng câu chữ, phá vỡ bầu không khí thanh tĩnh lúc đầu. Từng con sóng “lăn tăn” nơi mặt hồ như nhấn mạnh thêm sự biến chuyển nhẹ nhàng của đất trời trong khúc giao mùa sang thu. Một động từ “vèo” cuối câu thơ ý chỉ tốc độ nhanh, thoáng qua, không kịp nắm bắt. Dường như có chút tâm tình của nhân vật trữ tình cũng được gửi gắm nơi mặt hồ yên ả, những gợn sóng bé nhỏ, qua chiếc là vàng thoáng nhẹ lướt qua.
Tiếp tục vẫn là những câu thơ về bức tranh màu thu nên thơ trữ tình được phác họa thêm sâu sắc trong từng nét chữ:

“Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt
Ngõ trúc quang co khách vắng teo”

Không còn là cái “ao làng” bé nhỏ, lạnh lẽo nuwqax mà thay vào đó là những chóm mây xanh trên tầng cao đất trời. Những đám mây “lơ lửng” mang theo một chút chậm rãi đến bình thản của lòng người. Nét thu chấm phá lên nên trời xanh ngắt đặc trưng khiến lòng người khó cưỡng lại. Thu trong thi cổ thường mang một màu ảm đạm và vắng vẻ. Nhưng thu trong thơ Nguyễn Khuyến thật êm đềm, nhẹ nhàng, bình yên. Mùa thu yên bình, trầm tĩnh ấy như nhuốm cả không gian đất trời ngay cả từng con đường, “ngõ trúc” cũng vắng vẻ, cô quạnh. Những con đường làng nhỏ quanh co không bóng người. “Khách vắng teo” với cách gieo vần “eo” càng gợi tả thêm sự trầm tĩnh đến cùng cực. bóng dáng người cũng không thấy, làm tăng sự cô quạnh, tĩnh lặng của không gian khiến tác giả trầm ngâm.

“ Tựa gối ôm cần lâu chẳng được
Cá đâu đớp động dưới chân bèo”

Hai câu kết của bài thơ ta dường như vẫn khó có thể nhận ra bóng dáng của nhân vật trữ tình, chủ nhân của chiếc thuyền câu bé tẻo teo kia. Mùa thu là mùa của màu buồn, nó khiến con người ta thêm phần cô quạnh, buồn bâng khuâng và điều đó cũng không tránh khỏi với Nguyễn Khuyến. Tác giả thu mình lại, đơn độc giữa bầu không gian tĩnh lặng, lạc điệu. Tư thế “tựa gối” lại thêm phần thu nhỏ hình ảnh tác giả, khiến cho đất trời cũng trở nên chật hẹp hơn.

Một động từ “đớp” dường như khuấy động của sự tĩnh lặng của toàn bài thơ. Đấy chính là thủ pháp lấy động tả tình rất đặc sắc của nhà thơ. Hình ảnh “cá đớp” ấy khiến cho tác giả giật mình khi đang chìm đắm trong cảnh sắc u buồn của mùa thu, nó dường như đánh thức suy nghĩ, đánh thức tác giả thoát khỏi sự chìm đắm u buồn mà quay về với thực tại. Sẽ chẳng thể nghe thấy tiếng đớp động nhỏ bé ấy nếu ta đang ở trong một xã hội đấy sự vội vã. Hình ảnh cá đớp có lẽ cũng là hình ảnh ẩn dụ cho những biến động của xã hội bấy giờ, dân tình loạn lạc, đất nước lầm than. Qua đó ta thấy được phần nào tấm lòng tác giả đối với dân với nước nhưng cũng đành bất lực, không biết tỏ cũng ai, giãi cùng người.

“Thu điếu” của Nguyễn Khuyên đã vẽ ra một bức tranh làng quê thuộc vùng Bắc Bộ mang một màu sắc rất giản dị những cũng không kém phần đặc sắc. một khung cảnh yên bình, một bức tranh nên thơ trữ tình cùng những nét đượm buồn của mùa thu đặc trưng. Đồng thời cũng cho ta hiểu phần nào nỗi niềm, tình thế cô quạnh, bất lực trước vận mệnh đất nước, trước sự loạn lạc của xã tắc đương thời mà không thể giãi bài cùng ai.

Bài phân tích 6

Tác giả Nguyễn Khuyến [1835 – 1909] là người con sinh tại vùng đất Nam Định nhưng ông lại có khoảng thời gian lớn lên và gắn bó với xã Yên Đổ, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam. Tuy gia đình nhà nho của ông phải sống cuộc sống vất vả nhưng Nguyễn Khuyến đã vượt khó và bằng tố chất sẵn có của mình, ông vượt qua các kì thi khoa bảng một cách xuất sắc: cả ba kì thi đều đỗ đầu [từ năm 1864 đến năm 1871]. Đó là lí do mà người đời thường gọi ông là Tam Nguyên Yên Đổ. Dù có công danh nhưng Nguyễn Khuyến lại chọn sống một cuộc sống bình dị, chân phương nơi quê nhà với công việc dạy học chứ không chọn ra làm quan cả cuộc đời. Đó là con người có tài năng và phẩm chất thanh cao. Ở ông có những biểu hiện rất đặc biệt cho tấm lòng yêu nước sâu sắc thế nên suốt cuộc đời mình, ông đều thể hiện thái độ bất hợp tác với thực dân Pháp một cách kiên quyết.

Đóng góp nổi bật nhất của Nguyễn Khuyến vào nền văn học dân tộc nước nhà chính là ở mảng thơ Nôm, dù ông có viết cả những tác phẩm chữ Hán. Tác phẩm của Nguyễn Khuyến dù được nhà thơ thể hiện dưới hình thức nào đi chăng nữa thì hiển hiện rõ ràng và nhất quán nhất là tấm lòng ưu ái đối với dân, với nước.

Việc phân tích Câu cá mùa thu sẽ được thực hiện qua từng cặp câu. Hai câu thơ đầu mở ra khung cảnh hết sức quen thuộc của làng quê Việt Nam:

Ao thu lạnh lẽo nước trong veo
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo

Bài thơ sử dụng hình ảnh “ao thu” là điểm nhìn mở đầu. Tuy không gian mở đầu của tác phẩm thu hẹp trong phạm vi ao thu nhưng tiếp sau không gian thân thuộc ấy là “chiếc thuyền câu bé tẻo teo” – hình ảnh không hề xa lạ nhưng diễn tả được động thái của mùa thu. Có thể thấy, cách Nguyễn Khuyến dẫn dắt người đọc vào bài thơ của mình là rất đặc biệt. Không nhất thiết là những hình ảnh to lớn, hoành tráng mà chỉ cần một không gian ao thu nhỏ xinh, một chiếc thuyền câu be bé như cũng muốn thu lại trong cảnh là đủ để thấy được hình ảnh bình dị, gần gũi của quê hương đang đắm mình trong mùa thu.

Tuy nhiên, Nguyễn Khuyến không chỉ đơn thuần tả cảnh, ẩn trong cảnh ấy vẫn là cái tình của con người. Các tính từ “lạnh lẽo”, “trong veo”, “bé tẻo teo” tuy được sử dụng để gợi tả đặc tính của cảnh nhưng cũng phần nào chuyển tải được tâm tư của con người. Trong không gian thu hẹp kia, con người xuất hiện và có khi con người ấy cũng nhận ra sự “lạnh lẽo”, “bé tẻo teo” của chính mình  trong sự vắng vẻ, đìu hiu của cảnh nhưng cũng đồng thời cảm nhận được bản thân như cũng “trong veo” cùng cảnh ấy.

Hai câu thơ tiếp theo là nét vẽ giúp cho bức tranh thu của Nguyễn Khuyến như có hồn hơn:

Sóng biếc theo làn hơi gợn tí
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo

Cặp câu có sự sóng đôi của hình ảnh “sóng biếc” và “lá vàng”, hơn nữa lại là sự kết hợp của màu “biếc” và sắc “vàng” tạo nên sự hài hoà của bức tranh ngày thu, dịu mát, nhẹ nhàng nhưng không hề nhạt nhoà. Bức tranh thu qua nét vẽ của bàn tay tài hoa của Nguyễn Khuyến lại trở nên sinh động hơn vì sự chuyển động của các sự vật khá gần gũi trong cuộc sống con người, nhưng sự chuyện động ấy lại có sự đối lập bởi bên dưới mặt ao sóng nước nương theo làn hơi để “gợn tí” nhưng bên trên khoảng không là trạng thái “khẽ đưa vèo” của lá vàng trước gió. Chữ “vèo” trong câu thơ sử dụng thật đắt, dường như đây chính là một trong số ít những câu thơ làm hài lòng vị Tam Nguyên Yên Đổ.

Cặp câu tiếp theo giúp cho bức tranh thu thêm mở rộng về không gian và đặc biệt là có thấp thoáng bóng dáng của con người:

Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo

Nếu như câu thơ trước tác giả khiến người đọc hướng mắt từ mặt ao lên khoảng không thì bây giờ không gian đã mở ra rộng lớn hơn bởi trời cao và xa hơn bởi con đường ngõ trúc quanh co. Trong câu thơ thứ năm, nhà thơ khiến người đọc có sự chú tâm đặc biệt vào màu “xanh ngắt” của mây trời trong cái trạng thái lơ lửng êm đềm trôi. Hướng cái nhìn từ trên cao xuống mặt đất và phóng tầm mắt ấy ra xa để thấy sự quanh co của ngõ làng có hàng trúc, mặc dù hiện tại con ngõ ấy “vắng teo” nhưng chắc chắn nó đã từng có người qua lại. Có thể ở đây, tác phẩm của Nguyễn Khuyến làm người đọc cảm thấy đìu hiu, vắng lặng nhưng tuyệt nhiên đó không phải là cái đìu hiu, vắng lặng của buồn bã, âu sầu.

Bài phân tích Câu cá mùa thu sẽ khép lại bằng việc cảm nhận hình ảnh của nhân vật trữ tình qua hai câu thơ cuối:

Tựa gối buông cần lâu chẳng được
Cá đâu đớp động dưới chân bèo

Trong thơ, nhân vật trữ tình hiện diện trong tư thế “tựa gối buông cần”. Nếu ứng nhân vật trữ tình vào cuộc đời nhà thơ thì đây là thời điểm nhà thơ đã từ bỏ chốn quan trường danh lợi để chọn cuộc sống bình dị, nhàn thân ở nơi thôn quê dân dã. Âm thanh “cá đâu đớp động” mà tác giả nghe được gợi một điều gì xa vắng, không rõ ràng nhưng cũng là sự bừng tỉnh. Điều đó cũng không khó hình dung vì Nguyễn Khuyến là người học rộng tài cao nhưng lại có tấm lòng yêu nước thương dân. Thế nên, ông không chấp nhận một cuộc sống làm bù nhìn, luồn cúi trước bọn thực dân độc ác, mưu mô. Và cuối cùng, Nguyễn Khuyến đã chọn cho mình cuộc sống ẩn dật nhưng thanh bạch. Tưởng chừng, với ông đó là cuộc sống an nhàn nhưng thật ra có khi nhà thơ chỉ nhàn thân chứ không nhàn tâm bởi sâu trong ông vẫn còn nặng mối lo cho dân cho nước. Thế nên mới có cái thảng thốt nhói đau mỗi khi ngoại cảnh có gì xao động như tiếng cá đớp động dưới chân bèo.

Bài phân tích 7

Viết về đề tài mùa thu nếu như ở văn học Trung Quốc có “Thu hứng” của Đỗ Phủ là tiêu biểu và đặc sắc thì nền văn học dân tộc Việt không thể không nhắc đến chùm thơ thu của cụ Tam Nguyên Yên Đổ_Nguyễn Khuyến. Chùm thơ thu gồm ba bài “Thu vịnh”, “Thu điếu”, “Thu ẩm” mùa thu hiện lên qua cái nhìn đa tình của nhà thơ. Đặc biệt là bài thơ“Thu điếu” [Câu cá mùa thu] mang nét đặc sắc riêng “điển hình hơn cả cho mùa thu của làng cảnh Việt Nam”, đằng sau cảnh thu, tình thu là tâm trạng, nỗi niềm thầm kín của tác giả.

Nguyễn Khuyến là người học rộng tài cao ba lần đỗ tú tài và ra làm quan dưới triều vua Tự Đức, chứng kiến “từng bước cơn hấp hối” của chế độ phong kiến thối nát. Ông không chịu hợp tác với giặc, muốn giữ mình thanh sạch mà đã về ở ẩn sau hơn mười năm làm quan. Chùm thơ thu được Nguyễn Khuyến sáng tác sau khi về ẩn cư nơi quê nhà.

“Thu điếu” cũng như hai bài thơ thu đều được viết theo thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật bằng ngôn ngữ dân tộc chữ Nôm. Toàn bộ cảnh thu, tình thu được miêu tả hiện lên rõ nét trong tám câu thơ.

Mở đầu bài thơ là không gian, thời gian của mùa thu ở làng quê Bắc Bộ: “Ao thu lạnh lẽo nước trong veo Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo”

Không gian ở đây là ao thu. Ao là đặc trưng của vùng quê chiêm trũng quê hương của tác giả. Thời gian không phải là đầu thu có chút oi ả xen lẫn của mùa hạ mà có lẽ là lúc phân thu nên mới có hơi lạnh của sự “lạnh lẽo”. Tính từ “Trong veo” đặc tả độ trong của nước dường như có thể nhìn xuyên thấu xuống bên dưới, nó gợi ra sự thanh sạch và tĩnh lặng trên bề mặt ao. Tính từ “lạnh lẽo” như càng làm cho sự vắng lặng tăng thêm. Không chỉ vậy “một chiếc thuyền câu” số từ chỉ số ít “một chiếc” cùng với tính từ “bé tẻo teo” gợi sự nhỏ bé đến vô cùng. Chiếc thuyền câu như co lại là một chấm trên nền của ao thu. Tác giả sử dụng nghệ thuật chấm phá điểm nhãn. Trên cái nền yên tĩnh của mặt ao xuất hiện một chiếc thuyền câu bé tẻo teo. Hai câu thơ đầu đã mở ra một không gian thu với cảnh sắc rất mộc mạc, giản dị mang nét đặc trưng chất thu, khí thu của làng quê Bắc Bộ.

Nếu như ở hai câu đề nổi bật lên là sự tĩnh lặng thì hai câu thực đã mang những nét vận động nhưng nó lại động để tĩnh. Lấy cái động của cảnh vật mà tả cái tĩnh của mùa thu chốn thôn quê.

“Sóng biếc theo làn hơi gợn tí
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo”

Hai hình ảnh “sóng biếc”, “lá vàng” tưởng chừng như không có mối liên hệ mà có một sự logic, chặt chẽ với nhau. Vì gió thổi làm cho sóng gợn, lá rơi. Cảnh vật chuyển động chẳng phải ào ạt của lá mùa thu như trong thơ Đỗ Phủ mà nó thật khẽ khàng, nhẹ nhàng sóng chỉ hơi gợn tí, lá chỉ khẽ đưa vèo. Các tính từ, trạng từ “biếc”, “tí”, “vàng”, “khẽ” được sử dụng thật tài tình, kết hợp với nhau tạo nên màu sắc, hình ảnh làm cho cảnh thu trở nên sống động có hồn. Chữ “vèo”khiến cho Tản Đà khâm phục, tâm đắc vô cùng. Ông thổ lộ một đời thơ, ông mới có được một câu thơ vừa ý “Vèo trông lá rụng đầy sân”. Nguyễn Khuyến phải là một con người có một tâm hồn tinh tế, nhạy cảm mới có thể cảm nhận được sự chuyển động mà như tĩnh tại. Nghệ thuật lấy động tả tĩnh đã được sử dụng thành công đem lại hiệu quả cao.

Không gian cảnh vật không chỉ bó hẹp trong khoảng không của mặt nước, của ao thu mà được mở rộng ra hai chiều với một tầm nhìn cao hơn, xa hơn. Đó là cái nhìn toàn cảnh bao quát lên cả bầu trời với nhiều đường nét, màu sắc thoáng đạt: “Tầng mây lo lửng trời xanh ngắt

Ngõ trúc quanh co khách vắng teo”

Bầu trời xanh ngắt vẫn luôn là biểu tượng đẹp của mùa thu, có lần Nguyễn Du đã từng viết: “Long lanh đáy nước in trời/ Thành xây khói biếc non phơi bóng vàng” Bầu trời xanh trong, cao thẳm của “Thu điếu” có sự nhất quán với không gian mây trời của “Thu vịnh” “Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao” hay trong “Thu ẩm” với “Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt”. Mây trời trong “Thu điếu” không trôi mà “lơ lửng” gợi một cảnh thu đẹp và yên tĩnh như ngưng đọng lại trên khoảng không bao la, rộng lớn. Chiều sâu không gian được cụ thể hóa bằng độ “quanh co” của ngõ trúc. Hình ảnh cây trúc xuất hiện khá nhiều trong thơ của ông, nhìn khái quát nó mang một nét vắng lặng và đượm buồn mà Nguyễn Khuyến đã viết: “Dặm thế ngõ trúc đâu từng ấy/Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu”. Màu xanh của da trời, màu xanh của trúc bao trùm lên sắc màu của không gian. Cảnh vật trở nên u tịch, cô liêu, hiu hắt với tính từ “vắng teo” tức là vắng tanh, vắng ngắt không một bóng người đồng thời cũng cho thấy sự thoáng đãng, trong lành của không gian nơi đây.

Sự tác động của ngoại cảnh làm cho con người không khỏi chạnh lòng mà cô đơn. Nguyễn Khuyến có lần đã từng tự thán về nỗi cô độc của đời mình: “Đời loạn đưa về như hạc độc/Tuổi giá hình bóng tựa mây côi” [Cảm hứng].

Sáu câu thơ đầu là sự miêu tả về cảnh vật, về mây trời non nước mùa thu. Đến hai câu kết ta mới thấy sự xuất hiện của con người. Cái ý vị nhất của bài “Thu điếu” nằm ở hai câu cuối: “Tựa gối buông cần lâu chẳng được
Cá đâu đớp động dưới chân bèo”

Hình ảnh cụ Tam Nguyên Yên Đổ xuất hiện với tư thế ngồi bó gối buông cần thả câu tạo nên một đường nét bất động trên bức tranh thu tĩnh lặng. Nhà thơ ngồi câu cá mà tâm thế như đặt ở nơi nào không chú tâm đến việc câu để rồi giật mình trước tiếng cá “đớp động dưới chân bèo”. Một lần nữa nghệ thuật lấy động tả tĩnh được sử dụng thành công. Tiếng cá đớp tạo nên chuyển động nhỏ cũng khiến cho nhà thơ giật mình tỉnh giấc tựa chiêm bao nó gợi lên sự tĩnh lặng, tĩnh mịch đến vô cùng. Cách hỏi “cá đâu” thật đặc sắc tạo nên sự mơ hồ trong không gian và sự ngỡ ngàng trong lòng của người điếu ngư. Hình ảnh ấy khiến cho ta liên tưởng đến cụ Nguyễn Bỉnh Khiêm ung dung ngồi uống rượu dưới gốc cây:
“Rượu đến cội cây ta sẽ uống/Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao”

Thực ra, câu cá chỉ là cái cớ để Nguyễn Khuyến miêu tả bức tranh thu, qua đó nhà thơ bộc lộ tâm hồn và tâm trạng của mình. Hình ảnh người đi câu cá có thể khiến ta liên tưởng tới con người thi sĩ, nho sĩ trước tình hình đất nước lúc bấy giờ. Theo kinh nghiệm của dân gian nước trong thì không có cá nhưng tiếng cá đớp động chân bèo đã tiếp thêm động lực cho người điếu ngư không nản chí mà tiếp tục công việc của mình. Cũng giống như vậy chính trị nước ta bấy giờ rối ren, thực dân Pháp xâm lược, triều đình nhà Nguyễn chống cự yếu ớt mà nhanh chóng thỏa hiệp để hồn nước rơi vào tay giặc. Nhà thơ vì muốn bảo toàn khí tiết nên lựa chọn con đường về ở ẩn noi gương tiền nhân Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm hay cụ Đào Tiềm_Đào Uyên Minh bên Trung Quốc một đời quyết giữ để mình thanh sạch. Tuy nhiên, âm thanh cá đớp động như đánh thức nhà Nho, nhà trí sĩ yêu nước như thức tỉnh thôi thúc ông đứng lên đấu tranh bảo vệ nền độc lập dân tộc. Nhưng âm thanh ấy thật mơ hồ cũng như trăn trở trong lòng nhà thơ liệu rằng mình có thể góp sức giúp đời hay là bất hợp tác với giặc lánh mình ẩn cư.

Như vậy Nguyễn Khuyến không chỉ bộc lộ những tình cảm yêu mến thiên nhiên, quê hương đất nước mà còn kín đáo bày tỏ nỗi buồn trong sáng nhưng cô đơn của một ẩn sĩ, tuy nặng lòng yêu nước nhưng cam phận đành bất lực trước thời thế lựa chọn con đường lánh đục về trong.

Nguyễn Khuyến là một trong những đại diện lớn nhất và cuối cùng của văn học trung đại Việt Nam ở giai đoạn cuối thế kỉ XIX. Thơ ông là sự kết hợp tài tình giữa tinh hoa văn học bác học với văn học dân gian. “Thu điếu” là một trong những bài thơ hay và đặc sắc với sự thành công của bút pháp nghệ thuật lấy động tả tĩnh, chấm phá điểm nhãn, sử dụng các từ láy có tính gợi hình, gợi cảm cao đặc biệt là cách gieo vần “eo” thật tài tình. Bài thơ được làm theo đúng niêm, đúng luật của thể thơ vừa mang tính quy phạm của thơ ca trung đại cũng thực hiện giải quy phạm với những sáng tạo mới không còn sử dụng những hình ảnh ước lệ, tượng trưng mà thay vào đó là sự mộc mạc, chất phác của đời sống nông thôn.

“Thu điếu” cùng với hai bài thơ trong chùm thơ thu của Nguyễn Khuyến đã góp phần làm nên sự phong phú và đặc sắc cho đề tài viết về mùa thu của nền văn học dân tộc với nét đặc trưng là sự tĩnh lặng, thanh bình với những hình ảnh bình dị của làng quê.

Bài phân tích 8

Viết về đề tài mùa thu đã từng có rất nhiều những thi nhân mặc khách như Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Du thả hồn mình với non nước mây trời nhưng phải đến Nguyễn Khuyến với chùm thơ thu thì cảnh thu mới thực sự hiện lên rõ nét có những đặc trưng của riêng nó. Đặc biệt là bài “Thu điếu” “điển hình hơn cả cho mùa thu của làng cảnh Việt Nam”. Bức tranh thu thanh bình, tĩnh lặng với những hình ảnh giản dị, mộc mạc mà có sức hấp dẫn riêng được thi sĩ đặc tả qua tám câu thơ thất ngôn bát cú Đường luật.

Nếu như trong thơ Nguyễn Trãi cảnh thu vẫn là thu mượn với những hình ảnh ước lệ, tượng trưng thì đến Nguyễn Khuyến bằng tài năng của mình đã đưa thơ Việt Nam phát triển lên một bước mới gần với hiện thực, cụ thể và sinh động hơn trong bút pháp miêu tả. Mùa thu trong thơ ông là mùa thu của dân tộc, mùa thu của vùng quê chiêm trũng Bắc Bộ.

Mở đầu là khung cảnh mùa thu được hiện ra trước mắt với hình ảnh: “Ao thu lạnh lẽo nước trong veo Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo”

Cảnh thu được gói vào trong không gian eo hẹp và tĩnh lặng, ao thu bé tí nổi lên là chiếc thuyền câu bé tẻo teo. Hai câu thơ gợi cho ta thấy một không gian thật nên thơ chữ tình để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng độc giả.

Nguyễn Khuyến tả cảnh thu không chỉ dừng lại ở đó mà còn miêu tả thật sinh động với hình ảnh “sóng biếc”, “lá vàng” có những chuyển động thật nhẹ nhàng, tinh tế. Cái động ấy càng tô đậm thêm sự tĩnh tại của cảnh vật với nghệ thuật lấy động tả tĩnh. Chữ “vèo” gợi ra cái thanh mảnh, mong manh của chiếc lá mùa thu nhưng có một sức hút làm nên đặc sắc nghệ thuật khiến cho Tản Đà phải tâm đắc, khâm phục. Ông thổ lộ một đời thơ ông mới có được một câu thơ vừa ý “Vèo trông lá rụng đầy sân”.

Nguyễn Khuyến như hóa thân thành nhà quay phim, tầm nhìn của ông như chiếc máy quay khi gần, khi xa, khi ở dưới mặt ao rồi lại quay đến tầm cao trên bầu trời hay là cả chiều sâu hun hút của ngõ trúc quanh co. Ngõ trúc là đặc trưng của làng quê Bắc Bộ. Phải là một con người có tình yêu thiên nhiên, yêu quê hương đất nước đến vô cùng mới có được tầm nhìn bao quát đến từng chi tiết miêu tả cảnh thu. Màu xanh của da trời, màu xanh của trúc bao trùm lên sắc màu của không gian. Cảnh vật trở nên u tịch, cô liêu, hiu hắt với tính từ “vắng teo” tức là vắng tanh, vắng ngắt không một bóng người đồng thời cũng cho thấy sự thoáng đãng, trong lành của không gian nơi đây.

Cảnh thu trong bài thơ “Câu cá màu thu” là khung cảnh đẹp có sự vắng lặng, thanh bình. Mọi sự vận động đều trở nên rất nhẹ nhàng, chuyển động mà như có như không của sóng gợn, của lá thu duyên dáng bay trong gió. Con người ở đây cũng vậy không hề to lớn như những con người của thời đại với tư thế “hoành sóc” như trong “Thuật hoài” của Phạm Ngũ Lão mà nó cô liêu, đơn độc nhỏ bé trong không gian: “Tựa gối buông cần lâu chẳng được

Cá đâu đớp động dưới chân bèo”

Nguyễn Khuyến xuất hiện với tư thế ngồi bó gối buông cần thả câu toát lên vẻ trầm tư tạo nên một đường nét bất động trên nền bức tranh thu tĩnh lặng. Nhà thơ như mơ hồ giữa thực tại mà bất giác bị giật mình khi tiếng cá đớp động dưới chân bèo. Có thể nói âm thanh vang lên trên cái nền tĩnh động của không gian là nét đặc sắc trong phong cách nghệ thuật tả cảnh của nhà thơ. Con người và cảnh vật như hòa vào nhau làm một tạo nên một bức tranh thủy mặc đậm chất cổ điển. Cái tĩnh cái buồn ấy nó không chết lặng mà vẫn có sự trong sáng, thơ mộng và có sức sống bất diệt trong thơ ca.

Bài thơ “Câu cá mùa thu” đã đặc tả được bức tranh mùa thu của làng cảnh Việt Nam thật với tất cả những vẻ đẹp đơn sơ, bình dị đậm chất thôn quê được tái hiện qua lăng kính tâm hồn và thành công với nghệ thuật miêu tả tài tình của tác giả. Nguyễn Lộc đã nhận định: “Nói về thiên nhiên, trong văn học cổ có rất nhiều, tả cái đẹp của thiên nhiên mùa thu trong văn học cổ rất hay. Nhưng trước Nguyễn Khuyến chưa bao giờ có một thiên nhiên đậm đà phong vị của quê hương đất nước đến thế.”

Bài phân tích 9

Nguyễn Khuyến được biết đến nhiều nhất với chùm thơ thu gồm.ba bài thơ bằng tiếng Nôm một trong số đó chính là “ Câu cá mùa thu” . Xuyên suốt bài thơ là một nét thu đẹp tĩnh lặng nơi làng  quê thời xa xưa, biểu lộ một nét cô đôn trong tâm hồn một nhà Nho yêu quê hương yêu đất nước thời bấy giờ. Sau khoảng thời gian ông từ quan về quê nhà, một loạt nhưxng tác phẩm ra đời như “ Thu điếu”, “ Thu ẩm” , “ Thu vịnh”.

Mở đầu bài thơ là hai câu thơ

“ Ao thu lạnh lẽo nước trong veo

Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo”

Chỉ cần đọc hai câu thơ ta có thể tưởng tượng ra cảnh sắc mùa thu, một không gian nghệ thuật đang bao trùm xung quanh chúng ta. Nước trong veo của ao có thể giúp ta nhìn xuyên thấu được qua lòng ao, một không khí lạnh lẽo đang lan tỏa ra khắp không gian. Không còn cái se lạnh đầu thu nữa mà là đã thu phân, thu mạt rồi nên mới lạnh lẽo như vậy. Không biết từ bao giờ mà trên lòng ao đã xuất hiện một chiếc thuyền câu giữa không gian bao la rộng lớn dường như sự cô đơn của chiếc thuyền đang lan tỏa rộng ra khắp không gian. Bé tẻo teo nghĩa là rất bé nhỏ; âm điệu của vần thơ cũng gợi ra sự hun hút của cảnh vật [trong veo – bé tẻo teo]. Đó là một nét thu đẹp và êm đềm. Tiếp đó cùng bước vào thế giới nghệ thuật của hai câu thơ tiếp theo:

“ Sóng nước theo làn hơi gợn tí

Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo”

Hai câu thơ đang gợi tả cảnh vật xung quanh theo không gian hai chiều có thể nhìn bằng mắt là sóng đang gợn và tai có thể nghe thấy tiếng lá được gió đưa vèo. Vô cùng mộc mạc giản gị nhưng cũng có thể  cho người ta thấy được sự hài hòa của màu sắc được tác giả miêu tả có sóng biếc có lá vàng. Gió thổi nhẹ cũng đủ làm cho chiếc lá thu màu vàng khẽ đưa vèo, làm cho sóng biếc lăn tăn từng làn từng làn hơi gợn tí. Ngoài ra bên cạnh đó tác giả còn kết hợp sử dụng phép đối một cách vô cùng tài tình giúp cho nét thu được nhấn mạnh giúp người đọc có thể hình dung ra không gian mà tác giả đang miêu tả như đang ở trước mặt mình một cách vô cùng chân thực và rõ nét. Phải công nhận một điều là ngòi bút của tác giả Nguyễn Khuyến vô cùng tinh tế trong dùng từ và cảm nhận, lấy cái lăn tăn của sóng hơi gợn tí phối cảnh với độ bay xoay xoay khẽ đưa vèo của chiếc lá thu. Chữ vèo là một nhân tự mà sau này thi sĩ Tản Đà vừa khâm phục, vừa tâm đắc. Ông thổ lộ một đời thơ mới có được một câu vừa ý: vèo trông lá rụng đầy sân [cảm thu, tiễn thu]. Chưa dừng lại ở đấy Nguyễn Khuyến còn giúp chúng ta mở rộng tầm mắt hơn ở hai câu thơ tiếp theo:

“ Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt

Một bầu trời xanh ngắt và thăm thẳm bao la và rộng lớn đang bao trùm lấy không gian nơi đây. Những áng mây  đang lẳn lặng trôi trên bầu trời rộng lớn như đang nhấn mạnh sự rộng lớn của không gian nơi đây. Thoáng đãng, êm đềm, tĩnh lặng và nhẹ nhàng. Không một bóng người lại qua trên con đường làng đi về các ngõ xóm: Ngõ trúc quanh co khách vắng teo. Vắng teo nghĩa là vô cùng vắng lặng không một tiếng động nhỏ nào, cũng gợi tả sự cô đơn, trống vắng. Ngõ trúc trong thơ Tam nguyên Yên Đổ lúc nào cũng gợi tả một tình quê nhiều bâng khuâng, man mác:

Dặm thế, ngõ đâu từng trúc ấy Thuyền ai khách đợi bến đâu đây?

[Nhớ núi Đọi]

Có lẽ một trong những sự vật quen thuộc với hình ảnh làng quê đó là ngõ trúc và tầng mây. Hai sự vật này đã từng xuất hiện rất nhiều trong các tác phẩm nghệ thuật. Có vẻ như tác giả đang tự hòa mình và đắm chìm vào trong cảnh sắc nơi đây nên mới có thể miêu tả một cách vô cùng chân thực như  vậy được. Đến hai câu kết thì bức tranh thu mới xuất hiện một đối tượng khác:

“ Tựa gối ôm cần lâu chẳng được

Cá đâu đớp động dưới chân bèo”

Thu điếu nghĩa là mùa thu câu cá. Sáu câu đầu mới chỉ có cảnh vật: ao thu, chiếc thuyền câu, sóng biếc, lá vàng, tầng mây, ngõ trúc.. Hình ảnh người câu cá đến tận phần cuối cùng mới thấy xuất hiện với một tư thế tựa gối ôm cần vô cùng nhàn nhã. Trong tâm thế đợi chờ lâu chẳng được bỗng nhiên tác giả bỗng nhiên chợt tỉmh vì nghe thấy tiếng cá đớp động dưới chân bèo. Sự chờ đợi đã từ rất láu mãi đến bây giờ đã có một chút kết quả. Người câu cá như đang không quan tâm đến mọi thứ tạp niệm chỉ tập trung hòa mình vào trong không gian bây giờ, trong cảnh sắc vô cùng tuyệt đẹp, và trong giấc mộng mùa thu. Người đọc nghĩ về một Lã Vọng câu cá chờ thời bên bờ sông Vị hơn mấy nghìn năm về trước. Chỉ có một tiếng cá đớp động sau tiếng lá thu đưa vèo, đó là tiếng thu của làng quê xưa. Âm thanh ấy hòa quyện với một tiếng trên không ngỗng nước nào, như đưa hồn ta về với mùa thu quê hương. Người câu cá đang sống trong một tâm trạng cô đơn và lặng lẽ buồn. Một cuộc đời thanh bạch, một tâm hồn thanh cao đáng trọng.

Thu điếu là một trong những tác phẩm quá tuyệt vời của tác giả Nguyễn Khuyến. Xuân Diệu đã từng bộc bạch rằng trong Thu điếu có một nét diệu xanh mà người tả không tài nào hiểu hết vẻ đẹp, vẻ tinh túy của nó được.  Có xanh ao, xanh sóng, xanh trời, xanh tre, xanh bèo… và chỉ có một màu vàng của chiếc lá thu đưa vèo. Tuy nhiên ẩn sâu trong cái tĩnh lặng này lại có một nỗ buồn man mác của tác giả. Một tâm thế an nhàn và thanh cao gắn bó với mùa thu quê hương, với tình yêu tha thiết. Mỗi nét thu là một sắc thu, tiếng thu gợi tả cái hồn thu đồng quê thân thiết, vần thơ: veo – teo – vèo – teo – bèo, phép đối tạo nên sự hài hòa cân xứng, điệu thơ nhẹ nhàng bâng khuâng… cho thấy một bút pháp nghệ thuật vô cùng điêu luyện, hồn nhiên – đúng là xuất khẩu thành chương. Thu điếu xứng đáng là một tác phẩm tả cảnh ngụ tình xuất sắc trong chương trình Ngữ văn lớp 11.

Bài phân tích 10

Một trong những thú vui tao nhã của con người đó là đi câu cá.  Những bậc hiền tài thời xưa cũng không ngoại lệ. Đôi khi họ đi câu cá để ngồi trên bờ suy nghĩ những chuyện giúp ích cho thiẻn hạ, chuyện naem cháu bốn biển, thế sự đảo điên. Các bậc cao nhán đi câu cá để hưởng thụ thiên nhiên, hòa mình vào không gian trời đất giúp mình cảm thấy tự tại. Tác giả Nguyễn Khuyến đã đi câu cá kiểu này, ông đã tận dụng mọi giác quan để cảm nhận hết mọi sự vật sự việc diễn ra xung quanh bản thân. Ông cảm nhận mùa thu một cách chân thực nhất, cũng như bao người khác khi đi câu ông cũng tập trung tinh thần, chờ đợi kết quả. Cuối cùbg có lẽ kết quả to lớn mà ông dành được chính là tác phẩm “ Thu điếu”. Một trong những tác phẩm kiệt tác của nước nhà.

“Ao thu lạnh lẽo nước trong veo, Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo. Sóng biếc theo làn hơi gợn tí, Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo. Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt. Ngõ trúc quanh co khách vắng teo. Tựa gối, ôm cần lâu chẳng được,

Cá đâu đớp động dưới chân bèo.”

Hình ảnh mùa thu hiện ra một cách vô cùng giản dị và thân thương với không gian bình dị ở làng quê tác giả trong một chiếc ao nhỏ với một chiếc thuyền lặng lẽ trôi:

“ Ao thu lạnh lẽo nước trong veo

Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo”

Đằng sau những ngôn từ dân giã đó chính là một cái tôi trữ tình của tâc giả. Cảm giác của thi nhân hiện lên vừa sắc sảo mà hết sức tinh tế. Mùa thu đã vào chiều sâu, “ao thu lạnh lẽo” với mặt nước “trong veo” rất muốn nhìn, ao thu như là chiếc gương tròn của làng quê. Làng Bùi của nhà thơ là đồng chiêm trũng rất nhiều ao, ao nhỏ. Ao nhỏ thì thuyền câu cũng nhỏ theo “bé tẻo teo”, vần eo là thử vận hiểm hóc, vậy mà câu thơ trôi chảy tự nhiên như không, như không có chút gì là kĩ xảo cả. Thuyền câu đã hiện ra đấy mà người câu đâu chẳng thấy. Cũng chưa thấy cần thấy nhợ gì cả. Người đi câu còn mải mê với trời nước của mùa thu:

Sóng biếc theo làn hơi gợn tí,
Lá vàng, trước gió khẽ đưa vèo

Ao thu chẳng còn mang vẻ tĩnh lặng như lúc ban đầu nữa ngược lại đã bắt đầu nổi những cơn sóng nhỏ  với hai thanh trắc ở đầu câu [sóng biếc] và hai thanh trắc ở cuối câu [gợn tí]. Sóng nhỏ vốn lẽ bởi vì ao nhỏ, lại ở trong một  hỗ khuất. Nét đặc biệt của mùa thu thì phải kể đến từng cơn gió nhẹ, từng ngọn gió heo may thổi qua một cách nhẹ nhàng. Con sóng được tác giả miêu tả với màu sắc vô cùng mới mẻ và đặc biệt “ sóng biếc”  Cho dù những chi tiết nhỏ nhất tác giả cũng đặt hết tâm huyết của mình vào tạo ra một sự tinh tế sâc sảo đến lạ thường. Hai câu thực đối rất chỉnh “sóng biếc” đối với “lá vàng”, đều là màu sắc đặc trưng của mùa thu. “Hơi gợn tí” đối với “khẽ đưa vèo”, vận động của chiều dọc tương xứng với vận động của chiều ngang thật tài tình.
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo.

Nhà thơ đã thả hồn theo chiếc lá vàng “khẽ đưa vèo” trên mặt ao trong veo. Cái màu vàng của mùa thu mà bao nhiêu thi nhân đã ngợi ca:

Con nai vàng ngơ ngác Đạp trên lá vàng khô [Lưu Trọng Lư] Vàng rơi! Vàng rơi! Thu mênh mông.

[Bích Khê]

Dưới cặp mắt nghệ thuật của nhà thơ Xuân Diệu thì chiếc lá vàng trong thơ Nguyễn Khuyến “Cái thú vị của bài Thu Điếu ở các điệu xanh, xanh ao, xanh bờ, xanh sóng, xanh tre, xanh trời, xanh bèo, có một màu vàng đâm ngang của chiếc lá thu rơi…”. Lời bình của Xuân Diệu thật là tâm đắc.

Nhà thơ còn mở rộng không gian lên cao giúp cho bức tranh của Thu điếu thêm phần rộng lớn, bao quát , thêm đường nét và thêm những đường sắc mới.

“ Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt,
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo”

Một màu xanh vô cùng nhẹ nhàng nhưng vô cùng đẹp đẽ mng lại cho chúng ta một cảm giác thoải mái dễ chịu. Trong màu “xanh ngắt” có cái thăm thẳm của chiều cao. Mây không trôi mà “lơ lửng” những áng mây trắng “lơ lửng” trên bầu trời “xanh ngắt” thật là thanh bình. Xa xa gần gần rồi tác giả bắt đầu quay lại với hình ảnh thôn quê mộc mạc. “Ngõ trúc quanh co”, đường làng quanh co thân thuộc với bóng tre trùm mát rượi. Những hình ảnh đã từng xuất hiện rất nhiều trong các tác phẩm văn học nghệ thuật. Nhưng mỗi tác giả đều có cách làm cho hình ảnh mình miêu tả trở nên nổi bật và Nguyễn Khuyến cũng không ngoại lệ. Nguyễn Khuyến có lẽ rất thiach hình ảnh của loài tre trúc ấy “Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu” [Thu vịnh], “Ngõ trúc quanh co khách vắng teo”. Ông đã nhắc đến nó trong nhiều tác phẩm nghệ thuật chắc có lẽ là vì khí chất hiên ngang không chịu khuất phục của nó. “Trúc dầu cháy đốt ngay vẫn thẳng”. Trên con đường làng quê quanh co uốn lượn lại điểm xuyết những rặng trúc thẳng tắp hình ảnh trái ngược nhưng lại góp phần cho chúg ta cảm nhận đượ hết nét gần gũi của làng quê Việt Nam. Trời lạnh, đường quê vắng vẻ, “khách váng teo”. Bức tranh thu đượm buồn. Các thi sĩ thích miêu tả cảnh thu trong tĩnh lặng, đẹp, nhưng buồn. Sau Nguyễn Khuyến, nhà thơ lãng mạn Xuân Diệu cũng viết:

Đã nghe rét mướt luồn trong gió Đã vắng người sang những chuyến đò

[Đây mùa thu tới]

Bài thơ kết thúc với hình ảnh của người đi câu như một nét tự họa:

Tựa gối, ôm cần lâu chẳng được,
Cá đâu đớp động dưới chân bèo.

Nhà thơ thu mình lại “tựa gối ôm cần”, dường như để tương xứng với khung ao nhỏ, với chiếc thuyền “bé tẻo teo”.  Nhà thơ đang đắm chìm vào sự suy tư quên hết đi mọi thứ tạp niệm thì bỗng nhiên một tiếng cử động nhỏ đã khiến tác giả sực nhớ mình đang đi câu cá.

Cá đâu đớp động dưới chân bèo.

Ba chữ “đ” [đâu, đớp, dộng] miêu tả một chút xao động trong làn ao và rất nhiều xao động trong lòng thật là tài tình khiến cho người khác phải ngã mũ thán phục. Có ý kiến cho rằng cử chỉ đi câu của Nguyễn Khuyến giống với Khương Tử Nha và nhà bình luận đó hết lời ngợi ca cả hai ông. Không! Nguyễn Khuyến đâu có còn chờ thời. Nhà thờ chỉ muốn hòa mình vào thiên cảm nhận được hết không khí ở chính nơi thôn quê mình đang sinh sống. Toàn bộ hình tượng thơ “Thu điếu” đã sửa soạn cho thái độ này. Khung cảnh hẹp, làn ao nhỏ, chiếc thuyền “bé tẻo teo”. Nhà thơ thu mình lại “tựa gối ôm cần” hòa điệu với thiên nhiên, tan hòa với non nước. Thế thì làm sao thái độ đi câu của Nguyễn Khuyên lại giống với thái độ đi câu của Khương Tử Nha được? Còn đồng tình với ai đó là chuyện riêng. Tôi đồng tình với Nguvễn Khuyến.

Tất cả các tác phẩm trong chùm thơ của ông đều có thể nói là vô cùng tuyệt vời, tùy nhiên nếu cho tôi chọn một tác phẩm tâm đắc nhất đó chính là “ Thu điếu”. Tác ohaarm này có thể coi là kiệt tác văn học trong nền văn học cổ điển nước nhà. Bài thơ như vẽ ra một bức tranh mùa thu ở trước ta một cách vô cùng chân thật. Nhạc điệu cũng độc đáo. vần gieo hiểm hóc mà tự nhiên, hồn nhiên. Theo Xuân Diệu, cả bài thơ không còn lép chữ nào. Quả thật Nguyễn Khuyến là một thi sĩ cao tay. Cái tình của nhà thơ cũng luôn đi đôi với chữ tài. Một tình yêu to lớn đối với quê hương đất nước con người Việt Nam từng câu từng chữ mà tác giả nhắc đến đều tạo ra những xúc cảm trong tâm hồn Việt Nam.

Bài phân tích 11

Thế kỉ XIX, nửa cuối, nước nhà lâm vào cảnh loạn li, triều đình nhà Nguyễn đang trên đà suy vong nhưng văn chương chữ Nôm thì phát triển mạnh làm hoàn thiện thêm ngôn ngữ tài hoa của truyện Kiều. Những Nguyễn Đình Chiểu, Bà Huyện Thanh Quan, Trần Tế Xương, Nguyễn Khuyến… ít dùng chữ Hán làm ngôn ngữ thơ như các nhà Nho của các thế kỉ trước. Họ đã dùng  “chữ Nôm hóa thơ Đường’.

Khi lui về ở ẩn, ngoài những bài thơ mang nỗi u hoài của người dân mất nước, họ còn có những tác phẩm trữ tình mang hình ảnh thân thiết của miền đất đang sinh sống. Trong số những nhà thơ ấy có Nguyễn Khuyến. Nhà thơ viết những bài về mùa thu đậm đà tình yêu đồng quê, nội cỏ. Một trong những bài thơ nổi tiếng ấy là Thu Điếu – Câu cá mùa thu.

Ao thu lạnh lẽo nước trong veo,

Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo.

Nhà thơ đã giới thiệu không gian, thời gian và hình ảnh đặc trưng của nông thôn miền Bắc. Không gian, trước mắt, là ao, thời gian là mùa thu, hình ảnh đặc trưng chính của bài thơ ấy là thuyền câu bé. Tiết trời mùa thu ở miền Bắc se lạnh, nước ao hồ ít bị khuấy động, lại thêm trời thu trong xanh khiến nước ao thu như trong ngần. Giữa cảnh ao thu như thế có chiếc thuyền câu bé. Vần eo ở các chữ trong hai câu mang cái thần của nghệ thuật chọn từ, “ẻo” trong từ lẻo, “eo” trong từ veo, tẻo teo càng làm tăng thêm độ lạnh, độ trong và sự nhỏ bé giữa khí hậu mùa thu, của nước và chiếc thuyền câu. Ao thu ở vùng quê đâu có rộng nhưng bỗng thấy mênh mông, thuyền câu đâu có nhỏ nhưng vẫn thấy nó bé bội phần sao với ao thu. Nguyễn Khuyến chọn từ để tả cảnh như vậy đấy.

Nếu ở hai câu đề, tác giả phác thảo không gian chính ao thu rất tĩnh lặng thì ở hai câu thực tác giả đi vào chi tiết, mở rộng không gian:

Sóng biếc theo làn hơi gợn tí

Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo

Mở rộng không gian để thấy gió qua hình ảnh sóng biếc lăn tăn, chiếc lá vàng đưa vèo, chao xuống. Có một chút man mác buồn trong cảnh thanh vắng của vùng quê. Có gió hiu hắt mới, có sóng biếc, có lá vàng… Gió thu của Nguyễn Khuyến nhè nhẹ, gần trôi, trên mặt nước cũng không thiếu gió heo may và lá vàng. Ngày trước, biết tới mùa thu khi thấy “ngó đồng nhất điệp lạc”, tới thời Nguyễn Khuyến có “lá vàng trước gió”, Tản Đà với “Trận gió thu phong rụng lá hồng”, Xuân Diệu cũng có những dòng:

Đây mùa thu tới mùa thu tới

Với áo mơ phai dệt lá vàng.

Ngôn ngữ nghệ thuật có khác nhau nhưng sắc thu vẫn thế, vần gió se lạnh, vần lá vàng bay …

Từ không gian trên ao, quanh bờ ao, nhà thơ mở rộng tầm nhìn:

Tầng mây lơ lủng trời xanh ngắt

Ngõ trúc quanh co khách vắng teo.

Khung cảnh ao thu bây giờ đã có thêm bầu trời xanh ngắt như trong bài Thu vịnh. Tất cả đều là những sự vật thiên nhiên, kể cả ngõ trúc quanh co. Bức tranh ao thu, thiên nhiên nông thôn miền Bắc được vẽ những nét đơn sơ, mộc mạc như thế, như một bức tranh thủy mặc của một họa sĩ điêu luyện mang trái tim nồng nàn tình yêu thôn dã. Khó để có bức tranh ao thu như thế nếu tác giả không có tâm hồn yêu quê và không có cặp mắt tinh tế, không có những giác quan bén nhạy chọn những chi tiết phù hợp với tâm hồn. Chiếc thuyền câu bé ở trong hai câu đề như vắng bóng con người, ngõ trúc quanh co cũng đành cho con người nhưng người không thấy có. Tất cả chỉ là cảnh tĩnh lặng, mênh mang. Nếu có chút động đậy thì chỉ là những động hờ từ gió trời mang lại. Chúng ta thử đặt câu hỏi: Trong thời mình, thời cực thịnh của Lý – Trần – Lê chẳng hạn, nông thôn ở quê hương Nguyễn Khuyến nói riêng, nông thôn miền Bắc nói chung có quạnh vắng, cô liêu; có cảnh ngõ trúc quanh co khách vắng teo đến như thế? – Có lẽ nào?! Bức tranh thu ở nông thôn miền Bắc trong thời bình không thể vắng lặng đến thế. Thế thì tại sao? Chúng ta có thể lí giải, luận bàn một cách dễ dàng khi lật lại những trang sử thời đại của nhà thơ. Và nhìn vào bức chân dung, vị thế con người ở hai câu kết:

Tựa gối ôm cần lâu chẳng được,

Cá đâu đớp động dưới chân bèo.

Ở câu thừa đề [câu 2], hình ảnh một chiếc thuyền là hình ảnh hoán dụ thì ở câu kết [câu 7] xuất hiện hình ảnh chính: con người. Vị thế của con người tựa gối ôm cần thu nhỏ lại, chiếc thuyền đã nhỏ bé con người ngồi tựa gối ôm cần càng nhỏ hơn, như đang chim đắm vào cõi suy tư. Dù tác giả chẳng dùng từ Hán – Việt, nhưng khi gặp hình ảnh tựa gối ôm cần có người nghĩ đến tích xưa: Khương Tử Nha đời nhà Chu ngồi câu cá chờ thời bên sông Vị Thủy, và sau là người đánh không khớp lắm với đời hoạt động của nhà thơ Nguyễn Khuyến. Nguyễn Khuyến không là người chờ đợi thời cơ mà là một người đã từng làm quan, nay lui về ẩn dật chỉ vì không muốn cam tâm làm tay sai cho giặc trong lúc triều đình Huế thì bảo thủ, ươn hèn. Trong nỗi buồn vận nước suy vong ấy, có lẽ nhà thơ mượn thú câu cá để giải sầu. Nhưng khi buông câu chờ cá cắn, nỗi sầu ấy lại hiện về càng lúc càng sâu nặng. Một con cá nào đó khuấy động bèo thu làm nhà thơ trở về với thực tại trốn chạy nỗi buồn của kẻ sĩ bất lực trước I nỗi dau của dân, của nước.

Thu Điếu mang mùa thu, hồn thu của làng quê Việt Nam qua ngôn ngữ thơ thuần Việt. Tài của nhà thơ là biến tiếng nói dân gian thành ngôn ngữ thơ trong sáng và giản dị, chọn lọc những hình ảnh đơn sơ nhưng tiêu biểu và diễn đạt một cách thật tự nhiên làm nổi bật cái vắng lặng mênh mông của trời đất, giữa cái vắng lặng mênh mông ấy chính là tâm sự u uẩn của con người. Nghệ thuật ấy mang đến cho người đọc sức rung cảm thấm thìa. Và như thế, có người cho rằng Nguyễn Khuyến là một trong những bậc thầy sử dụng ngôn ngữ trong thơ quả là xác đáng.

Bài phân tích 12

Mùa thu luôn là đề tài được các nhà thơ nhàn văn ưu ái lựa chọn bởi vẻ đẹp man mác, đầy bí ẩn mà hấp dẫn của nó. Chúng ta bắt gặp điều đó trong bài thơ câu cá màu thu của Nguyễn Khuyến, nó là một bài thơ thu của nhà thơ Nguyễn Khuyến nằm trong tập thơ thu gồm ba bài là Thu Vinh, Thu Điếu và Thu ẩm. Bài thơ Thu Điếu miêu tả vẻ đẹp tĩnh lặng của mùa thu ở vùng quê xưa, biểu lộ mối tình thu đẹp mà cô đơn, buồn của một nhà Nho nặng lòng với quê hương đất nước.

Nếu trong bài thơ Thu vịnh, mùa thu được nhà thơ Nguyễn Khuyến cảm nhận từ cái không gian thoáng đãng, mênh mông, bát ngát “Trời thu xanh ngắt mất tầng” thì sang đến Thu điếu, nhà thơ lại gói gọn mùa thu trong môt khung trời hẹp hơn là ao thu- đặc điểm của vùng đồng chiêm trũng, vùng quê của tác giả.

Ao thu lạnh lẽo nước trong veo

Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo

Cách phối hai vần “eo” cho ta một cảm giác lạnh lẽo, yên tĩnh một cách lạ thường. Câu thơ được chèn thêm hai từ “lẽo” và “veo” càng như tô đậm hơn khung cảnh tĩnh lặng hơn nữa. Khung ao tuy hẹp nhưng tác giả đã không giới hạn nó mà mở ra nhiều chiều, trong cái không khí se lạnh đó dường như làm cho ao cá ở độ thu về trong trẻo hơn biết bao. Trong cái khung cảnh trống vắng, yên tĩnh lại có sự xuất hiện của “một chiếc thuyền câu bé tẻo teo” làm cho không gian tĩnh trở nên có động hơn, cảnh thu thêm phần ấm cúng hơn vì có hình ảnh của cuộc sống con người nơi đây. Hình ảnh chiếc câu cá làm cho đối tượng miêu tả trở nên gần gũi biết bao. Nếu hai câu đầu, nhà thơ sử dụng những từ ngữ gợi hình, tạo độ gợi, độ liên tưởng cao như “lẽo”, “veo”, “tẻo teo” mang đến nỗi buồn man mác, sự vắng vẻ thì hai câu tiếp theo

Sóng biếc theo làn hơi gợn tí

Lá vàng theo gió khẽ đưa vèo

Càng làm không khí tĩnh lặng hơn, nhà thơ sử dụng hình ảnh động của “lá vàng” để miêu tả cái tĩnh của cảnh sắc thu Việt Nam. Ao thu không còn sự “lạnh lẽo”, sự tĩnh lặng nữa vì mặt hồ đã “gợn tí”, “lá vàng theo gió khẽ đưa vèo”, cảnh vật dường như đã bắt đầu thay đổi. Hình ảnh con “sóng biếc” nhỏ “gợn tí”và “chiếc lá” mải mê theo gió “đưa vèo” tưởng như mâu thuẫn với nhau, nhưng thật ra ở đây nhà thơ đã quan sát kĩ càng từng hành động rất nhỏ. Chắc hẳn phải có một tâm hồn yêu thiên nhiên vô cùng, yêu cuộc sống sâu sắc thì Nguyễn Khuyến mới có thể cảm nhận được những hình ảnh, những âm thanh tinh tế, tưởng chừng như chẳng ai để ý như vậy. Tất cả tạo nên một không gian mở theo chiều sâu, chiều cao làm nên một sự rộng rãi, thoáng đạt cho cảnh sắc đất trời vào thu.

Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt

Ngõ trúc quanh co khách vắng teo

Tù xưa đến nay, hình ảnh bầu trời thu xanh ngắt vẫn luôn là biểu tượng đẹp của màu thơ. Những áng mây cứ thả mình trôi “lơ lửng” khắp bầu trời thoáng đãng, êm đềm, tĩnh lặng và nhẹ nhàng. Ông mở ra một không gian đầy cảm hứng, rộng rãi chen vào đó còn là cảnh sắc àng quê với hình ảnh tre trúc, những ngõ xóm quanh co,…tất cả đều thân thương nhuốm màu thôn quê Việt Nam.”Ngõ trúc quanh co khách vắng teo” gợi một sự vắng lặng đến mức không có một tiếng động nhỏ nào làm người đọc liên tưởng đến sự cô đơn, trống vắng. Nhà thơ tinh tế lấy cảnh ngụ tình để bộc lộ sự cô đơn của bản thân. Những đường nét quê hương tĩnh lặng, bình dị in đậm trong từng câu thơ của Nguyễn Khuyến.

Đến hai câu thơ kết thì bức tranh thu có sự xuất hiện mới lạ

Tựa gối ôm cần lâu chẳng được

Cá đâu đớp động dưới chân bèo

Độc giả chờ đến tận hai câu kết để thấy được sự xuất hiện của người câu cá, ông xuất hiện với tư thế vô cùng nhàn nhã: tựa gối ôm cần. Người câu cá đang ru mình trong giấc mộng mùa thu thì ông vẫn cảm nhận được những tiếng động nhỏ “cá đớp” mồi dưới chân bèo. Có lẽ trong những ngày từ quan lui về ở ẩn, dường như việc câu thú là thú vui tao nhã của nhà thơ để quên đi chốn quan trường, hòa mình vào thiên nhiên để lãng quên những bận lòng với nước non. Người câu cá đang sống trong một tâm trạng cô đơn và lặng lẽ, một cuộc đời thanh bạch, một tâm hồn thanh cao đáng nể trọng.

Đến với những vần thơ thu của Nguyễn Khuyến, ta thấy được một màu thu nên thơ, trữ tình đến lạ, cảnh màu thu trong thơ ông mang nét đặc sắc riêng in đậm màu thu của quê hương tác giả, màu thu của vùng đồng chiêm Bắc Bộ lúc bấy giờ. Chỉ với bầu trời “xanh ngắt” [Thu vịnh], với cái nước “trong veo” của ao cá [thu điếu], và cái “lưng giậu phất phơ màu khói nhạt, làn ao lóng lánh bóng trăng loe” [thu ẩm]. Nguyễn Khuyến đã làm say đắm lòng bao thế hệ độc giả. Nhận xét về chùm thơ thu của Nguyễn Khuyến, Xuân Diêu có viết “Bài thơ thu vịnh là có thần hơn hết nhưng ta vẫn phải nhận ra thu điếu là điển hình hơn cả cho mùa thu của làng quê Việt Nam”. Phải công nhận một điều, bài thơ thu điếu là bài thơ tả cảnh ngụ tình tuyệt bút, sự hài hòa cân đối giữa điệu thơ nhẹ nhàng bâng khuân với sự vận dụng tài tình của bút pháp nghệ thuật vô cùng điêu luyện, cách gieo vần của tác giả, tất cả tạo nên một bài thơ câu cá màu thu đi sâu vào lòng bạn đọc.

Bài thơ câu cá mùa thu của Nguyễn Khuyến là một bài thơ nổi tiếng, là một bài thơ chứa đựng những giá trị nhân văn sâu sắc. Bài thơ bộc lộ được tâm tư tình cảm của nhà thơ đối với quê hương đất nước và con người Việt Nam.

Bài phân tích 13

Mùa thu là đề tài hấp dẫn các nhà thơ từ cổ chí kim. Và thơ hay về mùa thu cũng không phải là hiếm. Song người đọc, khi tìm đến những vần thơ thu, ít ai có thể quên được ba bài thơ nổi tiếng của Tam Nguyên Yên Đổ. Chính ba bài thơ này đã đưa Nguyễn Khuyến trở thành nhà thơ kiệt xuất của làng cảnh Việt Nam. Trong số những bài thơ toàn bích ấy, Thu điếu có một vị trí nổi bật bởi nó “điển hình hơn cả” cho mùa thu xứ Bắc [Xuân Diệu].

Về bản chất, Thu điếu vẫn là bài thơ được viết theo lối đề vịnh, tả cảnh để diễn tình. Tài hoa của Nguyễn Khuyến là ở chỗ: dẫu bị gói gọn trong khuôn khổ của một bài thơ Đường luật, song lời thơ trong suốt đến mức không hề có một điển tích điển cố nào. Hơn nữa, nhà thơ không tuân thủ những quy định nghiêm ngặt về hình thức đề – thực – luật – kết thông thường mà ưu tiên cho cảnh [chiếm sáu câu đầu] chỉ dành hai câu cuối để nói chuyện đi câu.

Bức tranh phong cảnh được bắt đầu từ “ao thu”:

Ao thu lạnh lẽo nước trong veo
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo.

Nếu như ở Thu vịnh, cảnh thu được đón nhận từ tầm xa thì ở Thu điếu cảnh lại được đón nhận ở tầm gần. “Ao thu” như một tiêu điểm để từ đó, bức tranh về mùa thu được nối dần cao, ra xa. Cảnh sắc, không khí hiện ra trong sự tĩnh lặng gần như tuyệt đối – và sự vật: “chiếc thuyền” cũng như cố thu nhỏ lại, trước là để hợp với “ao thu”, sau là để khuôn cảnh thu vào trong một phạm vi nhất định. Các vần “eo” hóc búa được gieo liên tiếp nhau vừa chứng tỏ tài nghệ của người cầm bút, vừa làm cho không gian, từ chiếc ao, chiếc thuyền trở nên gần gũi, xinh xắn trong sự bình yên. Đến với câu thơ mở đầu người đọc rất dễ có cảm giác rùng mình trước sự lạnh lẽo của cái “trong veo” đi liền với cái “lạnh lẽo” định tính.

Sóng biếc theo làn hơi gợi tí
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo.

Đến đây mới thấy sự sống cựa mình. Cựa rất khẽ: “hơi” “khẽ”. Cái lạnh toả ra từ nước, cái lạnh theo gió thổi vào, làm cho ao hơi lăn tăn sóng, vừa đủ để chiếc lá chao xuống nền thu… Phải là người có đầu óc quan sát rất tinh, nhập vào hồn của cảnh mới nhận ra được cái biến thái tinh vi: hơi gợn tí, khẽ đưa vèo… Nói đến mùa thu, Nguyễn Khuyến không dứt ra được cái màu vàng đặc trưng, quyến rũ của nó. Nhưng đây không phải màu vàng do “non phơi bóng” trong thơ Nguyễn Du; cũng không mênh mông như trong thơ Bích Khê về sau: “Ô hay, buồn vương cây ngô đồng – Vàng rơi, vàng rơi, thu mênh mông”. Màu vàng mùa thu, qua hình hài của chiếc lá, thả một “điệu rơi” khẽ khàng bóng, xanh tre… Trước hai câu thơ này, Xuân Diệu thán phục: “Cả bài thơ không non ép một chữ nào, nhất là hai câu 3 – 4 […] Thật tài tình, nhà thơ đã tìm được cái tốc độ bay của lá, “vèo”, để tương xứng với mức độ gợn của sóng; “tí” và vừa, tất cả mùa thu được bao bọc trong cái “toan” xanh rộng lớn da trời xanh ngắt [cả ba bài thơ của Nguyễn Khuyên đều nhắc đến màu xanh “muôn đời” này của mùa thu. Điều này cho thấy, cách pha chế màu sắc, cách tạo đường nét trong Thu điếu đậm màu sắc hội họa phương Đông. Bức tranh thu được phác vẽ bằng rất ít chi tiết nhưng đầy ấn tượng. Gần và thấp thì có ao, có thuyền, có sóng, cao hơn thì có lá và cao hơn nữa là trời xanh, tầng mây. Cảnh hoàn toàn vắng lặng, nếu có xao động một chút: “khẽ đưa” “rơi vèo” thì cũng là để nhấn mạnh thêm tính chất thanh vắng ấy. Những đám mây cao xa chậm rãi, lơ lửng như đính hờ, đính nhẹ vào áo thu xanh. Mùa thu được nhìn lên rồi lại được nhìn xuống. “Ngõ trúc quanh co khách vắng teo”. Luật viễn cận dược kết hợp thật hài hòa. Cái yên lặng đến mức gần như tuyệt đối của cảnh thu hoàn toàn tương ứng với tình thu. “Biết bao thời gian đã trôi qua trong không gian trong sáng tĩnh lặng ấy? Chắc là rất lâu, tư thế ngồi của ông câu như cũng bất động trước thời gian”. Đúng vậy, bài thơ nói chuyện đi câu, nhưng chỉ có hai câu thơ cuối bài mới nói đến người đi câu, nói đến cá đớp chân bèo:

Tựa gối, ôm cần, lâu chătng được
Cá đâu đớp động dưới chân bèo.

Cái tư thế của ông câu – giống như cảnh – cũng đang cố thu nhỏ lại. Hình như ông không để ý đến chuyện đi câu. Vậy thì ông câu đang có tâm trạng nào chăng? Trước hết, người đi câu “bất động” bởi đang lặng im giao cảm với thiên nhiên, lặng im để chọn cảnh thu, hồn thu “xâm chiếm lòng mình”. Hay nói khác đi, tâm hồn thi nhân đang rộng mở trước cảnh thu. Cái trong, cái tĩnh của hồn người ứng với cái trong cái tĩnh của cảnh thu, hồn thu. Cho đến nay, chưa ai biết được đích xác Nguyễn Khuyến viết bài thơ này vào lúc nào. Nhưng có điều chắc chắn là, nó được viết trong khoảng thời gian nhà thơ từ quan về quê, sống trong cảnh thanh bần. Lánh đục để về trong, nhưng đâu phải thi nhân không đau xót trước bụi trần, không chán ghét cảnh bon chen. Vậy nên, trong cái tư thế “tựa gối ôm cần” kia, biết đâu chẳng trĩu nặng tâm tư của người đi câu? Chỉ đến khi “cá đâu đớp động” mới khiến nhà thơ khi giật mình quay về với thực tại. Trong cái giật mình ấy, ta nhận ra chủ ý của người đi câu là “khát vọng câu thanh, câu vắng cho tâm hồn của một nhà thơ có phẩm cách thanh cao” [Trần Đình Sử], chứ không phải để giải trí đơn thuần.

Cùng với Thu ẩm và Thu Vịnh, Thu điếu đã góp thêm một bức tranh thu tuyệt đẹp bởi một trình độ “chạm trổ” nghệ thuật bậc thầy. Làng quê Việt Nam, qua những chi tiết hốt sức chọn lọc, giàu sức gợi đã hiện lên với tất, cả vẻ đẹp yên bình, đầy chất thơ trong sáng. Trong cái vắng lặng đến mênh mông ấy của cảnh thu, hồn thu, ta bắt gặp một nỗi niềm, một khát vọng Nguyễn Khuyến: được “câu thanh, câu vắng”, được giữ trọn khí tiết của mình. Đây là một khát vọng đáng quý của một nhân cách đáng trọng.

Bài phân tích 14

Nguyễn Khuyến vừa là nhà thơ trào phúng vừa là nhà thơ trữ tình, nhuốm đậm tư tưởng Lão Trang và triết lí Đông phương. Thơ chữ Hán của ông hầu hết là thơ trữ tình. Có thể nói cả trên hai lĩnh vực, Nguyễn Khuyến đều thành công. Thu điếu được trích từ chùm thơ thu gồm ba bài: Thu điếu, thu vịnh. Cả ba thi phẩm đều được viết bằng từ chương, bút pháp thi trung hữu họa, lấy động tả tĩnh của văn học trung đại, nhưng vẫn mang đậm dấu ấn riêng của một trong những bậc thầy thơ Nôm đường luật xuất sắc.

Cảnh vật được đón nhận từ gần đến cao xa rồi từ cao xa trờ lại gần. Từ điểm nhìn của một người ngồi chiếc thuyền nhìn ra mặt ao, nhìn lên bầu trời, nhìn tới ngõ vắng rồi lại trở người về với ao thu, nhà thơ đã quan sát không gian, cảnh sắc thu theo người lương thật sinh động.

“Ao thu lạnh lẽo nước trong veo,

Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo.”

Nguyễn Khuyến đã chọn những chi tiết rất tiêu biểu cho mùa thu xứ Bắc [ao thu, gió thu, trời thu]. Ao thu là thứ ao rất riêng chỉ mùa thu mới xuất hiện. Nguyễn Khuyến đã ghi nhận được hai đặt trưng của ao thu là lạnh lẽo và trong veo – ao lạnh nước yên, trong đến tận đáy. Ao là nét thường gặp trong thơ Nguyễn Khuyến, nói đến ao là gợi đến một cái gì rất gần gũi, thân quen, tâm hồn Nguyễn Khuyến là thế: thân mật, bình dị, chân thành với hồn quê. Trời thu trong xanh cũng là hình quen thuộc trong thơ Nguyễn Khuyến. Bầu trời thu xanh ngắt xưa nay vẫn là biểu tượng đẹp của mùa thu. Những án mây không trôi nổi bay khắp bầu trời mà lơ lửng. Xanh ngắt trong thơ Nguyễn Khuyến là xanh trong, tinh khiết đến tuyệt đối, không hề pha lẫn, không hề gợn tạp.

Đường nét chuyển động nhẹ nhàng, mảnh mai, tinh tế: hơi gợn tí, khẽ đưa vèo, mây lơ lửng, đường bao thanh mảnh của rặng trúc, đường gợn của lượn sóng ao thu. Cảnh vật toát lên sự hài hòa, xứng hợp: Ao nhỏ – thuyền bé; gió nhẹ – sóng gợn; trời xanh – nước trong; khách vắng teo – chủ thể trầm ngâm tĩnh lặng. Sau này Xuân Diệu trong bài Đây mùa thu tới cũng đã bắt được những nét điển hình đó của sông nước ở vùng quê, khi trời đã bắt đầu bước vào những ngày giá lạnh:

Những luồng run rẩy rung rinh lá…

… Đã nghe rét mướt luồng trong gió

Đã vắng người sang những chuyến đò.

Nghệ thuật sử dụng ngôn từ của tác giả các từ láy vừa tạo hình, vừa gợi cảm, những tính từ và các từ chỉ mức độ như lạnh lẽo, trong veo, bé tẻo teo, hơi gợn tí, khẽ đưa vèo, lơ lửng, xanh ngắt, vắng teo, quanh co việc lựa chọn vầng eo đã gợi nên cảm nhận mỗi lúc một thu hẹp diện tích

Cảnh buồn cảnh chẳng đeo sầu – bức tranh cảnh thu đã hé mở cho chúng ta tình thu của người trong cảnh. Phải chăng đây là tâm trạng thời thế của nhà thơ? Thời thế thay đổi nhanh quá! Thoáng chốc non sông đã mất trong tay kẻ thù. Thoáng chốc thời cuộc đã vụt qua: Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo. Mặt nước, tầng mây lơ lửng và sắc trời mở ra không gian cho bài thơ phải chăng cũng đồng thời ẩn chứa những nỗi niềm tâm sự liệu có chút gì lơ lửng về thời cuộc? Chọn con đường ở ẩn để giữ trọn thân danh, giữ lấy cái cao khiết để như biểu tượng đăm đắm của bầu trời kia phải chăng đã thật đúng, hay chỉ là để “chạy làng” trong cách nói cay đắng của một vị đại khoa.

Ngõ trúc quanh co khách vắng teo phải chăng là tâm sự cô đơn, cô quạnh? Nguyễn Khuyến có lần tự thấy mình như một cành cô trúc đó thôi! Lẽ loi và cô đơn, vắng teo trước thời cuộc rộn ràng. Đó là tâm sự của một nhà nho lánh đời thoát tục song vẫn không nguôi nghĩ về đất nước, nhân dân, về sự bế tắc, bất lực của bản thân? Nhàn thân song không nhàn tâm, Nguyến Khuyến không thể ung dung đi câu như một ẩn sĩ thực thụ.

Câu thơ cuối, với tiếng động duy nhất: tiếng cá đớp động. Phải chăng đó là âm thanh của cõi lòng người câu cá? Nguyễn Khuyến nói chuyện câu cá nhưng thực ra tác giả không chú ý vào việc câu cá. Nói câu cá nhưng thật ra là để đón nhận trời thu vào lòng, gửi gắm tâm sự. Cõi lòng tĩnh lặng để cảm nhận độ trong veo của nước, cảm nhận cái hơi gợn của sóng, cảm nhận độ rơi khẽ của lá. Đặc biệt cõi lòng tĩnh lặng được gợi lên sâu sắc từ một tiếng động nhỏ: tiếng cá đớp mồi. Đó là sự tĩnh lặng tuyệt đối của tâm cảnh, cõi lòng của thi nhân cũng tĩnh lặng, trong trẻo như làng quê Việt trong tiết thu.

Bài thơ Câu cá mùa thu thể hiện sự cảm nhận và nghệ thuật gợi tả tinh tế của Nguyễn Khuyến về cảnh sắc thu đồng bằng Bắc Bộ, đồng thời cho thấy tình yêu thiên nhiên, đất nước, tâm trạng thời thế về tài thơ Nôm của tác giả.

Bài phân tích 15

Mùa thu, mùa của hoa sữa thoảng thoảng, mùa của rơm rạ vàng thơm, mùa được các nhà thơ yêu và đưa vào trong những trang thơ nhiều nhất. Với Hữu Thỉnh nhẹ nhàng mùi hương ổi ông đã cảm nhận được thu về: “Bỗng nhận ra hương ổi – phả vào trong gió se- sương chùng trình qua ngõ -hình như thu đã về”. Nhưng mùa thu trong mắt Nguyễn Khuyến thì lại khác. Qua  bài thu điếu ta thấy đằng sau cảnh thu tĩnh lặng thì lại là nỗi niềm tâm sự sâu kín của người thi sĩ.

Thu điếu viết bằng chữ Nôm theo thể thất ngôn bát cú, hầu hết tám câu thơ đều tả cảnh, hình ảnh con người chỉ xuất hiện ở hai câu cuối. Cảnh của bài thơ vẫn là trời, nước gió, trúc.. những hình ảnh quen thuộc trong thơ xưa.

Ao thu lạnh lẽo nước trong veo

Hình ảnh “ao thu” miêu tả với tính từ “lạnh lẽo”. Có lẽ cái lạnh của mùa thu cũng ngấm dần vào làn nước và ngấm dần vào tâm hồn nhà thơ. Tính từ “trong veo” miêu tả làn nước, không gian tĩnh lặng.Nước trong veo chứ không phải là lăn tăn gợn sóng, hai âm “eo” được lặp liên tiếp ở câu trên và câu dưới khiến cho cảm giác về sự tĩnh lặng càng trở nên thật hơn.

Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo

Không gian lạnh lẽo của mùa thu ấy xuất hiện chiếc thuyền cô đơn lẻ loi. Tác giả dùng từ “bé tẻo teo” khiến cho chiếc thuyền càng trở nên nhỏ bé hơn, đơn độc hơn. Nhà thơ Nguyễn Du đã từng nói: “người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Thật đúng cảnh dưới con mắt nhà thơ sao mà buồn tẻ, sao mà cô đơn đến lạ. Cuộc sống bây giờ tĩnh lặng đến nghẹt thở chẳng có âm thanh để chứng tỏ cuộc sống ồn ã vẫn đang tiếp diễn

Sóng biếc theo làn hơi gợn tí

Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo

Bức tranh thu tiếp tục hiện lên hình ảnh “Sóng và lá vàng”. Mọi vận động  đều khẽ khàng và nhẹ nhàng như thế “sóng lăn tăn gợn tí”, “lá vàng đưa vèo”. Tác giả thật tinh tế về việc sử dụng từ tượng hình và từ tượng thanh. Cảnh vật miêu tả theo chiều hướng lấy động tả tĩnh, dù bức tranh ấy có âm thanh nhưng âm thanh khẽ khàng quá lại càng toát lên vẻ tĩnh lặng của mùa thu

Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt

Ngõ trúc quanh co khách vắng teo

Không gian được mở rộng ra cả tầm cao và tầm rộng. “Tầng mây lơ lửng” mây cứ chùng chình lơ lửng, mây cũng chẳng muốn bay. Cuộc sống chẳng hối hả hay tâm hồn nhà thơ đang sâu đầy tâm tư. Bầu trời thu “xanh ngắt”, màu sắc đậm nét của bức tranh thu, mỗi nét vẽ của Nguyễn Khuyến đếu rất dứt khoát để tả cảnh vật “ đưa vèo”, “hơi gợn tí”, “xanh ngắt”. Mây trời đơn điệu và tẻ nhạt. Còn ngõ trúc “quanh co”,“vắng teo”. Nguyên từ “vắng” đã nói rõ sự tĩnh lặng rồi nhưng tác giả lại còn sử dụng “ vắng teo” thì có nghĩa không gian thu ấy không âm thanh, không chút cử động, không bóng người chỉ có màu sắc ơ thờ không hòa quyện.

Bởi thế hai câu thơ cuối bài là một sự trống vắng, là nỗi cô đơn đến thắt lòng

Tựa Gốm ôm cần lâu chẳn được

Cá đâu đớp động dưới chân bèo

Đến đây hình ảnh con người đã xuất hiện nhưng lại với tư thế “ ngồi tựa gối”, “ôm cần”. Trong trạng thái trầm tư và sâu cảm, cảnh vật đã cô đơn con người lại càng cô đơn hơn. Nhà thơ ngồi câu lâu chẳng được. Từ “cá đâu” là cách hỏi mơ hồ không định hướng, nhưng cũng có thể là sự ngỡ ngàng trong lòng người. Nhà thơ chìm sâu trong suy nghĩ miên man, mất cảm giác ở thực tại nên mới “cá đâu đớp động dưới chân bèo”. Nhà thơ muốn tìm sự thư thái trong tâm hồn nên mới đi câu. Nhưng cảnh vật tĩnh lặng đến ngẹt thở lại càng làm nhà thơ chìm sâu trong nỗi cô đơn.

Cảnh thu đẹp và buồn trong bài thu điếu đã được Nguyễn Khuyến miêu tả thật khéo léo và tinh tế. Cảm xúc, tâm tư của nhà thơ được dồn nén qua từng câu thơ, trong cảnh vật thu ấy. Thu điếu đi vào lòng người nhẹ nhàng và buồn man mác, khiến người đọc biết thêm về làng quê Việt Nam với những nét đẹp khác.

Phân tích bài thơ Câu cá mùa thu 16

Mùa thu luôn là một đề tài muôn thủa của các thi sĩ. Trong nền văn học Việt Nam từ thơ Trung đại cho đến thơ Hiện đại, từ thể thơ cổ cho đến thơ tự do, đã có rất nhiều tác phẩm hay viết về mùa thu, nhưng nhắc đến đề tài mùa thu, ta vẫn không thể không nhắc đến nhà thơ Nguyễn Khuyến. Với ông, dường như mùa thu là nguồn cảm hứng đặc biệt, chẳng vậy mà ông có cả một chùm thơ hay viết về mùa thu, trong đó nổi bật nhất là bài “Thu Điếu”, hay còn gọi “Câu cá mùa thu”.

Chùm thơ thu của nhà thơ Nguyễn Khuyến gồm có ba bài thơ: “Thu vịnh”, “Thu ẩm” và “Thu điếu”. Bài thơ nào cũng hay, cũng đẹp, cũng dạt dào tình quê, cảnh quê. Tuy nhiên, như Ông hoàng thơ tình Xuân Diệu từng khẳng định bài thơ “thu điếu” là “bài thơ điển hình hơn cả cho mùa thu của làng cảnh Việt Nam”. Đây quả là lời nhận xét vừa chính xác, vừa tinh tế!

“Thu điếu” được viết bằng thể thơ Thất ngôn bát cú Đường luật, ngôn ngữ tinh tế, giàu tính hình tượng và biểu cảm. Cảnh thu, trời thu, khí thu xinh đẹp của làng quê Việt Nam hiện lên trong dáng vẻ và màu sắc tuyệt vời dưới ngòi bút Nguyễn Khuyến qua bốn câu thơ đầu:

“Ao thu lạnh lẽo nước trong veo

Một chếc thuyền câu bé tẻo teo

Sóng biếc theo làn hơi gợn tí

Lá vàng theo gió khẽ đưa vèo.”

Với “Thu điếu” cảnh thu được đón nhận theo hướng mở rộng về không gian từ gần ra xa, từ thấp lên cao, rồi sau đó lại từ cao xa quay trở lại gần. Cụ thể là từ chiếc thuyền câu nhìn ra mặt ao rồi sau đó nhìn lên bầu trời, nhìn ra ngõ trúc rồi lại trở về với ao thu, với chiếc thuyền câu. Từ một khung ao nhỏ bé, không gian mùa thu được mở rộng ra nhiều hướng thật sinh động, gần gũi đến chân thực, nhưng vẫn không mất đi nét đẹp tinh tế.

Ở câu thơ đầu, không khí của mùa thu được gợi lên từ sự dịu nhẹ, thanh sơ của cảnh vật. Nhà thơ không bắt đầu bằng việc tả cảnh sắc mùa thu qua màu sắc như thông thường, mà ông vẽ những nét đầu cho bức tranh thu bằng những nét chấm phá mơ hồ từ không khí thu rất dịu nhẹ, pha chút lạnh se se:

“Ao thu lạnh lẽo nước trong veo”

Nước ao “trong veo” tỏa hơi thu “lạnh lẽo”. Sương khói mùa thu như bao trùm lên toàn bộ cảnh vật xung quanh. Nước ao thu trong vắt, khí thu lành lạnh lại càng tô điểm, khiến nước thu đã trong lại càng trong. Có cảm giác như chúng ta có thể nhìn thấy vài chú cá chậm rãi bơi lưng chừng trên những đám rêu xanh mướt dưới đáy ao vậy! Nước ao trong nhờ khí lạnh, khí lại càng thêm lạnh khi kết hợp với sự trong đến lặng của ao thu. Qủa là sự kết hợp tuyệt vời!

Trên bề mặt của nước ao thu trong như ngọc ấy có thấp thoáng hình ảnh một chiếc thuyền câu bé nhỏ:

“Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo”

Chỉ có duy nhất một chiếc thuyền, không những bé mà lại còn là “bé tẻo teo”. Cái ao và chiếc thuyền chính là hình ảnh trung tâm của bài thơ, nhưng cũng chính là hình ảnh bình dị, dân dã nhất nơi thôn quê. Tác giả không hề đặc tả độ rộng của ao thu, thậm chí khi đọc câu thơ đầu, người đọc có thể liên tưởng rằng ao thu ở đây rất nhỏ, vì theo như nhà thơ từng nhắc tới, vùng đồng chiêm trũng Bình Lục, Hà Nam quê nhà có cơ man nào là ao, vì nhiều ao nên ao nhỏ, ao nhỏ thì theo đó mà thuyền câu cũng “bé tẻo teo”. Nhưng đọc câu thơ thứ hai, đột nhiên ta có cảm giác ao thu như rộng hơn lên, chính cái nhỏ bé đến “tẻo teo” của thuyền câu lại càng làm cho ao thu nhỏ bé trở nên mênh mông biết mấy. Hai câu thơ đầu với các từ ngữ “lạnh lẽo”, “trong veo”, “bé tẻo teo” khắc họa đường nét, dáng hình, màu sắc của cảnh vật, của nước mùa thu một cách tinh tế. Cách gieo vần “eo” trong miêu tả không chỉ làm tăng mức độ thanh lặng, quạnh vắng của cảnh vật, mà còn tạo nên nhịp thơ âm vang như thể tiếng thu, như thể hồn thu vọng về.

Nếu như hai câu thơ đầu là những nét chấm phá phác họa bức tranh mùa thu thì đến hai câu thơ sau, nhà thơ tiếp tục dùng ngòi bút tài ba, vẽ lên một bức tranh thủy mặc đẹp đến thanh bình:

“Sóng biếc theo làn hơi gợn tí

Lá vàng theo gió khẽ đưa vèo”

Màu “biếc” của sóng nước hòa hợp với màu “vàng” của lá đã khắc lên bức tranh quê đơn sơ đấy mà không kém phần lộng lẫy.  Nghệ thuật đối trong phần thực quả thực rất điêu luyện, “lá vàng” đối với “sóng biếc”; tốc độ “vèo” của lá bay tướng ứng với mức độ “tí” của sóng gợn. Ở hai câu đề, chúng ta đã thấy được độ trong của nước, nhưng đến đây, ta nhận ra nước thu không những trong mà còn rất xanh, xanh trong đến độ “biếc” như thể ánh lên màu lấp lánh như ngọc vậy!. Gió thu trong thơ Nguyễn Khuyến cũng rất độc đáo, không phải nhè nhẹ thổi theo khí se lạnh mà lại đủ mạnh để cuốn lá “đưa vèo”. Tưởng chừng như nghịch lý nhưng lại rất hợp lý với cảnh sắc đang được miêu tả ở phần trên.

Hai câu luận tiếp tục mở rộng không gian mùa thu qua miêu tả của nhà thơ. Bức tranh thu có thêm chiều cao của bầu trời nhuộm màu “xanh ngắt” với những tầng mây “lơ lửng” trôi theo chiều gió nhẹ:

“Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt

Ngõ trúc quanh co khách vắng teo”

Dường như trời thu trong thơ của Nguyễn Khuyến luôn có màu xanh, mà còn là một màu “xanh ngắt”:

“Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao” trong “Thu Vịnh”

hay “Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt” trong “Thu ẩm”.

Màu “xanh ngắt” là không chỉ có sắc xanh mà còn có cả chiều sâu, đối với trời thu, xanh ngắt là không chỉ xanh mà còn trong, tạo cảm giác bầu trời trở nên cao và rộng. Trời thu xanh ngắt, bao la một màu thăm thẳm gợi ra cái sâu, cái lặng của không gian,cái nhìn vời vợi của nhà thơ, của ông lão đang câu cá trên chiếc thuyền “ bé tẻo teo”. Thế rồi ông lão ấy lơ đãng nhìn ra bốn phía làng quê, đột nhiên nhận ra không chỉ bầu trời trên cao hay mặt nước bên dưới, thậm chí ngay cả không gian xung quanh cũng trở nên vắng lặng, vắng lặng đến yên bình, thậm chí đến cô đơn. Cô đơn khi thấy xung quanh không một bóng người, xóm thôn vắng lặng, con đường nhỏ phía trước chỉ có mấy khóm trúc khẽ đưa trong gió nhẹ, ngõ vắng quanh co lại càng thêm im lìm. Cảnh vật êm đềm, thoáng một nỗi buồn cô tịch, hiu hắt. Người câu cá như đang chìm trong giấc mộng tĩnh lặng của mùa thu, tất cả cảnh vật đều tạo nên cảm giác bâng khuâng, man mác nhưng không vì vậy mà trở nên xa lạ, ngược lại rất thanh bình, gần gũi đúng chất làng quê Việt Nam.

Khung cảnh ấy càng trở nên thôn dã, giản dị khi xuất hiện rõ nét hình ảnh cả một người ngồi trên thuyền câu cá ở hai câu kết:

“Tựa gối ôm cần lâu chẳng được

Cá đâu đớp động dưới chân bèo.”

Tư thế “tựa gối ôm cần” xuất hiện trong thơ Nguyễn Khuyến là một hình ảnh đẹp, đẹp đến bình dị. Phải chăng đó là tâm thế nhàn của một thi sĩ đã thoát khỏi vòng danh lợi.? Hình ảnh con người xuất hiện trực tiếp với tư thế bó gối càng tô điểm cho bức tranh thu thêm sinh động.Tuy nhiên,  nhà thơ ngồi câu cá đấy mà lại chẳng chú tâm đến việc câu , chẳng vậy mà lại bị giật mình trước tiếng “cá đớp động dưới chân bèo”. Phải chăng nhà thơ còn mải thả hồn thi sĩ nhìn ngắm trời xanh, còn ngắm làn nước hơi gợn tí, đưa mắt nhìn lá vàng trước gió khẽ đưa vèo, rồi lại bất chợt vu vơ buồn trước ngõ trúc vặng lạnh quanh co nên mới bị giật mình trước thanh âm nhỏ bé ấy? Không gian hẳn phải yên tĩnh lắm, tâm hồn hẳn phải trong trẻo, lắng đọng lắm mới có thể nghe, có thể cảm thứ âm thanh như vậy! Tuy nhiên, dù có xuất hiện âm thanh nhưng không gian mùa thu vẫn hoàn toàn yên tĩnh, vì quá tĩnh nên mới nghe thấy thứ âm thanh mỏng và nhẹ như vậy, nghe được cả tiếng lá rơi, tiếng cá động mà vẫn thấy tĩnh, đó mới chính là cái tài trong nghệ thuật lấy động tả tĩnh của hồn thơ quê Nguyễn Khuyến.

Đến cả sự bất ngờ trước âm thanh cá đớp động chân bèo của Nguyễn Khuyến cũng rất lạ, rất hay. Hay ở chỗ nhà thơ sử dụng từ “cá đâu”. “Cá đâu” là cách hỏi vừa tạo nên sự mơ hồ trong không gian vừa gợi ra sự ngỡ ngàng của lòng người. Nhà thơ dường như nhất thời mất đi cảm nhận về không gian thực tại mà chìm đắm trong không gian suy tưởng nên không thể lập tức xác định được hướng gây ra tiếng động mặc dù đang ở trong một chiếc ao rất nhỏ. Vì sao ư? Vì nhà thơ câu cá mà không phải để bắt cá! Câu cá chỉ là cái cớ để tìm sự tư thái trong tâm hồn, để tĩnh tâm, để thu hút hết hương sắc mùa thu vào trái tim nhạy cảm của người thi sĩ. Vậy mới nói bài thơ không phải kể chuyện câu cá vào mùa thu mà chính là mượn việc câu cá để tả trời thu, để khen ngợi trời thu.

Trước Nguyễn Khuyến có rất nhiều thi sĩ viết về mùa thu,sau Nguyễn Khuyến thơ hay viết về mùa thu cũng không phải là không có, tuy nhiên, “Thu Điếu” vẫn luôn mang trong mình một sắc thu riêng, không lẫn lộn. Cảnh thu trong bài thơ là cảnh đẹp nhưng tĩnh lặng và buồn, không gian vắng lặng nhưng không tạo cảm giác cô độc, sầu não. Ngược lại, còn nhờ đó mà mở ra một bức tranh sống động tuyệt đẹp về làng quê cổ Việt Nam, rất gần gũi, rất thanh bình.

Bài phân tích 17

Thu trong thơ Nguyễn Khuyến tiêu biểu cho mùa thu ở đồng bằng Bắc Bộ. Thu trong thơ ông thật êm đềm, đơn sơ nhưng vô cùng sống động, làm say đắm lòng người. Trong chùm thơ về mùa thu của ông bài Thu điếu để lại nhiều ấn tượng trong lòng người đọc.

Mùa thu là mùa đẹp nhất trong năm của vùng đồng bằng Bắc Bộ, hòa cùng vào cảnh vật con người cũng thể hiện nỗi niềm cảm xúc của mình. Đọc Thu điếuchúng ta sẽ cảm nhận được vẻ đẹp của cảnh thu và tâm trạng của nhà thơ. Nếu như ở Thu Vịnh, cảnh thu đựơc đón nhận từ cao, xa đến gần, rồi gần đến cao, xa thì ở Thu Điếu cảnh thu được đón nhận từ gần đến cao – xa rồi từ cao xa trở lại gần. Điểm nhìn cảnh thu được nhìn từ chiếc thuyền câu đến mặt ao rồi nhìn lên bầu trời, nhìn tới ngõ trúc rồi nhìn ra mặt ao. Từ khung ao hẹp tác giả miêu tả mùa thu đựơc cả không gian và thời gian cảnh sắc mùa thu mở ra nhiều hướng thật sinh động.

Ngay từ tiêu đề của bài, tác giả đã muốn giới thiệu đến người đọc về cảnh câu cá mùa thu, nhưng thực ra đó lại là nói chuyện mùa thu, miêu tả cảnh mùa thu của vùng quê đồng bằng Bắc Bộ, quê hương của tác giả Nguyễn Khuyến. Trong bài thơ có ao thu, thuyền câu, có lá vàng, có tầng mây, có sóng, có cá và người câu cá. Không gian mùa thu, vắng lặng và chính sự vắng lặng này mới tả được khoảnh khắc lặng lẽ của mùa thu và tả được tâm trạng, tĩnh lặng của tác giả.

Ao thu lạnh lẽo nước trong veo

Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo

Ngay từ câu thơ đầu tác giả đã cho người đọc hình dung một không gian thu buồn nhưng đẹp, một không gian tĩnh lặng không phải ở vùng quê nào cũng có được. Hai câu thơ này không chỉ miêu tả được cả không gian mùa thu [ao thu] mà còn miêu tả được cả thời gian của mùa thu. Mùa thu được biểu hiện ở làn nước trong veo, đã trong lại còn trong veo và thêm lạnh lẽo. Ao thu lạnh lẽo càng làm tăng thêm độ buồn của mùa thu. Đó là mùa thu của lòng của lòng người buồn, của thi nhân buồn mà thôi. Mùa thu thường là mùa của tâm trạng buồn, qua hai câu thơ này càng thấy Nguyễn Khuyến đã rất tài tình khi miêu tả khung cảnh mùa thu. Chiếc thuyền câu vốn đã bé lại càng bé tẻo teo. Hai vầng eo càng làm cho không gian càng thêm thu nhỏ lại.

Làn nước trong veo, nhưng lại lạnh lẽo hai sự kết hợp này đã làm cho không gian ở đây có phần mông lung và như tan ra cùng sự lạnh lẽo của ao mùa thu. Mùa thu nước ao mới trong xanh như vậy làm cho không gian thêm nhỏ, chiếc thuyền đã bé lại bé thêm, như thu mình thêm nhỏ lại.

Trong không khí vắng lặng êm ả đó, mọi không gian cảnh vật như hòa vào nhau, làm mọi cảnh vật đều gợi cho ta cảm giác buồn.

Sóng biếc theo làn hơi gợn tí

Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo.

Phải nói rằng, con mắt nhà thơ phải thật tinh tế mới có thể nhìn được và cảm nhận được sự chuyển động rất nhỏ của cảnh vật, sóng chỉ hơi gợi, gió ở đây rất nhẹ chỉ tạo đủ độ để sóng gợn mà thôi. Khung cảnh mùa thu đượm buồn như im lìm, lặng lẽ, chỉ có chiếc lá khẽ đưa mà thôi, không tạo ra âm thanh từ khẽ miêu tả được cả âm thanh, đó là âm thanh, đó là âm thanh, tĩnh chứ không động, tả được cái trạng thái tĩnh lặng của mùa thu. Ngày cả từ vèo cũng vậy đó không chỉ là bay qua của chiếc lá khi có làn gió mà từ vèo đó còn là thể hiện tâm trạng, thời thế của nhà thơ, một tâm sự đầy đau buồn trước tình hình của đất nước đầy đau thương.

Không chỉ dừng lại ở việc miêu tả cảnh ao thu, bằng con mắt tinh tế của mình, tác giả miêu tả rộng ra đó là cảnh trời mùa thu. Cảnh sắc trời tác giả miêu tả rộng ra đó là cảnh mặt trời mùa thu. Cảnh sắc trời mùa thu được nhìn rộng ra từ mặt ao, từ khung cảnh rộng đó tác giả nhìn xa:

Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt

Ngõ trúc quanh co khách vắng teo

Khung cảnh trời thu thật đẹp, mây lơ lửng trôi trên nền trời xanh ngắt, có điều đám mây có vẻ buồn, không muốn trôi. Ở đây từ lơ lửng đó còn là tâm trạng suy nghĩ của tác giả về một vấn đề gì đó chưa quyết định rõ ràng. Từ trời thu tác giả nhìn xuống, nhìn xa ngõ trúc. Không gian lại trở nên vắng lặng buồn thảm bên cạnh đó việc khách vắng teo lại càng làm tăng thêm không khí của mùa thu. Cái vắng lặng, không khí buồn của mùa thu không dừng lại ở không gian của cái ao mà nó còn lan tỏa khắp trời đất, mây thì lơ lửng không buồn trôi. Ngõ xóm trước kia đông đúc người qua lại là vậy mà giờ đây cũng vắng teo. Con đường cũng trở nên quanh co. Tất cả mọi vật đều vắng lặng trong khung cảnh mùa thu.

Tựa gối ôm cần lâu chẳng được

Cá đâu đớp động dưới chân bèo

Cuối cùng thì hình ảnh người câu cá cũng xuất hiện. Thông qua vài nét miêu tả việc tựa gối câu cá, thì hình ảnh ông già ngồi câu cá mới hiện lên rõ nét. Tư thế xuất hiện của ông già câu cá cũng như cảnh vật trở nên buồn, ông không ngồi trong thế của người câu cá mà gò bó tựa gối. Ta thường biết khi câu cá con người ta cảm thấy thoải mái nhất thì ở đây ông già ngôi câu cá không được sự thoải mái, thanh thản cúi người và tựa mặt lên đầu gối như đang suy nghĩ một điều gì. Đó phải chăng cũng là tác giả đang trăn trở buồn rầu về thế sự.

Có vẻ như ông già câu cá ngồi câu cho có thú vui, chứ không thấy bóng dáng của chú cá thì ngồi câu cũng đâu được gì. Sự chờ đợi của ông già câu cá đó cũng là một sự mòn, về sự vắng lặng, trống không. Một tiếng động quậy nhẹ của con cá dưới chân bèo. Nhưng tiếng động đó cũng nhẹ, một tiếng động lẻ loi, lại càng làm tăng thêm sự vắng vẻ lặng lẽ của không gian mùa thu. Ở câu cuối sử dụng ba âm đ [ đâu, đớp, động] ta cảm giác như động mà lại không động, chỉ đủ miêu tả đủ sự quẫy đuôi nhẹ của con cá.

Có thể nói khung cảnh mùa thu trong Thu điếu thật tĩnh lặng, êm ả, nhưng buồn. Khung cảnh đó càng gợi cho người ta suy nghĩ chiêm nghiệm về cuộc sống. Một sự chuyển động đều nhẹ nhàng, rất khẽ sự im lặng này lại tạo thêm sự tĩnh lặng của cảnh. Cái tĩnh bao trùm được gợi lên từ cái động rất nhẹ. Thủ pháp lấy động tả tĩnh là thủ pháp quen thuộc của thơ cổ phương Đông.

Tác giả đã dùng thủ pháp gieo vần theo vần eo trong bài, để tạo nên sự vắng lặng im lìm trong khung cảnh mùa thu gợi lên cái gì thu hẹp lại, nhỏ lại, lắng vào hư không nó cũng góp phần làm cho không khí vắng lặng được tăng thêm.

Bằng sự cảm nhận tinh tế của tác giả về mùa thu, ta cảm nhận được ở tác giả một tâm hồn gắn bó thiết tha với thiên nhiên, một tấm lòng yêu nước thầm kín.  Nhà thơ đã vẽ lên một mùa thu giản dị, thanh đạm, đơn sơ, nhưng đẹp của làng quê Việt Nam.

Bài phân tích 18

Nguyễn Khuyến là nhà thơ trữ tình lớn của văn học Việt Nam cuối thế kỉ XIX đầu XX. Các tác phẩm của ông chủ yếu bộc lộ tấm lòng ưu ái với dân, với nước của người trí thức và tình cảm gắn bó với con người nơi làng quê Việt Nam.Bài thơ “Câu cá mùa thu” là một trong những tác phẩm như thế. Lấy cảm hứng từ đề tài mùa thu quen thuộc, bài thơ đã vẽ nên một bức tranh thu nơi đồng bằng Bắc Bộ, qua đó bộc lộ tấm lòng của thi nhân.

Bài thơ “Câu cá mùa thu” nằm trong chùm ba bài thơ thu của Nguyễn Khuyến. Tác phẩm đã vẽ nên một bức tranh về một chốn thu thanh sơ mang đặc trưng của mùa thu nông thôn đồng bằng Bắc Bộ. Ẩn sau đó là nỗi niềm tâm sự thầm kín của một hồn thu thanh cao.

Trước hết, bài thơ mở ra bằng hình ảnh ao thu:

“Ao thu lạnh lẽo nước trong veo

Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo”.

Hình ảnh chiếc “ao thu” gợi khoảng không gian quen thuộc, gần gũi nơi làng quê xứ Bắc. Từ láy “lạnh lẽo” kết hợp với tính từ “trong veo” khiến hình ảnh ao thu mang đầy chất thơ. Tạm quên đi những cơn mưa rào xối xả của mùa hạ, ao thu dường như thấm đẫm cái lạnh se sắt của gió heo may, lắng đến độ như được lọc, trong vắt đến tận đáy. Trong không gian của trời thu, nắng thu, gió thu ấy, ta bắt gặp hình ảnh “Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo”. Số từ “một” gợi sự cô đơn, ít ỏi    , giữa ao thu, chỉ có độc nhất một chiếc thuyền câu nhỏ nhắn. Từ láy “tẻo teo” gợi sự nhỏ bé , xinh xắn cùng cách gieo vần “eo” tài hoa không chỉ đem đến cái hồn của cảnh vật mà còn đem lại cảm giác yên bình một cách lạ thường. Bằng bút pháp chấm phá, nhà thơ đã phác họa một khoảng không gian mùa thu trong sáng, gần gũi và tĩnh lặng. Bên cạnh khoảng không gian mùa thu trong trẻo, nhà thơ còn miêu tả mùa thu bằng những nét vẽ đầy tinh tế, tràn ngập màu sắc và âm thanh:

“Sóng biếc theo làn hơi gợn tí

Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo

Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt

Ngõ trúc quanh co khách vắng teo”.

Không gian mùa thu dường như có sự vận động tinh tế từ gần vươn ra tới cao, xa rồi lại quy tụ về gần. Sự thay đổi điểm nhìn không chỉ đem đến góc nhìn đa chiều cho cảnh vật mà sự vận động từ “ao thu” rồi trở lại “ao thu” khiến cả đất trời như thu lại, nép mình trong chiếc ao nhỏ bé. Bên cạnh ao thu, thuyền câu, giờ đây xuất hiện thêm “sóng biếc”, “lá vàng”, “tầng mấy”, “ngõ trúc”. Mỗi một sự vật làm nên một nét thu mềm mại, uyển chuyển mà thanh thoát, một dáng thu ý nhị mà mộc mạc. Bức tranh thu ấy còn hiện lên trong sự hòa phối giữa sắc xanh và vàng mà nổi bật hơn là ở các “điệu xanh”: “xanh ao, xanh bờ, xanh sóng, xanh trúc, xanh trời”. Không gian phủ kín màu xanh, chỉ có duy nhất sắc vàng của chiếc lá thu rơi. Không chỉ miêu tả màu sắc thu, Nguyễn Khuyến còn cảm nhận được tiếng thu, bước thu. Tiếng thu là tiếng sóng gợn nơi ao lạnh, là tiếng gió hiu hắt đâu đây trên cành trúc, đặc biệt là tiếng lá vàng rơi nghiêng “khẽ đưa vèo”. Khắp không gian cũng là những chuyển động chậm rãi, nhẹ nhàng, rất khẽ, rất êm. Các hình ảnh trong bức tranh thu ấy không có chút dấu vết nào của công thức, ước lệ, mà gần gũi, thân thuộc, trong trẻo, thanh sơ, mang đậm hồn thơ xứ sở.

Nếu như ở sáu câu thơ đầu, người đọc cảm nhận được một cảnh thu có hồn, trong xanh nhưng không lặng lẽ, các hình ảnh, chi tiết gần gũi, thân thuộc, thì ở hai câu thơ cuối, bức tranh thu lại mang nỗi niềm tâm sự thầm kín:

“Tựa gối buông cần câu chẳng được

Cá đâu đớp động dưới chân bèo”.

Bài thơ có nhan đề là “Câu cá mùa thu” nhưng phải đến hai câu cuối nhân vật trữ tình mới xuất hiện. Trong dáng người tĩnh lặng, “tựa gối buông cần”, phải chăng người đi câu muốn thu mình lại để chìm trong nhưng suy nghĩ riêng. Từ “đâu” có thể hiểu là đâu đó hoặc đâu có. Nhưng dù hiểu theo cách nào thì có lẽ người đi câu không hề chú tâm đến việc câu cá. Nhưng dù là đâu có tiếng cá đớp động hay cái giật mình thảng thốt khi đâu đó có tiếng cá đớp động thì bài thơ cũng chứng tỏ với Nguyễn Khuyến đi câu chỉ là cái cớ để ông gửi gắm nỗi niềm tâm sự. Có lẽ, không chỉ riêng mỗi ở “Thu điếu” mà ở trong chùm ba bài thơ thu của mình, Nguyễn Khuyến đều gửi gắm những tâm sự riêng. Như trong “Thu vịnh”, để nói lên nỗi niềm ưu thời, mẫn thế, ông đã trăn trở rằng:

“Nhân hứng cũng vừa toan cất bút

Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào”.

Nỗi thẹn với Đào Tiềm cũng chính là nỗi thẹn của nhà thơ với dân, với nước và với chính mình. Gửi trong bức tranh thu là một nỗi lòng chưa một giây phút bình yên. Dù chìm vào chốn bình yên nhưng Nguyễn Khuyến vẫn trăn trở với thời cuộc, qua đó kín đáo bộc lộ tâm sự yêu nước.

Về nghệ thuật, bài thơ sử dụng thể thất ngôn bát cú đường luật với những thủ pháp quen thuộc như chấm phá, lấy động tả tĩnh. Hệ thống từ láy giàu hình tượng, những hình ảnh gần gũi, chân thực, tinh tế. Đặc biệt, nghệ thuật gieo vần “eo” đã thể hiện tài năng bậc thầy của Nguyễn Khuyến. Nhờ vậy, bức tranh thu hiện lên vừa quen thuộc, vừa lạ, vừa chân thực, độc đáo. Về nội dung, bài thơ trước hết đã vẽ nên một bức tranh thu mang đặc trưng của mùa thu nơi đồng bằng Bắc Bộ. Bên cạnh đó, bài thơ đã thể hiện tâm hồn đáng quý của thi nhân: là một con người yêu thiên nhiên, yêu đất nước tha thiết.

Qua bài thơ “Câu cá mùa thu”, Nguyễn Khuyến đã góp thêm vào kho tàng thơ thu một bức tranh vừa quen thuộc, vừa độc đáo. Và có lẽ, ông hoàn toàn xứng đáng với danh hiệu là “Nhà thơ của làng cảnh Việt Nam”. Sâu trong một tâm hồn nhạy cảm với thiên nhiên là tấm lòng yêu nước nồng nàn, luôn lo nghĩ cho dân, cho nước.

Bài phân tích 19

Thơ vốn là sự cách điệu của tâm hồn. Trong thơ có cảnh sắc mây trời, có bóng dáng của thiên nhiên. Cũng bởi vậy mà thiên nhiên luôn là người bạn đồng hành nâng niu những xúc cảm của thi nhân. Vòng thời gian luân chuyển bốn mùa xuân hạ thu đông. Cảnh sắc mỗi mùa đều có những nét đẹp riêng.

Nếu nhắc đến mùa xuân ta nghĩ đến những câu thơ.

“Ngày xuân con én đưa thoi

Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi

Cỏ non xanh tận chân trời

Cành lê trắng điểm một vài bông hoa…”

[Nguyễn Du – Truyện Kiều]

Mùa hè tươi mát tràn đầy sức sống trong thơ Nguyễn Trãi:

“Hòe lục đùn đùn tán rợp giương

Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ

Hồng liên trì đã tiễn mùi hương”

[Nguyễn Trãi – Cảnh ngày hè]

Thì nhắc đến mùa thu, ta nghĩ ngay đến chùm thơ thu của Nguyễn Khuyến. Trong ba bài Thu vịnh, Thu điếu, Thu ẩm, bài thơ đặc trưng nhất cho khung cảnh thiên nhiên mùa thu Bắc bộ chính là Thu điếu. Khung cảnh hiện lên với những nét đặc trưng riêng biệt của mùa thu. Vẫn là những đường nét quen thuộc nhưng trong đó còn ẩn chứa biết bao nỗi niềm của thi nhân.

Nguyễn Khuyến sinh năm 1835 mất năm 1909. Nguyễn Khuyến hiệu là Quế Sơn, sinh tại Nam Định nhưng lớn lên và sống chủ yếu ở xã Yên Đổ, huyện Lục Bình, tỉnh Hà Nam. Ông xuất thân trong một gia đình nhà nho nghèo. Tên gọi Tam Nguyên Yên Đổ xuất phát từ việc ông đỗ đầu cả ba kỳ thi từ năm 1864 đến năm 1871.

Tuy đỗ đạt cao, nặng lòng với đất nước nhưng ông chỉ làm quan 10 năm. Sau đó, ông cáo quan về quê dạy học và sống thanh bạch. Việc ông cáo quan không có nghĩa là ông không yêu nước. Trong hoàn cảnh xã hội loạn lạc và không muốn hợp tác với chính quyền thực dân Pháp nên cách duy nhất ông có thể làm là cáo quan để giữ gìn tâm hồn thanh cao.

Nhắc về Nguyễn Khuyến người ta nhớ đến những sáng tác thơ Nôm của ông. Không chỉ châm biếm đả kích thực trạng xã hội, ông còn viết rất nhiều về khung cảnh làng quê thanh bình…

Bài thơ Thu điếu thuộc thể loại thất ngôn bát cú Đường luật. Ở bài thơ người đọc sẽ bắt gặp khung cảnh quen thuộc của làng quê Bắc bộ khi mùa thu đến. Bài thơ là khúc nhạc lòng của tác giả. Đó là tình yêu thiên nhiên, là nỗi lòng ưu thời mẫn thế của thi nhân…

Mở đầu bài thơ là khung cảnh quen thuộc với ao thu nước thu:

“Ao thu lạnh lẽo nước trong veo

Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo”

Điểm nhìn của thi nhân không ở khung cảnh rộng lớn bao la mà tầm mắt chỉ thu hẹp lại trong  không gian “ao thu” đến điểm đứng “thuyền câu”. Sự thu hẹp của không gian của tầm nhìn cũng dường như chính là sự thu mình của tác giả.

Đi vào thơ văn ta thường bắt gặp hình ảnh quen thuộc của sông, của biển lớn. Nhưng Nguyễn Khuyến lại lựa chọn một hình ảnh đặc trưng của đồng bằng Bắc Bộ – ao. Phân tích bài thơ Thu điếu sẽ thấy tính chất của ao ấy được gợi tả thông qua từ láy “lạnh lẽo”. Cái khí trời mùa thu se se lạnh ấy thấm xuyên vào vạn vật tạo ra một sự lạnh giá không chỉ ở cảnh vật mà còn là lòng người.

Nhà thơ sử dụng từ “trong veo” vừa gợi được sắc nước, lại vừa gợi được sắc trời khi vào thu. Nước thu và trời thu thật khó tách bạch. Mặt nước lúc này như tấm gương soi chiếu cả trời thu vào ấy. Hình ảnh này gợi cho ta liên tưởng đến câu thơ của Đỗ Phủ

“Giang gian ba lãng kiêm thiên dũng

Tái thượng phong vân tiếp địa âm”

[Thu hứng – Đỗ Phủ]

Vẫn là trời thu nước thu và không khí lạnh lẽo của mùa thu nhưng ở Nguyễn Khuyến khung cảnh có phần đơn sơ hơn bởi lẽ đây chính là cái mộc mạc của làng quê. Còn ở bức tranh thu của Đỗ Phủ ta cảm nhận được chút gì đó như uất hận, cay đắng.

Nếu ở câu thơ đầu Nguyễn Khuyến đã mở ra không gian mùa thu thì ở câu thơ tiếp theo mùa thu ấy lại hiện ra với sự nhỏ bé đơn côi của con người. “Một chiếc thuyền câu” có lẽ chính là điểm tựa của nhà thơ. Từ không gian ao đã thu hẹp lại thành “thuyền câu”. Và hình ảnh chiếc thuyền ngày càng nhỏ bé hơn bởi sự kết hợp “bé tẻo teo”.

Ao thu đã nhỏ nhưng chiếc thuyền câu ấy so với ao thu thì càng nhỏ hơn chỉ như một chấm nhỏ mà thôi. Chính sự thu mình ấy khiến ta có một cảm giác cô đơn đến rợn ngợp. Không gian như thấm đẫm nỗi buồn. Phân tích bài thơ Thu điếu sẽ thấy trong cái lạnh giá ấy người ta cần tìm một hơi ấm nhưng ở đây chẳng có ai một sự vắng vẻ đến nao lòng. Đó không chỉ là cảnh thiên nhiên bình thường mà là cảnh thiên nhiên được nhìn qua đôi mắt của một người mang nặng tâm tư.

Khung cảnh mùa thu càng hiện lên rõ nét hơn

“Sóng biếc theo làn hơi gợn tí

Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo”

Màu xanh của nước cũng là màu xanh của mây trời. Sự chuyển động của sóng nước chỉ dừng lại “theo làn hơi gợn tí”. Từng con sóng nhỏ lăng tăng nối đuôi nhau. Không chỉ là sóng nước mà qua đó ta còn cảm nhận được sự chuyển động của gió. Từng cơn gió thoảng qua làm mặt nước xao động. Có sự chuyển động nhưng không gian không tươi vui rộn ràng mà lại càng chìm sâu vào lặng im. Trong sự lặng im ấy, ta tưởng như có thể nghe thấy hơi thở của đất trời.

Và Nguyễn Khuyến trong sự thanh vắng ấy đã nghe được một thanh âm vô cùng tinh tế của tiếng lá “khẽ đưa vèo”. Lá vàng vốn là một dấu hiệu nhận biết đặc trưng của mùa thu “ngô đồng nhất diệp lạc thiên hạ cộng tri thu”. Vì vậy nhắc đến mùa thu thi nhân thường luôn viết về lá vàng. Không chỉ trong trung đại mà còn cả trong văn học hiện đại

“Ô hay! Buồn vương cây ngô đồng

Vàng rơi vàng rơi thu mênh mông…”

[Bích Khê]

Thi sĩ Xuân Diệu cũng từng ngỡ ngàng thơ mộng:

“Đây mùa thu tới mùa thu tới

Với áo mơ phai dệt lá vàng”

[Xuân Diệu]

Và khi phân tích bài thơ Thu điếu sẽ thấy Nguyễn Khuyến cũng thế. Tuy nhiên lá vàng mà ông khắc họa lại chứa đựng cả một nỗi niềm. “Đưa vèo” chính là một chuyển động nhanh và đầy dứt khoát. Từ “vèo” không chỉ gợi được sự chuyển động mà còn gợi được hình dáng của vật thể chuyển động – mỏng, dẹt, nhẹ. Âm thanh ấy gợi được cái sự yên tĩnh tuyệt đối.

Thế nhưng, để có thể lắng nghe được âm thanh ấy hẳn Nguyễn Khuyến phải là một người tinh tế. Sau này, Trần Đăng Khoa cũng từng nghe được âm thanh của chiếc lá rơi “Tiếng rơi rất khẽ/ Như là rơi nghiêng”. Nhưng không dừng ở đó, chiếc lá “đưa vèo” còn gợi ra sự thay đổi của thời thế cục diện đất nước. Tất cả diễn ra quá nhanh.

Và trước sự chảy trôi, sự thay đổi ấy, ông chỉ có thể ngậm ngùi bất lực mà chấp nhận. Từ cái nhìn toàn diện chuyển sang cái nhìn cận cảnh. Ở hai câu thực đó, Nguyễn Khuyến chuyển sang nhìn điểm, chi tiết. Ở hai câu thực là một bức tranh thu với sắc xanh hài hòa cùng sắc vàng. Màu xanh của sóng nước là phông nền để nổi bật cho màu vàng của lá thu. Gió đưa, sóng gợn, lá bay những chuyển động ấy dường như cũng khẽ hơn để không phá vỡ sự yên tĩnh của thiên nhiên.

Không gian từ rộng đến hẹp, tầm nhìn cũng thay đổi từ khái quát đến cận cảnh và giờ đây tầm nhìn ấy hướng lên trời xanh

“Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt

Ngõ trúc quanh co khách vắng teo”

Cái vắng lạnh của mùa thu đã lan tỏa khắp đất trời. Từ láy “lơ lửng” đã diễn tả thành công cái trạng thái nửa như muốn trôi nửa như còn đang luyến tiếc điều gì đó của những đám mây. Điều ấy khiến ta có cảm tưởng đám mây như đang đứng yên. “Trời xanh ngắt” cũng được xem là một hình ảnh đặc trưng của mùa thu. Màu xanh dường như đã đạt đến cực độ. Sự kết hợp ấy đã khiến cho bầu trời như cao hơn rộng hơn. Không gian cũng vì thế mà được mở rộng ra đến vô cùng.

Từ cái nhìn hướng lên trên, thi nhân nhanh chóng chuyển xuống mặt đất để thấy “Ngõ trúc quanh co khách vắng teo”. Đường làng Bắc Bộ với những bụi tre bụi trúc nối tiếp nhau hiện lên. Khi phân tích bài thơ Thu điếu sẽ thấy con người được nhắc đến thông qua hình ảnh “khách vắng teo”. Không gian chìm vào sự im vắng. Chờ người nhưng người nào đến. Nguyễn Khuyến đang chờ đợi điều gì chăng?

Đến hai câu kết nhân vật trữ tình mới hiện ra rõ nét

“Tựa gối buông cần lâu chẳng được

Cá đâu đớp động dưới chân bèo”

Tư thế của nhân vật trữ tình là tư thế dáng vẻ của một ông câu “tựa gối buông cần”. HÌnh ảnh một ông già ngồi câu cá gợi ra một sự thanh cao, thoát tục, nhàn nhã. Thế nhưng sự nhàn nhã ấy chợt bị khuấy động. Mọi thứ diễn ra “lâu chẳng được”, chỉ trong một thời gian ngắn. Tấm lòng ấy dường như chỉ yên tĩnh trong vài phút ngắn ngủi. Thời gian này tương xứng với cái “khẽ đưa vèo” của lá vàng ở câu thơ trên.

Dường như thoáng một chút hờn dỗi bởi sự yên tĩnh bị cắt ngang. Nguyên nhân dẫn đến sự xao động ấy chính âm thanh “đớp động”. “Đâu” có thể được hiểu là từ phủ định cũng có thể là đại từ phiếm chỉ. Trong dòng thơ này, ta nên hiểu “đâu” là đại từ phiếm chỉ. Tiếng cá vang lên từ nơi nào không xác định được. Một thanh âm mơ hồ từ nơi xa vắng nào vang lên lại khuấy động cả một mặt hồ tĩnh lặng và khuấy động tâm hồn thi nhân.

Phân tích bài thơ Thu điếu thì có thể thấy, ý của bài thơ là nói về việc đi câu nhưng dường như đi câu đối với Nguyễn Khuyến chỉ là cái cớ. Một cái cớ để ông thu vào tầm mắt cảnh thiên nhiên đất trời vào thu. Một cái cớ để ông có những giây phút tĩnh tại suy nghĩ về thời cuộc. Đó là lí do mà đi câu nhưng tâm hồn của ông không dành cho việc câu cá. Dùng hình ảnh ông câu nhưng trong bài Thu điếu con người lại hiện ra đầy tâm sự không như hình ảnh ông câu trong bài Ngư nhàn của Không Lộ thiền sư

“Vạn lý thanh giang, vạn lý thiên,

Nhất thôn tang giá, nhất thôn yên.

Ngư ông thuỵ trước, vô nhân hoán,

Quá ngọ tỉnh lai, tuyết mãn thuyền.”

[Ngư nhàn – Không Lộ thiền sư]

Dù có vẻ thanh nhàn nhưng thực ra tâm hồn ông không yên tĩnh thanh “nhàn” như Nguyễn Bỉnh Khiêm, mà ông luôn hướng về đất nước về nhân dân như Nguyễn Trãi – nhàn thân nhưng không nhàn tâm. Nên một âm thanh nhỏ của ngoại cảnh cũng tác động mạnh mẽ đến Nguyễn Khuyến như thế.

Phân tích bài thơ Thu điếu sẽ thấy từ cái nhìn hướng ngoại, chủ thể trữ tình đã hướng nội nhìn vào tâm tư của mình để rồi mọi thứ vỡ òa ra trong một khoảnh khắc. hai câu kết tác giả lại một lần nữa sử dụng thành công nghệ thuật lấy động tả tĩnh. Lấy cái động của sự vật để diễn tả cái tĩnh của không gian đồng thời cũng thấy được cái động của tâm hồn. Xa lánh chốn lao xao quyền quý nhưng vẫn nặng lòng với đất nước.

Bài phân tích 20

Mùa thu – một vẻ đẹp dịu dàng, êm ả làm thanh mát tâm hồn con người, khắc khoải một nỗi niềm tha thiết. Cảnh thu đi vào trang thơ của người nghệ sĩ vừa mang đậm chất cảnh, vừa đẹp tình. Trong kho tàng văn thơ Việt Nam, khi nhắc đến mùa thu, ta không thể không nhắc đến chùm thơ thu của Nguyễn Khuyến. Xuân Diệu đã có những lời đánh giá về chùm thơ thu của tác giả: ”Nguyễn Khuyến nổi tiếng trong văn học là thơ Nôm. Nức danh nhất là chùm thơ thu. Thu điếu điển hình hơn cả cho mùa thu của làng cảnh Việt Nam.

Một tâm hồn thơ đầy nhạy cảm và cũng thật tinh tế, một bầu không khí nói mấy cũng không vơi, nhìn vào đâu cũng thấy thơ, cũng có thể bắt vào thơ như Nguyễn Khuyến. Chỉ bằng một vài đường nét, người đọc như thấu hiểu được cái tình của thi nhân, sự gắn bó hài hòa với cảnh sắc quê hương:

“Ao thu lạnh lẽo nước trong veo,

Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo”.

Điểm nhìn được đón nhận từ gần đến cao xa, từ cao xa trở về gần. Từ điểm nhìn ấy như mở ra nhiều hướng miêu tả và cảm nhận mùa thu khác nhau. Từ láy ”lạnh lẽo” đặc tả khí lạnh của nước mùa thu, cái lạnh dường như thấm vào da thịt con người. Nước thu thì trong veo, thi nhân dùng tính từ để thể hiện độ trong của nước, tuyệt đối hóa sự trong sạch và tĩnh lặng của mặt nước ao. Cách gieo vần ”eo” đầy độc đáo và ấn tượng, không gian thật eo hẹp. Trung tâm của bức tranh thu ấy chính là chiếc thuyền câu ”bé tẻo teo”. Từ chính chiếc thuyền ấy mà ánh mắt của thi nhân bao quát ra xung quanh và cảm nhận mặt nước ao thu lạnh lẽo và trong veo đến hết độ. Rồi mùa thu tiếp tục hiện lên:

Sóng biếc theo làn hơi gợn tí,

Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo”.

Sóng biếc thì gợn tí, xa hơn là hình ảnh lá vàng ”khẽ đưa vèo” trong gió, cao hơn là khoảng không gian với bầu trời xanh ngắt. Một bức tranh có sự hài hòa với màu sắc thanh nhã, dân dã mang đậm hồn quê. Nguyễn Khuyến đã mở lòng để đón nhận cái thần thái rất riêng của mùa thu như thế. Với bút pháp ”vẽ mây nảy trăng”, tả sóng nước gợn tí, lá vàng khẽ đưa vèo chính là nhà thơ đang họa nên gió. Âm thanh ấy không làm cho cảnh thu thêm náo nhiệt, sinh động mà làm cho bức tranh trở nên u buồn, có nét thanh sơ hơn.

Không gian bức tranh thu với điểm tô màu ”xanh ngắt” như sợi chỉ xuyên suốt, kết nối chùm thơ thu ba bài của thi nhân, bởi vậy đã trở thành gam màu đặc trưng cho hồn thơ thu của Nguyễn Khuyến:

“Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao

[Thu vịnh]

“Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt”.

[Thu ẩm]

“Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt”.

[Thu điếu]

Hình ảnh tầng mây ”lơ lửng” gợi ra hình ảnh làn gió thu nhẹ nhàng thổi khẽ làm mây không bay mà chỉ lơ lửng, hững hờ trên bầu trời xanh kia. Trời xanh ngắt là khoảng trời xanh đậm không một gợn mây, vừa gợi ra độ sâu rộng của không gian, cũng là cái nhìn vời vợi và tâm trạng nhiều uẩn ức, tâm hồn đầy trăn trở của thi nhân. Với hình ảnh:

“Ngõ trúc quanh co khách vắng teo”.

Không có một bóng người qua lại gợi nên một không gian thu yên tĩnh đến êm ả. Câu thơ cuối đã được tác giả khéo léo lồng vào bút pháp cổ điển ”lấy động tả tĩnh”:

“Tựa gối ôm cần lâu chẳng được,

Cá đâu đớp động dưới chân bèo”.

Chính ở đây hình ảnh con người trực tiếp xuất hiện, với tâm thế nhàn nhã, thoát khỏi vòng danh lợi, tư thế thu mình để lánh đời. Hình ảnh thi nhân trong vai một ngư ông đối diện với thiên nhiên mà như đang trầm ngâm, suy tư.  Cũng phải là một không gian tĩnh lặng tuyệt đối thì mới có thể nghe thấy tiếng cá đớp động như vậy. Từ ”đâu” có hai cách hiểu. Theo cách hiểu thứ nhất là sự phủ định hoàn toàn sự có mặt của con người, cũng không có âm thanh của tiếng cá, đó là sự chờ đợi trong vô vọng đến mức ôm cần tựa gối như bất động. Theo cách hiểu thứ hai là ”đâu đó” có âm thanh nhưng mơ hồ và xa vắng. Dù cách hiểu như thế nào thì đi câu cũng chỉ là cái cớ để thi nhân bộc lộ nỗi u hoài trong lòng người câu cá. Một luôn hồn luôn mở rộng để cảm nhận cảnh thu, tình thu, yêu nước thầm kín mà không kém sâu sắc. Ta cũng nhớ đến câu thơ của Nguyễn Du:

Bức tranh thu của Nguyễn Khuyến cũng vậy, cũng mang nặng những nỗi niềm tâm sự, nỗi u hoài trước thời cuộc đổi thay. Cái se lạnh của mùa thu dường như đã ngấm vào tâm hồn của nhà thơ hay cái lạnh của lòng thi nhân đang lan tỏa ra cảnh vật vậy? Mặc dù ở chốn thôn quê thanh sơ, Nguyễn Khuyến vẫn luôn đau đáu một nỗi quan hoài thường trực, bởi ông là một người nặng lòng với quê hương, với đất nước.

Mỗi người nghệ sĩ khi viết văn, làm thơ là để thỏa mãn nhu cầu nối tiền mình với thế giới và sự vật xung quanh, để tâm hồn mình hòa nhịp với tâm hồn của mọi người. Như đọc một câu thơ hay là ” gặp gỡ một tâm hồn con người”. Chính nỗi u hoài của tác giả đã truyền một nguồn lực mãnh liệt trong tâm hồn mỗi người đọc, cũng làm nên giá trị cho tuyệt bút muôn đời, tạo nên sức sống lâu bền cho tác phẩm trong dòng thời gian của nền văn học Việt Nam.

Bài phân tích 21

Nguyễn Khuyến là một nhà thơ nổi tiếng, thanh cao và giàu lòng yêu nước của Việt Nam, ông được mệnh danh là một “ nhà thơ của nhân dân, của xóm làng Việt Nam”. Thơ của Nguyễn Khuyến mang đậm hồn quê Việt. Ông để lại cho đời chùm thơ ca về mùa thu rất đặc sắc, đượm tình quê dạt dào gồm có Thu điếu, Thu ẩm, Thu vịnh. Trong đó, điển hình có thể kể tới bài thơ “ Câu cá mùa thu” hay còn gọi là “ Thu điếu”, bài thơ điển hình cho mùa thu làng cảnh tại Việt Nam. “ Câu cá mùa thu” là bức tranh thiên nhiên mùa thu tại làng quê của Nguyễn Khuyến, cũng là hình ảnh điển hình cho làng quê Việt. Bài thơ bật lên sự yên tĩnh, trong trẻo nhẹ nhàng của bức tranh quê.

Thơ mùa thu thường mang đến cho chúng ta cảm giác về một cái buồn man mác hay sự cô đơn lặng thinh của cả con người lẫn cảnh vật. Trong đó đan xen là những hoài niệm, nuối tiếc về một điều gì đó xa xôi của chủ thể trong bài. Mùa thu được Nguyễn Khuyến vẽ lên trong “ Câu cá mùa thu” là mùa thu nơi đồng bằng Bắc Bộ, quê hương yêu dấu của ông. “ Câu cá mùa thu là bài thơ viết theo thể thơ cổ Thất ngôn bát cú Đường luật”, Nguyễn Khuyến thổi hương sắc mùa thu đẹp đến lạ kỳ của làng quê Việt vào từng dòng thơ, câu cú duyên dáng.

Hai câu đầu bài thơ mô tả về không gian cảnh thu trong trẻo, được Nguyễn Khuyến chọn để tập trung miêu tả, đó là chiếc ao thu cùng chiếc thuyền câu. Mùa thu ở “ Câu cá mùa thu” khác hoàn toàn so với cảnh trời thu mênh mông bát ngát, không gian được miêu tả trên nhiều tầng cao như “ Thu vịnh”.  Bài thơ không tả cảnh thiên nhiên trong không gian thiên nhiên trải rộng mà cảnh vật mùa thu được miêu tả gói gọn trong chiếc ao thu, những chiếc ao chuôm nhỏ thường hay xuất hiện rất nhiều ở vùng quê Nguyễn Khuyến:

“ Ao thu lạnh lẽo nước trong veo

Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo.”

Ao thu miền quê Bắc Bộ được miêu tả bằng các từ “ trong veo, lạnh lẽo”, làn nước thu trong trẻo tưởng như có thể nhìn sâu tới từng ngọn rêu, từng hòn sỏi. Ôi, một mùa thu tĩnh mịch, yên bình, nước ở ao lặng lẽ giữa trời thu, không chút gợn, tỏa hơi “ lạnh lẽo”. Chắc có lẽ tiết trời đã gợn chút cảm giác se lạnh thời điểm thu phân, thu mạt nên cái lạnh mới có thể thấm đẫm cả vào vạn vật thiên nhiên. Tác giả chọn một không gian nhỏ là “ ao thu” chứ không phải không gian rộng lớn như “ hồ thu”.  Dưới những làn khói tiết trời thu bao trùm cảnh vật, nước trong ao đã trong, nay lại càng trong hơn, bật lên sự dịu nhẹ mà thanh thoát của mùa thu. Trên mặt nước là chiếc thuyền câu thấp thoáng xa xa. Một chiếc thuyền bé tẻo teo, đậu cô đơn một mình giữa ao. Giữa một không gian nhỏ hẹp của chiếc ao làng, chiếc thuyền nhỏ bé hiện lên nhưng không hề bị lu mờ, lọt thỏm trong cảnh vật mà lại tạo nên một sự kết hợp hài hòa, cân xứng, quyện vào nhau đến lạ. Hình ảnh ao thu và chiếc thuyền câu là hai hình ảnh vốn rất đỗi quen thuộc, trở thành tâm điểm của bài thơ. Nguyễn Khuyến đã thể hiện sự rung cảm của mình trước vẻ đẹp thanh tịnh riêng biệt, trước không gian thiên nhiên trong tiết thu se lạnh. Bằng cách sử dụng các tính từ miêu tả “ lạnh lẽo”, “ trong veo”, “ bé tẻo teo”  đã góp phần làm cho bài thơ tăng điểm nhấn về từng đường nét thanh mảnh, thanh thoát, nhẹ nhàng trong sắc nước trời thu. Tới đây, không khí mùa thu hiện lên thật dịu dàng. Đầu bài thơ với hai hình ảnh này, hồn thu Việt như ùa về trong tâm trí, âm vang mùa thu như vọng trong lòng người đọc.

Hai câu luận

Bức tranh mùa thu quê Việt được Nguyễn Khuyến tiếp tục vẽ lên với màu sắc hòa hợp trong hai câu thơ tiếp:

“ Sóng biếc theo làn hơi gợn tí

Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo”

Bức tranh tiếp theo tiếp tục hiện lên qua sắc “ biếc” của sóng hòa cùng sắc “ vàng” của lá thu đã lột tả vẻ đẹp đơn sơ, mộc mạc của mùa thu của làng quê. “ Sóng biếc” là từ gợi hình ảnh về sắc nước trong veo trong tiết thu, đó là sắc xanh nhẹ nhàng, thanh thoát.  Hình ảnh “ lá vàng” là hình ảnh rất quen thuộc trong mùa thu, được miêu tả nhiều trong thơ ca Việt. Tác giả đã rất khéo léo trong việc hết hợp đối từ trong hai câu thực của bài thơ, “ lá vàng- sóng biếc” và “ gợn tí- khẽ đưa vèo”, chuyển động thật êm ái, nhẹ nhàng của cảnh vật. Không gian mùa thu tĩnh tới mức tác giả cảm nhận được những sự chuyển động dù là nhỏ nhất của cảnh vật, sóng “ gợn tí”, “ lá khẽ đưa”. Với nghệ thuật lấy động để tả tĩnh, tác giả đã bật lên thành công về một mùa thu quê Việt với sự  tĩnh lặng gần như tuyệt đối của cảnh vật thiên nhiên, nhưng lại rất mộc mạc, đơn sơ. Không khổ danh là một nhà thơ của làng quê Việt Nam, Nguyễn Khuyến có thể cảm nhận tinh tế, trọn vẹn từng chi tiết của cảnh vật, dù là những chuyển động nhỏ nhất.

Hai câu luận tiếp theo

Đến với hai câu luận tiếp theo, hồn quê dân dã của Việt Nam xuất hiện với hình ảnh tầng mây, ngõ trúc quen thuộc, không gian như được mở rộng ra xung quanh hơn :

“ Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt

Ngõ trúc quanh co khách vắng teo”

Khung cảnh của bức tranh thôn quê đã được mở rộng từ chiều cao của tầng mây thăm thẳm rồi quay trở xuống với cảnh những con ngõ bình dị của xóm làng. Tác giả phóng tầm mắt của mình lên trời cao xanh thẳm, cái trời thu xanh ngắt với những áng mây lững lờ trôi. Màu xanh ngắt của trời thu mở ra chiều sâu, cái lắng đọng của không gian cao vun vút, mênh mông vời vợi. Thế rồi, cảnh vật được chuyển một cách nhẹ nhàng về làng quê. Hồn quê được miêu tả rõ nét qua hình ảnh những con ngõ nhỏ quanh co, những rặng tre, rặng trúc đầu làng. Cảnh vật con ngõ nhỏ tĩnh mịch, yên lặng, hun hút không một tiếng động, tiếng bước chân của con người. Từ “ vắng teo” càng tăng thêm vẻ tĩnh mịch nơi đây, không một âm thanh tiếng động nào dù là nhỏ nhất, mọi thứ êm đềm, trống vắng. Tới đây, cái êm đềm của cảnh vật này lại gợi lên một cảm giác đôi chút cô đơn, lạnh lẽo và hiu hắt. Chỉ có người câu cá ngồi đây, chìm giữa trời thu, cảnh vật thu, và chìm trong sự tĩnh lặng. Thi sĩ lúc này đang lặng lẽ cảm nhận vẻ đẹp của non nước quê hương và mơ màng chìm đắm vào sâu trong cảnh vật xung quanh.

Nguyễn Khuyến đã khép lại bài thơ với hai câu thơ rất hay và ý nghĩa, mở ra hình ảnh con người ngồi câu trong tiết thu se lạnh, trong không gian yên tĩnh, hiu quạnh:

“Tựa gối ôm cần lâu chẳng được,

Cá đâu đớp động dưới chân bèo.”

Đọc tựa đề bài thơ, người đọc gần như ai cũng sẽ đoán là bài sẽ tả về cảnh câu cá trong mùa thu. Tuy nhiên, qua các cặp câu đề, thực, luận cũng chỉ thấy xuất hiện cảnh thiên nhiên. Nào là ao thu trong veo vắng lặng, nào chiếc thuyền câu nhỏ bé, nào là những gợn sóng biếc, những chiếc lá vàng, tầng mây tới ngõ trúc uốn lượn mà không thấy hình ảnh người câu cá. Thì tới hai câu kết, con người, lẽ ra trở thành tâm điểm bài thơ ngay từ đầu cũng đã xuất hiện, một hình ảnh con người lặng lẽ ngồi câu cá. Trước đây, Nguyễn Khuyến từng làm quan to trong triều nhà Nguyễn, tuy nhiên dù rất thương dân chúng nhưng ông cảm thấy tù túng, bất lực trước thời cuộc, không cam chịu làm ách nô lệ, tay sai cho bọn giặc Pháp xâm lược. Do đó ông đã từ quan về quê sống ẩn dật. Nhà thơ Nguyễn Khuyến lúc này đã thoát khỏi vòng xoay của danh lợi, thoát khỏi những điều phi lý của chế độ triều đình, ông về nhà sống ung dung, tự tại sống một cuộc sống yên bình giản dị với làng quê. “ Tựa gối ôm cần” miêu tả tư thế thông thả, nhàn nhã của người câu cá. Tác giả dùng từ “ ôm cần” chờ đợi cá cắn câu mà mãi chẳng thấy trong cái tĩnh mịch của không gian chứ không phải “ buông cần” cho thấy trước không gian hiu quanh đó, người câu vẫn chưa từ bỏ hay  là đang cố lờ đi mọi vật, vẫn có đôi chút luyến lưu, tiếc nuối về một điều gì đó. Phải chăng đó chính là sự gửi gắm những suy nghĩ, trăn trở, tiếc nuối của nhà thơ về thời cuộc lúc bấy giờ, về chính quyền nhu nhược, khiến dân chúng lầm than. Đây đồng thời cũng ám chỉ cho tâm thế nhẹ nhàng, an yên của nhà thơ lúc bấy giờ, một nhà thơ thanh bạch, giải thoát mình khỏi sự tù túng, sự bất lực trước thời cuộc. Đang nhẹ nhàng đắm mình tận hưởng sắc khí trời thu, trong giấc mộng thu mơ màng, người câu cá bỗng giật mình khe khẽ bởi “ Cá đâu đớp động dưới chân bèo”. Tiếng động của cá cắn mồi như phá tan đi sự tĩnh mịch của thiên nhiên vạn vật lúc này. Đây là tiếng động duy nhất được Nguyễn Khuyến miêu tả trong bài thơ. Tuy là vậy, nhưng từ “ khẽ” vẫn làm cho cảnh vật mùa thu tại làng quê hiện lên với sự yên ắng nhưng lại nhẹ nhàng, thanh bình. Người câu cá hiện lên với hình ảnh một con người đang trong tâm trạng cô đơn, lặng lẽ, pha đôi chút man mác buồn, nuối tiếc gì đó, bên cạnh vậy là một tâm hồn thanh bạch, nhẹ nhàng.

Bài thơ mang đậm phong cách quê hương vùng đồng bằng Bắc Bộ qua cảm nhận sâu sắc, tinh tế của tác giả Nguyễn Khuyến. Nghệ thuật lấy động tả tĩnh gợi sự yên lặng tuyệt đối của cảnh vật kết hợp với các phép đối câu, gieo vần “ eo”, tác giả giúp bài thơ thổi ra hương sắc thu điển hình.Cách sử dụng khéo léo các tính từ, cặp vần có tính chất ngân vang trong trẻo như đi vào tâm hồn độc giả. Tác giả đã có những để ý tinh tế khi chọn miêu tả những cảnh sắc rất đỗi dân dã với làng quê, từ cái ao quê tới chiếc thuyền, từ trời xanh tới những con ngõ uốn lượn, ẩn mình dưới bóng tre, bao quanh xóm làng. Bên cạnh không gian nhỏ hẹp, yên tĩnh đó là tâm trạng chứa bao nỗi uẩn khúc của tác giả với thời cuộc lúc bấy giờ.

“Câu cá mùa thu” là bài thơ đặc sắc về tả cảnh ngụ tình, là tâm hồn, cảm nhận của tác giả Nguyễn Khuyến về bức tranh trời thu của đồng bằng Bắc Bộ. Một bức tranh thu ở làng quê nhỏ yên tĩnh tới lạ kỳ, êm đềm, dịu dàng và tĩnh lặng được cảm nhận chi tiết tới từng cảnh vật nhỏ nhất qua tài năng và những rung cảm đặc biệt mà tác giả dành cho quê hương mình, cho làng quê Việt Nam sau lũy tre. Hẳn phải có một tình yêu quê hương sâu sắc, hồn quê đậm đà mới có thể giúp Nguyễn Khuyến cảm nhận được bức tranh đẹp này. Nguyễn Khuyến xứng đáng được mệnh danh là một nhà thơ kiệt xuất gắn với quê hương trong nền thơ ca cổ của dân tộc Việt Nam.

Bài phân tích 22

“Thu là thơ của đất trời, thơ là thu của lòng người”. Mùa thu với những chiếc lá vàng, tiết heo may lành lạnh luôn là niềm cảm hứng bất tận cho tâm hồn thi sĩ. Thu gợi lên những cảm xúc xốn xang và nỗi buồn tinh tế, khiến người ta bất giác nhớ về một thời vang bóng. Lẽ tự nhiên, khi “ngô đồng nhất diệp lạc”, những vần thơ nói về tình thu, cảnh thu luôn khiến ta chìm vào dòng cảm xúc miên man của nỗi buồn thi sĩ. Và đến với Nguyễn Khuyến, người đọc có cơ hội được chiêm ngưỡng một dáng hình mùa thu rất riêng qua “Thu điếu”.

“Ao thu lạnh lẽo nước trong veo,

Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo.

Sóng biếc theo làn hơi gợn tí,

Lá vàng trước gió sẽ đưa vèo.

Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt,

Ngõ trúc quanh co khách vắng teo.

Tựa gối, ôm cần lâu chẳng được,

Cá đâu đớp động dưới chân bèo”.

Ở hai câu thơ đầu, Nguyễn Khuyến không chọn cảnh núi non hùng vĩ hay sông hồ khoáng đạt vào lúc sang thu mà chọn những hình ảnh rất quen thuộc với nơi ông sinh ra và lớn lên: vùng đồng bằng Bắc Bộ:

“Ao thu lạnh lẽo nước trong veo

Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo”

Cái hồn của mùa thu hiện lên thật trong sáng, thuần khiết qua hình ảnh “ao thu lạnh lẽo” và “chiếc thuyền câu bé tẻo teo”. Những hình ảnh ấy gợi lên trong lòng người đọc một cảm giác yên bình khó tả, tưởng như đã tìm lại được cái hồn của mùa thu đồng bằng Bắc Bộ. Từ “một chiếc” đến “tẻo teo”, các từ ngữ được Nguyễn Khuyến sử dụng theo cấp độ tăng tiến khiến những sự vật vốn đã bé mọn nay lại càng trở nhỏ bé hơn.

Bức tranh mùa thu tiếp tục được Tam Nguyên Yên Đổ gợi lên bằng những nét vẽ tinh tế:

“Sóng biếc theo làn hơi gợn tí

Lá vàng trước gió khẽ bay vèo”

Những quan sát tinh tế cùng sự tĩnh lặng trong tâm hồn đã giúp nhà thơ cảm nhận được những đường nét, chuyển động rất riêng của mùa thu: sóng gợn lăn tăn trên mặt ao, lá vàng rơi trong gió. Chữ “vèo” trở thành nhãn tự của bài thơ mà Tản Đà từng một thời thán phục: “Chỉ 1 chữ “vèo” cũng đủ suy tôn cụ là bậc thầy về tài luyện chữ rồi”. Nghệ thuật lấy động tả tĩnh thường thấy trong văn thơ trung đại cũng làm nổi bật lên sự tĩnh lặng, thanh vắng của không gian mùa thu.

Nhắc đến mùa thu, ngoài lá vàng rơi trong gió, làm sao có thể bỏ qua sắc xanh biếc đặc trưng của bầu trời:

“Từng mây lơ lửng trời xanh ngắt

Ngõ trúc quanh co khách vắng teo”

Ở trong “Thu vịnh”, bầu trời mùa thu được Nguyễn Khuyến dùng đôi mắt hướng thượng để khám phá xuyên qua các tầng mây: “Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao”. Màu sắc trời thu trong thơ Nguyễn Khuyến luôn được nhận diện là “xanh ngắt”. “Xanh ngắt” mở ra cái bát ngát của bầu trời, đồng thời giúp người đọc cảm nhận được cái nhìn vời vợi của ông lão đánh cá khi ngắm nhìn những áng mây đang lững lờ trôi. Mở ra một không gian khoáng đạt, những sự vật được thâu vào cặp mắt của nhà thơ không phải là “thành xây khói biếc non phơi bóng vàng” mà lại là những hình ảnh hết sức thân thương mà làng quê Bắc Bộ nào cũng có: hình ảnh tre trúc, ngõ xóm quanh co không một bóng người qua lại.

Cả bài thơ tưởng như là một bức tranh thu đậm chất truyền thống thì đến hai câu thơ cuối, hình ảnh nhân vật trữ tình hiện lên trong một trạng thái thật bất ngờ và ý vị:

“Tựa gối buông cần lâu chẳng được

Cá đâu đớp động dưới chân bèo”

“Tựa gối ôm cần” là tư thế trầm ngâm suy tư, đồng thời cũng thể hiện tâm thế nhàn nhã của bậc tao nhân mặc khách đã thoát khỏi vòng danh lợi. Nhà thơ dường như đang chìm vào trong thế giới của riêng mình, của những suy tư, trăn trở, bởi vậy nên một tiếng động rất nhỏ như tiếng cá đớp động dưới chân bèo cũng đủ để khiến người đi câu tỉnh thức và quay trở về thực tại. Đằng sau câu chữ, ta còn nhận ra sự cô đơn cùng nỗi buồn về nhân tình thế thái đang đè nặng lên tâm hồn nhà thơ- một ông quan nhà Nguyễn quyết giữ sự thanh liêm, trong sạch.

Khi nhận xét về bải thơ Thu điếu của Nguyễn Khuyến, Xuân Diệu có viết: “Bài thơ Thu vịnh là có thần hơn hết, nhưng ta vẫn phải nhận bài Thu điếu là điển hình hơn cả cho mùa thu của làng cảnh Việt Nam”. Sự giản dị trong hình ảnh và nét độc đáo trong ngôn từ của “Thu điếu” phải chăng chính là chất men khiến cho lòng người nguyện say mê, chìm đắm?

Bài phân tích 23

Thu vốn là đề tài quen thuộc trong kho tàng thơ ca Việt Nam. Nếu như trong văn học hiện đại, ta có thể bắt gặp “Đây mùa thu tới” của Xuân Diệu hay “Thơ tình cuối mùa thu” của Xuân Quỳnh thì khi quay trở về thời kì trung đại, “Câu cá mùa thu” của Nguyễn Khuyến như một nét mực hoàn thiện bức tranh mùa thu rực rỡ nhưng man mác một nỗi buồn.

Tam nguyên yên đỗ Nguyễn Khuyến sinh năm 1835, là một nhà thơ nổi tiếng trong nền văn học Việt Nam. Thơ văn của ông vừa mang màu sắc trào phúng, lại có bài nhuốm đậm vẻ đẹp trữ tình. Dù là bằng gam màu nào thì thơ văn của ông vẫn toát lên một nét rất riêng, làm say đắm biết bao thế hệ yêu nghệ thuật.

“Thu điếu” hay “Câu cá mùa thu” là bài thơ Nôm nổi tiếng, thuộc chùm thơ thu gồm ba bài của Nguyễn Khuyến là “Thu điếu”, “Thu ẩm” và “Thu vịnh”. Bài thơ được viết theo thể thơ thất ngôn bát cú đường luật. Mở đầu bài thơ, Nguyễn Khuyến đã vẽ nên một bức tranh mùa thu trong và tĩnh, gần gũi với hình ảnh mùa thu thường thấy ở lảng quê Bắc Bộ:

“Ao thu lạnh lẽo nước trong veo

Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo.”

Hai câu thơ, mười bốn từ nhưng các từ chứa vần “eo” đã chiếm một số lượng đáng kể, khi đọc lên ta có cảm giác không gian như co cụm lại, luồng khí thì lạnh lẽo và yên tĩnh đến lạ thường. Mùa thu đã đến qua những dấu hiệu của cảnh vật. Nước trong ao lạnh lẽo, mặt nước thì tĩnh lặng và trong xanh đến mức có thể thấy dưới đáy ao có những gì. Những tưởng trong không gian vắng lặng, tĩnh mịch đến mức u ám, ảm đạm thì một hình ảnh mới xuất hiện, xua tan đi vẻ hoang sơ tĩnh lặng: một chiếc thuyền câu bé nhỏ giữa mặt nước trong veo. Chiếc thuyền “tẻo teo” ấy trông thật xinh xắn, tuy bé nhỏ nhưng nó giúp cho không gian nơi đây thêm phần ấm cúng hơn, bởi trên chiếc thuyền, ắt hẳn có bóng dáng con người xuất hiện…

Không dừng lại ở đó, bức tranh thu còn được tác giả mở rộng hơn về chiều kích không gian:

“Sóng biếc theo làn hơi gợn tí

Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo.”

Không gian tuy mở rộng với nhiều cảnh vật hơn nhưng sự tĩnh lặng của mùa thu vẫn không hề xoay chuyển. Mặt nước vẫn yên tĩnh đến lạ, chỉ có chút “gợn tí” bởi một cơn gió đầu thu. Cuốn mình theo cơn gió se se lạnh ấy là một chiếc “lá vàng…khẽ đưa vèo”. Nghệ thuật đối lập được sử dụng triệt để trong câu thơ này, giữa cái “khẽ” giữa chiếc lá rơi nhẹ nhàng với từ “vèo” đặc tả cho tốc độ rơi nhanh, một chiếc lá rơi rụng không thể nào xua tan đi cái sự tĩnh mịch vốn có của mùa thu nơi đây.

Những cảnh vật dưới mặt đất đã được đặc tả, tác giả tiếp tục hướng cái nhìn của mình lên khung trời rộng lớn bên trên, mở ra một không gian thoáng đãng:

“Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt

Ngõ trúc quanh co khách vắng teo.”

Bầu trời xanh ngắt là một vẻ đẹp không thể nhầm lẫn của mùa thu. Trên không gian cao vút xanh trong ấy là những “tầng mây lơ lửng” tạo cảm giác bềnh bồng, nhẹ nhàng, có chút gì đó cô đơn, hiu quạnh khi trong không gian rộng lớn như vậy mà chỉ có một phần mây lẻ loi giữa trời. Chiều cao đã được mở rộng, không gian đã trở nên quang đãng, Nguyễn Khuyến lại xoay tầm mắt trở về mặt đất thân thuộc. “Ngõ trúc quanh co” cũng “vắng teo” người qua lại. Không gian quả thật là yên mịch quá đỗi…

Thế rồi, trong cái không khí se se lạnh bởi mùa thu ấy, hình ảnh con người cuối cùng cũng đã xuất hiện:

“Tựa gối, ôm cần lâu chẳng được

Cá đâu đớp động dưới chân bèo.”

Hai câu thơ cuối cùng này đã góp phần bộc lộ chân dung của tác giả. Trong những ngày cáo quan về ở ẩn, nhà thơ đã chọn cho mình một chiếc cần câu mà tạm quên đi việc dân, việc nước. Thế nhưng ông không thể nào chú tâm vào việc đi câu mà chỉ chú ý tới cảnh vật xung quanh, có lẽ trong thâm tâm ông, ông chỉ muốn có một không gian yên tĩnh để suy nghĩ về sự đời. Người câu cá như đang hòa làm một với thiên nhiên, như đang cô đơn, lạc lõng giữa dòng đời xô bồ, tấp nập.

Mùa thu qua “Câu cá mùa thu” dù rất tĩnh lặng, hiu hắt và có phần ảm đạm nhưng đâu đó vẫn mang những vẻ đẹp đặc trưng, rực rỡ đến lạ thường. Qua đó ta có thể thấy được tình yêu của nguyễn Khuyến đối với cảnh thu và một lòng nồng nàn hướng về đất nước không thể nào bị xóa mờ.

Bài phân tích 24

Nói đến mùa thu, chúng ta sẽ nghĩ đến khung cảnh nhẹ nhàng và mơ mộng với màu sắc vàng vọt của trời, của những lá đang rụng rơi khắp phố phường. Cũng vì chút nhẹ nhàng ấy mà mùa thu thường gợi lên cảm giác buồn man mác trong lòng người. Bài thơ “Câu cá mùa thu” của nhà thơ Nguyễn Khuyến đã vẽ lên bức tranh thu êm ả xen lẫn những xúc cảm chân thành của người thi sĩ.

Mở đầu thơ là khung cảnh nhẹ nhàng vốn có chốn làng quê thanh bình.

Ao thu lạnh lẽo nước trong veo

Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo

Mở ra trước mắt bạn đọc là mặt nước mênh mông, xanh thẳm trải dài ra vô tận. Hình ảnh ao thu là một thứ gì đó quá đỗi thân thuộc đối với người dân Bắc Bộ. Ao nhỏ hơn hồ, nhưng ở đây mặt ao lại như rộng hơn, bao la hơn trước sự yên tĩnh của đất trời. Trong cái rộng lớn ấy, nổi bật lên là hình chiếc thuyền câu “bé tẻo teo”. Chiếc thuyền bỗng trở thành trung tâm của bức vẽ và trở thành linh hồn của toàn bộ bài thơ. Người thi nhân ngồi trên chiếc thuyền ấy, đẩy tầm mắt ra xa để quan sát và tận hưởng trọn vẹn tiết trời và cảnh sắc mùa thu. Có lẽ bây giờ đã vào cuối thu nên tác giả mới cảm nhận được cái se lạnh của gió. Từ láy “lạnh lẽo” không chỉ gợi lên cảm giác của làn da mà cồn gợi lên sự im ắng đến lạ thường. Dường như không gian ấy không có lấy một tiếng động, chỉ có mặt nước đang trải dài với những lăn tăn của sóng. Sự tĩnh lặng ấy làm cho mặt nước vốn trong lành lại càng trở nên trong xanh hơn. Người câu cá, trên chiếc thuyền nhỏ bé có thể quan sát được cả những chùm rêu mềm mại đang uốn mình dưới lòng nước rồi thấy cả bầu trời trong xanh đang in hằn lên mặt áo thăm thẳm. Sắc xanh bao trùm toàn bộ không gian, nhẹ nhàng đến mức trầm ngâm.

Hai câu thơ sau lại tiếp tục gợi lên sự tĩnh lặng của đất trời.

Sóng biếc theo làn hơi gợn tí

Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo

Ở hai câu thơ này, Nguyễn Khuyến đã rất tài tình bút pháp lấy động tả tĩnh. Đã xuất hiện âm thanh nhưng sao nhỏ bé quá. Đó chỉ là sự “hơi gợn tí” của những làn sóng nước, là một cái “vèo” nhanh chóng của chiếc lá mùa thu đang rơi rụng. Có âm thanh thật đấy nhưng ta lại cảm thấy nó bình lặng quá. Bởi vì, chỉ trong không gian tĩnh mịch đến hiu quạnh ta mới có thể lắng nghe được từng âm thanh nhỏ bé ấy. Cái động ở đây càng làm tăng thêm sự tĩnh lặng của bầu trời mùa thu. Trong câu thơ, sóng hiện lên là làn “sóng biếc”, trong xanh như ngọc bích. Màu xanh của sóng, của nước của bầu trời bao trùm lấy không gian. Và trên nền xanh ấy, một chiếc lá “vàng” lướt qua như cắt đôi bầu không khí. Màu vàng ở đây là màu đặc trưng của mùa thu với sự rụng lá. Chỉ cần một cơn gió nhẹ, những chiếc lá sẽ rơi “vèo” xuống mà không hề lưu luyến. Một chi tiết rất thực, rất nên thơ.

Trong buổi câu cá mùa thu ấy, người thi sĩ quan sát kĩ tường mọi cảnh vật.

Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt

Ngõ trúc quanh co, khách vắng teo

Mùa thu, bầu trời trong xanh hơn, cao ráo và thoáng đãng hơn. Trên không trung, những đám mây trắng bồng bềnh “lơ lửng”. Chúng không hồ hởi trôi theo những cơn gió mà lững thững đến ngưng đọng. Chòm mây cứ nhẹ nhàng đứng đó, mơ màng như chính tâm hồn con người. Đưa mắt lên cao quan sát sự thanh thoát của đất trời, tầm mắt lại nhanh chóng rảo quanh từng con ngõ nhỏ. Trên miền quê ấy, bao quanh bởi màu xanh tươi mát của trúc. Những con ngõ ngoằn nghèo, quanh co nhưng lại vẳng lặng không một bóng người. Dường như, có một cảm giác gì đó cứ man mác trong lòng người. Mặt ao đã vắng lặng ngay đến cả xóm làng cũng yên ắng quá. Cảnh đẹp nhưng lại đượm buồn, thê lương.

Mãi đến cuối bài, hình ảnh con người mới chịu xuất hiện.

Tựa gối buông cần lâu chẳng được

Cá đâu đớp động dưới ao bèo

Người đi câu cá hiện lên nhưng lại ở trong tư thế im lìm, ung dung. Ông cứ ngồi đó, bên chiếc cần câu và đưa mắt ra nhìn xung quang. Đi câu cá nhưng lại chẳng hề chú ý đến việc câu cá bởi lẽ ông đã “buông cần” chứ không phải là “ôm cần”. Mọi sự chú ý như dành cho câu chuyện khác và đi câu cũng chỉ là một cái cớ để ông đắm chìm trong sự tĩnh lặng của không gian. Trước những rối ren của chốn quan trường, người thi sĩ chỉ muốn rút lui, muốn tìm một nơi thanh tịnh, yên ả để hòa hợp với thiên nhiên, với đất trời. Thế nhưng, dù đã lui về quê ở ẩn, đã an nhàn bên chiếc cần câu nhưng tâm trí ông dường như vẫn còn vướng bận đến bao chuyện nhân thế. Vậy nên, chỉ một tiếng cá rất khẽ dưới chân bèo cũng đủ để làm ông giật mình bởi ông đang say sưa với những nghĩ suy của chính mình. Tiếng cá ấy làm ông bừng tỉnh, giúp ông trở về với thực tại và cắt phăng những suy nghĩ vẫn quẩn quanh trong đầu. Tiếng cá rất khẽ ấy càng nhấn mạnh sự yên ắng của bầu trời mùa thu, một sự yên ắng đến tột cùng.

Như vậy, với tám câu thơ ngắn ngủi nhưng bài thơ “Câu cá mùa thu” cũng đã vẽ nên bức tranh thu tĩnh mịch và qua đó bộc lộ được tâm tư, suy nghĩ của người sáng tác. “Thu điếu” sẽ mãi đọng lại trong lòng người đọc và chẳng thể phai nhòa.

Bài phân tích 25

Nguyễn Khuyến [1835-1909] hiệu là Quế Sơn, ông sinh ra ở Nam Định nhưng cuộc đời ông chủ yếu lại sống ở Bình Lục, Hà Nam. Nguyễn Khuyến là người tài năng, có cốt cách thanh cao, có tấm lòng yêu nước thương dân, ông kiên quyết đấu tranh không chịu bắt tay với thực dân Pháp. Các sáng tác của ông bao gồm cả chữ Hán và chữ Nôm, các tác phẩm chủ yếu là thơ.

Câu cá mùa thu là một trong ba bài trong chùm thơ thu của Nguyễn Khuyến gồm “thu điếu, thu ẩm, thu vịnh” được viết bằng chữ Nôm. Thể hiện tài năng kiệt xuất của Nguyễn Khuyến trong việc tả cảnh ngụ tình.

Không gian mùa thu hiện lên qua hai câu thơ đầu rất gần gũi, thanh tao:

Ao thu lạnh lẽo nước trong veo

Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo

“Ao thu lạnh lẽo” hình ảnh chiếc ao “thu” rộng lớn giữa mùa thu mới “lạnh lẽo” làm sao, nhưng liệu nó có lạnh lẽo thật? mùa thu mùa của sương, mùa có nhưng cơn gió se se lạnh. Trải qua mùa hè đầy chói chang của nắng, của sự sôi động của ngày hè oi ả, mùa thu lại mang trong mình chút trầm ổn đôi khi lạnh lẽo đến vậy. Nhưng ao thu đâu có lạnh lẽo đâu, mà nó rất trong, trong đúng cả nghĩ đen lẫn nghĩa bóng, làn nước trong vắt, lặng lẽ hay là tâm hồn của người thi sĩ “trong veo” như vậy.  Giữa cái ao thu xuất hiện một vật tưởng quen mà lại rất lạ, được nhà thơ ví von lại càng có điểm nhấn. “Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo” – chiếc thuyền câu có thể chở được đến ba bố người, nhưng dưới con mắt của Nguyễn Khuyến nó chỉ bé “tẻo teo” mà thôi, một hình ảnh tưởng ngột ngạt, bé nhỏ mà làm người đọc lại cảm thấy nhẹ nhàng, thanh thoát bao nhiêu.

Hình ảnh bức tranh của mùa thu dưới cái nhìn của nhà thơ tiếp tục được khắc họa bởi hai câu thơ tiếp:

Sóng biếc theo làn hơi gợn tí

Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo

Những làn “sóng biếc” lăn tăn trên mặt ao hòa quyện phố hợp nhịp nhàng với “hơi gợn tí”, bức tranh thu không chỉ có cảnh mà còn có thanh lẫn sắc, đưa ta vào sự chuyển động của đất trời, mọi vật chuyển động tương tác với nhau vô cùng nhẹ nhàng, có chút gì đó ăn ý càng làm cho bức tranh thêm sinh động hơn. Biện pháp nghệ thuật lấy động tả tĩnh, nhà thơ đã miêu tả cho chúng ta thấy, cảnh vật xung quanh thật tĩnh lặng mới cảm được những chuyển động tưởng chừng như không có âm thanh đó. Phải một người có tâm hồn cảm nhận tuyệt vời mới cảm được những âm thanh bằng tất cả giác quan hay đến như vậy! Không chỉ có thanh mà còn sắc, sắc vàng của chiếc lá rụng mùa thu, tí tách được những làn gió se se lạnh của mùa thu đưa đi, đưa người đọc vào bức tranh làng quê yên bình mà tĩnh lặng đến thế. Phải chăng, tình yêu thiên nhiên yêu cây cỏ của Nguyễn Khuyến để đạt đến mức, hồn hòa vào thiên nhiên chăng?

Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt

Ngõ trúc quanh co khách vắng teo

Không gian của bức tranh thu được miêu tả từ gần đến xa. Từ chiếc ao ngay gần con mắt đến bầu trời xanh trong của mùa thu “Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt”, động từ lơ lửng được nhà thơ sử dụng rất đắt, cho ta cảm giác chơi vơi, lơ lửng trước cảnh đẹp đất trời, bầu trời xanh điển hình của mùa thu làm ta choáng ngợp, sau những cơn mưa giông với bầu trời xám xịt của mùa hè, hình ảnh bầu trời xanh ngắt một màu của mùa thu cho ta chút gì đó thảnh thơi, tĩnh lặng, nhẹ nhàng, lơ lửng trước sự bình yên đó.

Gần rồi xa, xa lại rồi gần “ngõ trúc” nơi quen thuộc của nhà thơ, ngõ trúc với hàng trúc xanh rì rào, quanh co uốn lượn nhưng lại trống vắng đến thế, “khách vắng teo”, sự trống vắng của khách đến chơi hay sự trống vắng của một thi sĩ yêu nước, mang bao nỗi ưu tư?

Tựa gối buông cần lâu chẳng được

Cá đâu khẽ động dưới chân bèo

Hình ảnh một ông lão câu cá, tựa đầu gối buông cần hồi lâu mà chưa được thành quả, gợi cho người đọc thấy được sự bế tắc chưa tìm được hướng đi cho bản thân hay cho một tấm lòng yêu nước thương dân, tìm cách giải phóng những tâm hồn đang bị gông cùm? Giữa không gian tĩnh lặng đó, chỉ có một tiếng động duy nhất “Cá đâu khẽ động dưới chân bèo” tiếng cá đớp động đó rồi mà sao ta chưa thể có thành quả, Nguyễn Khuyến có phải là câu cá? Hay ông đang chỉ muốn cảm nhận hết cái không gian yên bình tĩnh lặng thanh thoát của mùa thu làng quê kia, để tâm không bị nao núng trước những cám dỗ cuộc đời.

Câu cá mùa thu, là bức tranh tả cảnh ngụ tình thành công rực rỡ của Nguyễn Khuyến. nhà thơ hẳn phải có một tâm hồn đến mức xuất thần mới có thể cảm nhận được những âm thanh nhỏ bé đến vậy. “Tĩnh” của cảnh vật hay chính là tĩnh trong tâm hồn nhà thơ, đâu có có chút xao động của cuộc sống, “tiếng sóng, tiếng lá rơi, tiếng cá đớp” nỗi buồn trong sâu thẳm tâm hồn những lại có những va đập không hề nhỏ…

Bài thơ thể hiện tài năng kiệt xuất của Nguyễn Khuyến với vốn ngôn ngữ sâu rộng, bút pháp nghệ thuật tài tình, nghệ thuật lấy động tả tĩnh thành công, tả cảnh ngụ tình được nhà thơ sử dụng linh hoạt, các dùng từ, điệp từ và phối từ linh hoạt tạo hiệu quả nghệ thuật tối đa, đi sâu vào lòng người. đâu chỉ có thiên nhiên mà còn thấy được cả một tâm hồn người thi sĩ.

Bài thơ Câu cá mùa thu thể hiện sự cảm nhận và nghệ thuật gợi tả tinh tế của Nguyễn Khuyến về cảnh sắc mùa thu của Đồng bằng Bắc Bộ, cho thấy tình yêu thiên nhiên, đất nước, tâm trạng thời thế và tài thơ Nôm của nhà thơ.

Phân tích bài thơ Câu cá mùa thu chi tiết nhất 26

Nguyễn Khuyến [1835 – 1909] là một nhà nho có học vấn uyên thâm, có cốt cách thanh cao, có tấm lòng yêu nước thương dân nhưng bất lực trước thời cuộc. Với những bài thơ bình dị, hồn hậu về cảnh vật và cuộc sống con người vùng Bác bộ, Nguyễn Khuyến được mệnh danh là “nhà thơ của dân tình làng cảnh Việt Nam”. Bài thơ Mùa thu câu cá [thu điếu] là tác phẩm xuất sắc của Nguyễn Khuyến trong thời gian ẩn cư ở quê nhà.

Nguyễn Khuyến là người có tài năng, có cốt cách thanh cao, chính trực; có tấm lòng yêu nước thương dân sâu sắc. Tâm hồn Nguyễn Khuyến lúc nào cũng rộng mở, giàu cảm xúc trước cuộc sống và gắn bó với thiên nhiên. Nguyễn Khuyến ít viết về mùa xuân mà mà tình cảm đặc biệt cho mùa thu. Có lẽ do tâm hồn bất mãn với thời cuộc, muốn tìm một nơi để an trú tinh thần, mùa thu chính là một lựa chọn hiển nhiên đối với ông.

Mùa thu là mùa của sự tàn phai, rất phù hợp với tâm trạng Nguyễn Khuyến lúc này. Bài thơ nằm trong chùm 3 bài thơ viết về đề tài mùa thu của Nguyễn Khuyến: “Thu điếu, Thu vịnh, Thu ẩm”. Đây là 1 trong những bài thơ đặc sắc nhất trong mảng thơ Nôm của ông, được xem là “điển hình hơn cả cho mùa thu của làng cảnh Việt Nam” [Xuân Diệu]

Bài thơ thể hiện sự cảm nhận tinh tế của Nguyễn Khuyến về vẻ đẹp của cảnh sắc mùa thu ở đồng bằng Bắc Bộ, đồng thời thể hiện vẻ đẹp tâm hồn và niềm ưu tư của nhà thơ trước then cuộc. Cảnh thu yên tĩnh, tình thu nồng nàn gợi lên cái hồn cổ xưa của muôn năm xa lạ. Nguyễn Khuyến với cái tài của một người vốn gắn bó với đồng ruộng không cần dụng cong gì mà đã nắm bắt được cái hồn tinh tế ấy:

Ao thu lạnh lẽo nước trong veo, Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo. Sóng biếc theo làn hơi gợn tí, Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo. Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt, Ngõ trúc quanh co khách vắng teo. Tựa gối buông cần lâu chẳng được,

Cá đâu đớp động dưới chân bèo.

Cảnh thu được gởi lên từ những hình ảnh quen thuộc. Cảnh vừa trong vừa tĩnh, vừa cân đối, hài hòa, mang vẻ đẹp nên thơ nhưng củng đượm buồn.

Điểm nhìn của thi nhân phát là thuyền câu trên ao thu với són biếc, lá vàng. Tầm nhìn hướng lên trời cao [trời thu], hướng ra xa thấy ngõ trúc quanh co rồi trở lại xuất phát điểm thuyền câu, ao thu. Cảnh thu được đón nhận từ gần thấp đến cao, xa rồi từ cao, xa trở lại gần. Tầm nhìn bao quát mọi hướng của không gian thu để nhận thấy tất cả các vẻ đẹp của cảnh sắc mùa thu.

Bức tranh cảnh sắc mùa thu hiện ra với những nét đặc trưng vốn có của nó. Cảnh thu vừa trong sáng vừa tĩnh lặng. Trong sáng với mặt “nước trong veo”, làn “sóng biếc”, với “bầu trời xanh ngắt” . Đó là một bức tranh thu cổ điển với thi đề, thi liệu quen thuộc [thu thuỷ, thu thiên] nhưng lại rất gần gũi, thanh sơ. Tĩnh lặng với khung cảnh vắng vẻ, đường đi không một bóng người. Âm thanh rất mơ hồ làm không gian thêm quạnh vắng [cá đâu đớp động dưới chân bèo]. Những chuyển động rất nhẹ, rất khẽ [song hơi gợn tí, lá khẻ đưa vèo, tầng mây lơ lững, cá đâu đớp động dưới chân bèo] khơi gợi thêm sự tĩnh lặng của cảnh vật.

Bức tranh thu hài hoà, cân đối về màu sắc, hình khối và đường nét. Màu sắc hiện lên với gam màu chủ đạo là màu xanh gợi không khí se lạnh của mùa thu; một chút màu vàng của lá, màu trắng của mây khiến bức tranh thêm sinh động.

Đường nét, hình khối cân đối cũng được gọt giũa, bố trí hết sức tài tình với “ao thu nhỏ”, “chiếc thuyền câu” . Theo đó cũng bé tẻo teo và dáng người cũng thu nhỏ lại. Đường nét mảnh mai, tinh tế với đường uốn lượn của ngõ trúc, đường gợn của sóng.

Cảnh mùa thu đẹp, buồn, tĩnh lặng, dân dã, thanh sơ, gần gũi, rất tiêu biểu cho mùa thu của làng quê Bắc Bộ. Có lẽ nhà thơ đã quá kiệm lời khi nói quá ít về cảnh thu tuyệt đẹp và tĩnh lạng như tờ ấy. Ông như sợ nếu chạm nhẹ hay khẽ rung cũng có thể làm đổ vỡ bức tranh tuyệt vời hiếm gặp ấy. Như một bức tranh thủy mặc đơn sơ mà ấn tượng, cảnh thu lập tức nằm gọn trong tâm hồn người đọc, ẩn náu để rồi lan tỏa miên man.

Tình thu hòa quyện trong trời xanh nước biếc. Tác giả cách cảm nhận cảnh thu hết sức tinh tế bằng một  tâm hồn thuần khiết của người gắn bó tha thiết với thiên nhiên, đắt nước. Ông nâng niu tất cả, giữ gìn tất cả với những vẻ đẹp dáng quý của nó. Mọi thứ xa hoa đều bị gạt bỏ, chỉ còn lại đay chất đơn sơ, mộc mạc mà thắm đượm nghĩa tình.

Không gian thu tĩnh lặng gợi sự cảm nhận về nỗi cô quạnh, u uẩn trong tâm hồn nhà thơ:

Ao thu lạnh lẽo nước trong veo, Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo. Sóng biếc theo làn hơi gợn tí,

Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo.

Bức tranh mùa thu tĩnh lặng, u buồn cũng là tâm trạng về thời thế đầy uẩn khúc của tác giả. Ông chọn vần “eo”, một “tử vận” vốn rất oái ăm, khó làm để biểu đạt cảnh vật. Với vần “eo” gây cấn ấy,  không gian càng trở nên vắng lặng, nhỏ dần, phù hợp với tâm trạng đầy uẩn khúc: veo-teo-vèo-teo-beo.

Từ “vèo” biểu thị của dòng thời gian đang trôi nhanh, rất nhanh. Và như thế, cuộc đời, thế cuộc cũng đổi thay nhanh chóng. Thoáng chốc, đời người đã bước sang tuổi xế chiều. biết bao ước muốn, khát vọng chưa được hoàn thành. Còn cuộc đời thì cứ thờ ơ, dùng dằng, quanh co, không có hướng đi:

Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt,
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo.

Người nho sĩ với khát vọng kinh bang tế thế, trị nước bình thiên hạ, muốn cứu đời, làm đổi thay thời thế nhưng giờ nhìn lại đã thấy xa vời quá đỗi, bất lực nhìn dòng thời gian trôi đi.

Tựa gối buông cần lâu chẳng được,
Cá đâu đớp động dưới chân bèo.

Xem thêm :  Hàm Chia Trong Excel - Chia Lấy Phần Nguyên

Tựa đề bài thơ gây một sự chú ý đặc biệt. Câu cá mùa thu mà không chú ý đến chuyện câu cá, chỉ quan sát thiên nhiên, lắng nghe, hoà mình với thiên nhiên. Chủ đề trữ tình xuất hiện trong tư thế ngồi bất động “tựa gối buông cần”. Đó là tư thế thu mình lại, không phải để chờ đợi mà là để suy tu. Cõi lòng nhà thơ đang tĩnh lặng tuyệt đối.

Bài thơ kết lại trong cái động rất nhỏ của tiếng cá “cá đâu đớp động dưới chân bèo”. Chữ “đâu” diễn tả cái giật mình thảng thốt, cái ngơ ngác kiếm tìm như người mất phương hướng.

Bài thơ thể hiện vẻ đẹp của một tâm hồn gắn bó với thiên nhiên đất nước. Dù ở quê nhà nhưng vẫn thấy lạc lõng, cô đơn trước thực tại. Lạc lõng là bởi không thực hiện được chí nguyện của người đi học. Lạc lõng là bởi nỗi lòng sâu thẳm ấy không thể thổ lộ cùng ai. Chỉ có đất trời mới thấu hiểu. Đó cũng là tấm lòng yêu nước thầm kín nhưng không kém phần sâu sắc của Nguyễn Khuyến vậy.

Câu cá mùa thu rất thành công với lớp ngôn ngữ giản dị, trong sáng, giàu giá trị biểu cảm. Cách miêu tả cảnh vật  tinh tế với bút pháp điểm nhãn đày tính nghệ thuật. Từ láy tạo hình lơ lững, tẻo teo… thể hiện mạnh mẽ sức mạnh tạo hình. Cách gieo vần eo gợi sự nhỏ hẹp của không gian thu ở làng quê, sự vắng lặng, thu nhỏ dần của không gian, phù hợp với tâm trạng đầy uẩn khúc.

Hơn thế, nhà thơ còn sử dụng nhiều từ chỉ mức độ độc đáo: lạnh lẽo, trong veo, bé tẻo teo, hơi gợn tí, khẽ đưa vèo, lơ lửng, xanh ngắt, vàng teo, quanh co,…Kếp hợp với bút pháp thủy mặc Đường thi và vẻ đẹp thi trung hữu hoạ của bức tranh phong cảnh. Vận dụng tài tình nghệ thuật đối thanh đối ý. Mùa thu câu cá thật xứng đáng là một tuyệt phẩm đặc sắc của làng thơ Việt Nam từ xưa đến nay.

Bài thơ thể hiện sự hòa hợp giữa vẻ đẹp u tĩnh của cảnh sắc mùa thu với nỗi lòng u uẫn của một người muốn giữ phẩm giá trong sạch giữa cuộc đời rối ren, loạn lạc.

Nguyễn Khuyến đã rất thành công khi vận dụng bút pháp miêu tả tinh tế, tài hoa [Thi trung hữu họa, lấy động tả tĩnh, tả cảnh ngụ tình]. Ong cũng chú ý sử dụng lớp ngôn ngữ trong sáng, giản dị, giàu sức gợi cảm. Cách gieo vần “eo” [tử vận] được sử dụng độc đáo, góp phần biểu đạt nội dung, gợi tả không gian vắng lặng, sự thu nhỏ dần, tâm trạng đầy uẫn khúc… Có lẽ, sự khó khăn ấy cũng là tinh thần bế tắc của ông trước thời cuộc.

Mùa thu câu cá đã thể hiện sự cảm nhận và nghệ thuật gợi tả tinh tế của Nguyễn Khuyến về cảnh sắc mùa thu đồng bằng Bắc Bộ, đồng thời cho thấy tình yêu thiên nhiên, đất nước, tâm trạng thời thế và tài thơ Nôm của tác giả.

Bài phân tích 27

Nguyễn Khuyến làm thơ để gửi gắm tâm tình. Ông tả cảnh mùa thu đi câu cá nhưng đi câu chỉ là dịp để nhà thơ được nhìn ngắm cảnh vật, buông thả hồn mình, giao hòa với thiên nhiên. Toàn bài Thu điếu là cảnh vật ở trạng thái tĩnh lặng và lắng lại đằng sau những câu chữ và hình ảnh của trời thu là nỗi lòng thầm kín của tác giả.

Ao thu lạnh lẽo nước trong veo
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo.

Mùa thu được bắt đầu từ không gian “ao thu” – một hình ảnh giản dị, dân dã nơi vùng ao chuôm nước đọng của miền quê Bắc Bộ. Cái lạnh lẽo thấm vào “ao thu”, nước thu và thấm cả vào hồn người cảm nhận. Hình ảnh “nước trong veo” gợi cảm giác đứng yên một cách tuyệt đối. Mùa thu thường không có gió mạnh để mặt nước chao động một cách dữ dội nhưng lại hay xuất hiện những làn gió nhẹ phe phẩy làm dao động mặt nước dù chỉ là rất khẽ, rất nhẹ. Nguyễn Khuyến đã vẽ lên bức tranh thu hết sức tĩnh lặng, tĩnh đến mức mà tác giả thấy được “nước trong veo”, dường như soi được đến tận cả đáy ao. Với cách gieo vần “eo” làm cho cảnh đã lặng càng lặng hơn.

Trên cái nền ao thu nhỏ bé đó xuất hiện một chiếc thuyền, có cả người đi câu. Chiếc thuyền đã bé lại tẻo teo, cảnh dường như co lại đến mức tột cùng, khác hẳn vối không gian trải rộng trong Thu vịnh. Nếu như cảnh ở Thu vịnh mênh mông bao nhiêu thì cảnh ở bài Thu điếu lại thu hẹp lại bấy nhiêu. Chiếc thuyền “tẻo teo” nổi lên trên mặt ao hình như cũng không di động. Cả hai câu thơ là một cảnh tĩnh lặng, bất động.

Sóng biếc theo làn hơi gợn tí
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo.

Đã bắt đầu có một chút dao động của mặt nước. Cái động rất khẽ, mọi cảnh vật vẫn tĩnh lặng. Cái gợn lên của mặt nước thực ra là động mà để nói tĩnh. Có tĩnh, có lặng thì tác giả mới nghe được cả tiếng lá “đưa vèo”. Một tiếng lá rơi giữa mùa thu mà thi nhân cũng cảm nhận được độ rơi, âm thanh của nó thì quả thực không gian ấy đã hoàn toàn im ắng. Đưa mà lại “đưa vèo”, “vèo” là một động tác rơi rất nhanh nhưng đó là “bay vèo”, song ở đây lại “đưa”, “đưa” thì không thể nhanh được mà thậm chí là chậm. Mà khẽ đưa vèo thì nó còn nhuốm vào đó một chút buồn, chút ngẩn ngơ. Với Nguyễn Khuyến, mùa thu không đến bằng hình ảnh lá ngô đồng nữa mà xuât hiện “lá vàng” — có lẽ là lá tre, lá trúc ở quanh quẩn bên bờ ao cứ đến mỗi độ thu về thay lá thì lại rơi xuống mặt hồ. Hình ảnh này râ’t quen thuộc, đặc trưng cho mùa thu ở nông thôn Việt Nam. Không gian được đẩy ra cao rộng hơn.

Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo.

“Tầng mây lơ lửng”, bầu trời được nâng cao lên bao trùm hết cái ao nhỏ bé. Cái “lơ lửng” của tầng mây, cái “xanh ngắt” của nền trời tạo một cảm giác bâng khuâng khó hiểu. “Ngõ trúc” – một hình ảnh mà hầu như làng quê nào trên đất nước Việt Nam cũng không thiếu. Con đường làng “quanh co” tạo nên cái uốn lượn vòng vèo và có một chút hun hút của ngõ làng trong một buổi chiều vắng. “Vắng teo” vắng đến không có một bóng người.

Tựa gối ôm cần lâu chẳng được
Cá đâu đớp động dưới chân bèo.

Bài thơ nói về chuyện đi câu mà đến câu thứ bảy rồi mới xuất hiện hình ảnh của ông già câu cá. Người câu “tựa gối” như suy tư điều gì chứ không chú tâm vào việc câu cá. Hình như Nguyễn Khuyên mượn cái thú đi câu để nghĩ về việc đời, việc nhân tình thế thái chứ không thực sự vì mục đích câu cá. Vậy nên ngồi đã lâu mà chẳng được con cá nào. Đến cái điều mà tác giả đang nghĩ suy cũng lặng đi trong cái “tựa gối”.

Cá đâu đớp động dưới chân bèo.

Câu thơ làm mặt nước rung lên, chao động. Cả bảy câu thơ hầu như toàn là cảnh lặng trong trạng thái tĩnh, riêng câu thứ tám làm lung lay cả bài thơ. Cái động phá vỡ sự tĩnh lặng, u buồn, làm cho cảnh trở nên sinh động hẳn lên. “Cá đâu đớp” là câu hỏi tu từ, một câu hỏi càng nhấn mạnh thêm việc đi câu không phải là chủ yếu mà chỉ là cái cớ để nhà thơ thả những tâm sự kín đáo của mình vào cảnh vật, thiên nhiên, đất trời mùa thu. Câu thơ cuối của bài bát cú thường được gọi là câu “điểm nhãn”. Sau vẻ tĩnh lặng của một sức sông tiềm ẩn, mãnh liệt, tạc vào thi nhân trong dáng vẻ ngư ông, một đường nét bất động trên bức tranh thu. Tâm trí Nguyễn Khuyên dâu có để ở việc câu cá, ông còn mãi ngắm cảnh và bận suy tư. Bởi thế nên người câu cứ tựa gô’i ôm cần, mà cá thì cứ bình thản “đớp động”. Hai việc ấy chả có gì liên quan tới nhau cả.

Bài thơ là bức tranh thủy mặc giữa mùa thu tuyệt đẹp được dệt bằng ngôn từ dưới bút pháp tài tình của Nguyễn Khuyến. Thu điếu vừa đẹp vừa buồn, cái đẹp dành cho thiên nhiên vạn vật, cái buồn dành cho nỗi lòng nhà thơ – cái buồn mang tính nhân bản của một con người luôn nặng nợ với nước nhà, quê hương.

Bài phân tích 28

Ở trong kho tàng văn thơ trung đại Việt Nam có rất nhiều bài thơ viết về mùa thu hay và nhắc đến thơ thu là người ta không thể không nhắc đến chùm thơ thu của Tam Nguyên Yên Đổ – Nguyễn Khuyến. Và bài thơ Câu Cá Mùa Thu – Thu Điếu được mọi người vô cùng yêu thích.

Đọc bài thơ Nguyễn Khuyễn đã khắc tạc, vẽ lên những đường nét đơn giản nhưng cũng đã cho thấy được cái chứa chan, sự mênh mang của mùa thu như hiện ra trước mắt người đọc.

Ao thu lạnh lẽo nước trong veo

Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo

Sóng biếc theo làn khơi gợn tí

Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo

Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt

Ngõ trúc quanh co khách vắng teo

Tựa gối ôm cần lâu chẳng được

Cá đâu đớp động dưới chân bèo.

Thu Điếu đã được tạo nên bằng tất cả những thi liệu đượm chất thu và nó còn mang được màu sắc hết mực cổ điển. Có thể nói hình ảnh “thu thủy” – chỉ làn nước mùa thu sóng đôi với “thu thiên”- hình ảnh bầu trời thu, kết hợp cùng lá thu và hình ảnh người câu cá chính là những đường nét quan trọng trong bức tranh thu của Nguyễn Khuyến. Ao thu được biết đên vốn là một không gian chẳng còn xa lạ của vùng quê Bắc Bộ. Thế rồi trung tâm của bức tranh thu là một chiếc thuyền câu như cứ “bé tẻo teo”. Có thể thấy chính từ chính chiếc thuyền con giữa lòng ao nhỏ ấy thì với ánh mắt của thi nhân bao quát ra xung quanh và cảm nhận mặt nước ao thu lạnh lẽo, ao thu lại còn trong veo đến hết độ. Thông qua đây ta nhận thấy được mùa thu hiện lên với nào sóng biếc “gợn tí”. Và hình ảnh lá vàng được cơn gió thu đưa vèo trong cơn gió, bầu trời xanh ngắt rồi ngõ trúc cứ thật quanh co uốn lượn – hình ảnh đặc trưng mùa thu vùng quê Bắc Bộ. Với những nét đẹp này khung cảnh quê hương mang được bao nhiêu sự giản dị thân thuộc, gắn liền với quê hương.

Ao thu lạnh lẽo nước trong veo

Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo

Sóng biếc theo làn khơi gợn tí

Không phải ngẫu nhiên mà tác giả Xuân Diệu từng nhận xét rằng “Thu điếu [Câu cá mùa thu] là điển hình hơn cả cho mùa thu của làng cảnh Việt Nam”. Thông qua đây người đọc như nhận thấy được hình ảnh của mùa thu của thi nhân không chỉ gây ấn tượng ở màu sắc, mùa thu ấy không những đẹp trong từng nét họa mà còn vang động những thanh âm rất riêng nữa. Hình ảnh Ao thu hiện ra qua hai tính từ đó là: lạnh lẽo và trong veo – ao lạnh, nước yên và trong đến tận đáy. Hình ảnh bầu trời Nguyễn Khuyến lại lựa chọn điểm tô màu “xanh ngắt”. Với hình ảnh màu xanh này nó còn chính là sợi chỉ xuyên suốt kết nối chùm thơ thu ba bài của thi nhân lại với nhau. Màu xanh ngắt chính là màu xanh không pha trộn, không gợi tạp mà nó lại nhấn mạnh thần thái riêng của mùa thu.

Hình ảnh lá vàng là một hình ảnh đặc trưng của mùa thu kết hợp với ngõ trúc tạo ra một thần thái riêng cho làng cảnh Việt Nam. Thế rồi chính với câu thơ cuối đã được tác giả khéo léo lồng vào bút pháp thi ca cổ điển đó là nghệ thuật lấy động đánh tĩnh. Chắc chắn phải là một không gian tĩnh lặng tuyệt đối thì cả con người với thiên nhiên lúc này đây mới có thể giật mình trước âm thanh rất nhỏ đó là hình ảnh tiếng cá đớp động. Có lẽ chính cái động của tiếng cá đớp càng làm nổi bật cái tĩnh chung của cảnh. Người đọc như nhận thấy được bức tranh thu hiện lên với vẻ đẹp thanh vắng, quạnh hiu và ở đây cũng chỉ có duy nhất thi nhân đang trong vai của một ngư ông đang đối diện với thiên nhiên mà như đang chìm vào cõi suy tư trầm ngâm. Ngắm nhìn cảnh không gian tĩnh lặng, vắng người, vắng tiếng, cảnh hẹp và thu nhỏ trong khuôn ao làng xóm

Không hề sai khi ta nhận xét rằng bức tranh thu của Nguyễn Khuyến còn là sự hòa quyện tinh tế giữa muôn vàn cung bậc của các “điệu xanh”. Rồi như điểm xuyết trong các điệu xanh đó chính là hình ảnh của lá vàng đã tạo lên được sự nổi bật của bức tranh thu. Tác giả Nguyễn Khuyến như đang nghiêng lòng mình, ông như lặng mình để có thể lắng nghe mọi tàn phai trong sự chuyển động khẽ khàng của cảnh. Có thể thấy được cả bức tranh thu là sự hòa điệu về đường nét chuyển động mảnh mai, luôn nhẹ nhàng đến tinh tế thông qua chuỗi các động từ được sử dụng trong bài như; “khơi gợn tí”, “lơ lửng”, “khẽ đưa vèo”… Hình ảnh ao thu nhỏ nên thuyền câu bé, trời xanh ngắt nên giúp màu nước thêm trong, khách vắng teo nên người ngồi câu cũng trầm ngâm và vô cùng yên lặng. Chính bức tranh thiên nhiên được hòa sắc vào nét, tất cả như đã bỗng trở nên hài hòa xứng hợp, xinh xắn đến lạ kì.

Với hai câu thơ cuối kết lại mạch cảm xúc, gợi ra lòng người thanh thản với tư thế thu mình ngồi đến lặng lẽ của một ngư ông đang lánh đục về trong.

Tựa gối buông cần lâu chẳng được

Cá đâu đớp động dưới chân bèo

Nhà thơ Nguyễn Khuyến như chăm chú dõi nhìn cảnh sắc mùa thu, cho đến khi nghe tiếng cá đớp động dưới chân bèo thì lúc đó ông mới giật mình sực tỉnh. Cứ như vừa trở về với thực tại, nhà thơ đã đưa mình vào trạng thái lửng lơ vậy. Liệu có phải người đi câu cá hay chỉ đi để ngẫm nghĩ về cuộc sống nhất là đối với một người lánh đục về trong như Nguyễn Khuyến. Thông qua đây người đọc nhận thấy được ở Nguyễn Khuyến một tâm hồn gắn bó với thiên nhiên, một tấm lòng yêu nước thuần hậu, thầm kín nhất. Khi thể hiện được nỗi buồn trong cảnh thì không bị đẩy được mức độ u uất mà luôn lan tỏa đến nhẹ nhàng, xung quanh nhưng vẫn tạo ra được một khoảng lặng trong tâm hồn. Bài thơ viết về mùa thu đã mang một nỗi u hoài ấy của tác giả. Điều này mới có thể làm nên lưu luyến trong tâm trí người đọc, làm nên bao nhiêu nỗi day dứt với đời và tạo thành giá trị trường tồn, sức sống lâu bền cho tác phẩm

Với “Thu điếu” Câu cá mùa thu của tác Nguyễn Khuyến đã tạo nên cho mình một chỗ đứng quan trọng trong nền thơ ca trung đại Việt Nam từ xưa đến nay. Bài thơ chất chứa những con chữ mà lại mang được cái tình của người thi nhân yêu nước. Qủa không sai khi nói bài thơ hơn một bức tranh tả cảnh trời thu.

Bài phân tích 29

Nguyễn Khuyễn sinh 1835 mất 1909. Lúc nhỏ tên là Thắng, học giỏi, thông minh. Quê hương Nguyễn Khuyến thuộc tỉnh Hà Nam sinh ra ở quê ngoại: Hoàng Xá nay là xã Yên Trung, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định. Lớn lên, Nguyễn Khuyến về quê nội: Làng Và [Vị Hạ], xã Yên Đổ, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam. Gia đình Nguyễn Khuyến có truyền thống nho học. Nhưng đến đời cụ thân sinh ra Nguyễn Khuyến không đỗ đạt chỉ ở nhà dạy học. Nguyễn Khuyến đỗ đầu cả ba kì thi: Hương, Hội, Đình. Người ta gọi cụ là Tam Nguyên Yên Đổ. Ông làm quan 14 năm. Năm 1884, Nguyễn Khuyến cáo quan về làng, dạy học sống thanh bạch. Nguyễn Khuyến là người có tài năng, cốt cách thanh cao, chia sẻ đồng cảm với người dân ở quê hương ông và tấm lòng yêu nước thầm kín, kiên quyết không hợp tác với chính quyền thực dân Pháp. Sáng tác của Nguyễn Khuyến gồm cả chữ Hán và chữ Nôm, số lượng lớn. Hiện còn 800 bài gồm thơ, văn, câu đối nhưng chủ yếu là thơ. Thơ Nguyễn Khuyến thể hiện tình yêu quê hương, đất nước, gia đình, bè bạn, phản ánh cuộc sống thuần hậu, chất phác, nghèo khổ của nhân dân. Đồng thời tỏ thái độ châm biếm đả kích tầng lớp thống trị, bọn thực dân và tay sai phong kiến. Đóng góp nổi bật nhất của Nguyễn Khuyến đối với nền văn học dân tộc là mảng thơ viết về làng quê, thơ trào phúng và ngôn ngữ thơ Nôm.

Thu điếu nằm trong chùm thơ thu [3 bài]. Cả ba bài đều có chung một đề tài về mùa thu [Thu Vịnh, Thu điếu, Thu ẩm]. Câu cá mùa thu hòa hợp giữa cảnh thiên nhiên thanh sơ của nông thôn êm đềm, vắng lặng vào tiết thu với tâm trạng thời thế kín đáo của thi sĩ.

Viết về mùa thu là đề tài quen thuộc của thi ca phương Đông. Nhà thơ Đỗ Phủ đời Đường [Trung Quốc] có tới tám bài. Viết về mùa thu, mỗi thi nhân đều có cách riêng của mình. Với Nguyễn Khuyến, làng cảnh Việt Nam nhất là đồng bằng Bắc bộ hiện lên trong chùm thơ thu rất rõ. Tiêu biểu nhất là trong Thu điếu.

Bài thơ được làm theo thể thơ Nôm Đường luật [thất ngôn bát cú]. Hai câu đầu: giới thiệu cảnh câu cá mùa thu, bốn câu tiếp: Cảnh thu ở nông thôn đồng bằng Bắc bộ, hai câu cuối là tâm sự tác giả.

Bài thơ mở ra thời gian và không gian nghệ thuật đầy thi vị, đầy ắp không khí làng cảnh vùng đồng bằng Bắc Bộ:

Ao thu lạnh lẽo nước trong veo
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo

Điểm nhìn của nhà thơ từ gần đến cao xa rồi từ cao xa trở lại gần. Từ chiếc thuyền câu trên ao thu lạnh lẽo mà nhìn ra, nhìn lên.  Đặc điểm của vùng quê Bình Lục – Hà Nam, vùng đồng chiêm trũng nên lắm ao. Nhiều ao, thuyền câu trở nên bé nhỏ. Điểm nhìn cảnh thu của tác giả thật độc đáo: khác với Thu vịnh, cảnh thu được đón nhận từ cao xa tới gần, lại từ gần đến cao xa, còn Thu điếu thì ngược lại. Từ một khung ao hẹp, cảnh thu được mở ra theo nhiều hướng sinh động. Thời gian không phải là một ngày một buổi mà cả một mùa thu. Từ điểm nhìn ấy, nhà thơ quan sát và ghi lại: Cảnh thu độc đáo, rất riêng. Cảnh điển hình hơn cả cho mùa thu làng cảnh Việt Nam. Nguyễn Khuyến đã chọn những hình ảnh rất tiêu biểu cho mùa thu xứ Bắc [ Ao thu, gió thu, trời thu] để rồi quan sát cận cảnh với những sóng biếc gợn rất nhẹ, một chiếc lá vàng rụng theo gió khẽ khàng:

Sóng biếc theo làn hơi gợn tí
Lá vàng trước gió sẽ đưa vèo

Màu “biếc” của sóng hoà hợp với sắc “vàng” của lá vẽ nên bức tranh quê đơn sơ mà lộng lẫy. Nghệ thuật đối trong phần thực rất điêu luyện: “lá vàng” với “sóng biếc”, tốc độ “vèo” của lá bay tương ứng với mức độ “tí” của gợn sóng. Nhà thơ Tản Đà đã hết lời ngợi ca chữ “vèo” trong thơ của Nguyễn Khuyến. Ông đã nói một đời thơ của mình may ra mới có được câu thơ vừa ý trong bài “Cảm thu, tiễn thu”: “vèo trông lá rụng đầy sân”.

Hai câu luận mở rộng không gian miêu tả. Bức tranh thu có thêm chiều cao của bầu trời “xanh ngắt” với “những tầng mây lơ lửng” trôi theo chiều giớ nhẹ. Trong chùm thơ thu, Nguyễn Khuyến nhận diện sắc trời thu là “xanh ngắt”:

“Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao” [Thu vịnh]

“Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt” [Thu ẩm]

“Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt” [Thu điếu]

“Xanh ngắt” là xanh mà có chiều sâu. Trời thu không mây [xám] mà xanh ngắt, thăm thẳm. Xanh ngắt đã gợi ra cái sâu, cái lắng của không gian, cái nhìn vời vợi của nhà thơ, của ông lão đang câu cá. Thế rồi ông lơ đãng đưa mắt nhìn về bốn phía làng quê. Hình như bà con dân làng đã ra đồng hết. Xóm thôn vắng lặng. Mọi con đường quanh co, hun hút, không một bóng người qua lại:

Ngõ trúc quanh co khách vắng teo

Cảnh đơn sơ, thanh nhẹ chỉ được phác vẽ bằng vài nét chấm phá như trong tranh thuỷ mặc: ao thu nước cả và thuyền câu bé tẻo teo, sóng gợn tí và lá rụng vèo, mây lơ lửng giữa bầu trời xanh ngắt; ngõ trúc quanh co không bóng người. Hình ảnh thơ bình dị, thân thuộc, không chỉ thể hiện cái hồn của cảnh thu mà còn thể hiện cái hồn của cuộc sống ở nông thôn xưa. “Cái thú vị của bài Thu điếu ở các điệu xanh, xanh ao, xanh bờ, xanh sóng, xanh trúc, xanh trời, xanh bèo” [ Xuân Diệu].

Tựa gối ôm cần lâu chẳng được
Cá đâu đớp động dưới chân bèo

Câu 7 tả tư thế người ngồi câu kiên nhẫn, gò bó, hình như ông đang lắng nghe tiếng cá đớp mồi dưới chân bèo.  Tiếng cá hình như có thật nhưng cũng rất mơ hồ, khe khẽ không xác định. Dù hiểu thế nào chăng nữa thì người câu rõ ràng chẳng để ý đến chuyện câu cá, được cá hay không mà đang câu lòng, câu người, đắm chìm trong suy tư, trong tâm trạng. Tâm sự của một nhà nho lánh đời thoát tục song vẫn không nguôi nghĩ về đất nước nhân dân, về sự bế tắc, bất lực của bản thân? Nhàn thân song không nhàn tâm, Nguyễn Khuyến không thể ung dung đi câu như một ẩn sĩ thực thụ. Nỗi buồn ấy của Nguyễn Khuyến là đáng quý. Nó giúp ông giữ được nhân cách trụ được đến ngày nay. Nỗi buồn ấy đáng để chúng ta ngả mũ nghiêng mình. Ta mới hiểu vì sao trong bài Di chúc có đoạn ông dặn các con mình:

Việc tống táng lăng nhăng qua quýt

Cúng cho thầy một ít rượu be

Đề vào mấy chữ trong bia

Rằng: quan nhà Nguyễn cáo về đã lâu

Thế là tình thu ở đây không chỉ là tình cảm với mùa thu mà còn là tấm lòng gắn bó tha thiết với thiên nhiên quê hương, một tấm lòng yêu nước, yêu dân thầm kín nhưng không kém phần sâu sắc.

Bài thơ là bức tranh thu mang vẻ đẹp điển hình cho mùa thu, làng cảnh Việt Nam; cảnh đẹp song buồn, vừa phản ánh tình yêu đất nước vừa cho thấy tâm sự thời thế của tác giả. Thơ thu của Nguyễn vừa có những mặt giống với cách viết về mùa thu trong văn học cổ nhưng có những mặt rất mới : đó là những nét vẽ thực hơn, từ ngữ, hình ảnh đậm hồn dân tộc.

Bài phân tích 30

Nhắc đến những bài thơ viết về mùa thu Việt Nam, người ta không thể không nhắc đến chùm ba thơ thu của nhà thơ “Tam nguyên Yên Đổ” Nguyễn Khuyến mà “Thu điếu” là bài thơ tiêu biểu nhất. Bài thơ không chỉ khắc họa bức tranh thiên nhiên, làng cảnh Bắc bộ và tâm sự sâu sắc của nhân vật trữ tình mà còn để lại ấn tượng cho người đọc nhiều thế hệ bởi sự vận dụng sáng tạo, thành công hình ảnh, ngôn ngữ văn học dân tộc. Ông xứng đáng được coi là “nhà thơ của làng cảnh Việt Nam” [Xuân Diệu].

“Ao thu lạnh lẽo nước trong veo

Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo

Sóng biếc theo làn hơi gợn tí

Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo

Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt

Ngõ trúc quanh co khách vắng teo

Tựa gối ôm cần lâu chẳng được

Cá đâu đớp động dưới chân bèo”.

“Thu điếu” là bài thơ Nguyễn Khuyến sáng tác khi đã từ quan về ở ẩn. Đọc bài thơ ta bắt gặp những hình ảnh thân thuộc vẫn thường gặp ở những vùng chiêm trũng đồng bằng Bắc bộ: Một chiếc ao thu nhỏ bé, chiếc thuyền câu cũng nhỏ, những ngõ trúc quanh co… Tình yêu thiên nhiên đất nước, tình cảm gắn bó dành cho quê hương vốn đã tiếm ẩn trong tâm hồn Nguyễn Khuyến nay được dịp “bùng nổ” mãnh liệt. Văn thơ Nguyễn Khuyên là sự kết hợp một cách nhuần nhuyễn giữa những cái tinh hoa của văn học bác học với vản học dân gian được chắt lọc từ ngàn đời của dân tộc. Văn học dân gian chính là cội nguồn nuôi dưỡng văn học dân tộc nhưng cũng chính văn học bác học với những tri thức thông minh, bác cổ đã góp phần vô cùng quan trọng giữ gìn, phát huy sáng tạo văn học, giúp cho văn học dân gian phát triển. Sự trở về Yên Đổ là một bước ngoặt quan trọng quyết định trong sự nghiệp vãn học của ông. Đó chính là sự trở về với cuộc sống của nhân dân, hoà mình vào môi trường sống, môi trường văn học vốn gần gũi với ông từ thuở lọt lòng. Nguyễn Khuyến là một trong số những nhà thơ nổi tiếng viết về nông thôn của văn học dân tộc, một nông thôn Việt Nam với đầy đủ những âm thanh và màu sắc đặc trưng từ ngàn đời, độc đáo mà gần gũi, thân quen mà đẹp đẽ đến diệu kỳ. Trong “Thu điếu”, người ta bắt gặp một chủ đề quen thuộc vẫn thường gặp trong dân gian, trong cuộc sống bình dị của người lao động: hình ảnh ngư ông, thuyền câu, ao nước. Đó cũng là những hình ảnh rất đặc trưng của quê hương ông, vùng đồng bằng chiêm trũng Hà Nam, đặc trưng của vùng đồng bằng chiêm trũng Bắc Bộ. Trong một không gian nhỏ nhắn, bình lặng, bài thơ không gợi nhưng cũng làm hiện lên hình ảnh nhà thơ trong dáng hình của một ngư ông – một người nông dân thực thụ. Con người và thiên nhiên hài hoà trong bức tranh thu tĩnh lặng. Khí thu buồn, ấy là chất thu đặc trưng tự ngàn đời và đến nay, nó lại tiếp tục xuất hiện trong bài thơ thu của Nguyễn Khuyến nhưng để rồi buồn theo điệu buồn của riêng nó, điệu buồn của cảnh và của người ngoạn cảnh. Những âm thanh và hình ảnh vốn quen thuộc của mùa thu lại tiếp tục được miêu tả trong sự chuyển động của làn nước và đặc biệt là chiếc lá thu:

“Sóng biếc theo làn hơi gợn tí

Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo

Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt

Ngõ trúc quanh co khách vắng teo’’

Sóng cũng chỉ “Theo làn hơi gợn tí” bởi có lẽ vì gió rất nhẹ. Gió nhẹ hợp với khí thu và cũng bởi cho khỏi phá tan đi cái bầu không khí tĩnh lặng vốn đang có từ ngàn đời kia. Và trong khung cảnh dường như tĩnh đến tuyệt đối ấy xuất hiện một hình ảnh rất động, dù chỉ là thoáng diễn ra rất nhanh: “Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo”. Thi sĩ Xuân Diệu đã từng viết: “Cái thú vị của bài Thu điếu ở các điệu xanh, xanh ao, xanh bờ, xanh sóng, xanh tre, xanh trời, xanh bèo, có một màu xanh vàng đâm ngang của chiếc lá thu rơi…”. “Diệp lạc tri thu”. Xưa nay, nhìn chiếc lá vàng rơi người ta biết mùa thu đang về. Mùa thu của Nguyễn Khuyến cũng vậy. Ông cảm nhận mùa thu qua cái lạnh và tĩnh của làn nước mùa thu, của làn gió thu se lạnh và ông cũng không quên đưa vào đó một chiếc lá thu “khẽ đưa vèo”. Đó là một khoảnh khắc diễn ra rất nhanh mà dường như người ta không chỉ nhìn thấy bằng mắt thường mà còn phải bằng một tâm hồn nhạy cảm nắm bắt lấy cái hồn của tạo vật.

Bầu trời mùa thu cũng là hình ảnh rất hay được đưa vào trong thơ Nguyễn Khuyến. Ta đã bắt gặp hình ảnh “Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao” trong “Thu vịnh”, và “Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt” trong cặp mắt của nhân vật trữ tình trong “Thu ẩm” và ở đây là “Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt”. Cũng giống như chiếc lá vàng, bầu trời thu cũng trở thành một nét đặc trưng cho mùa thu Việt Nam xứ Bắc. Bầu trời mùa thu dường như được đẩy lên, cao hơn, trong hơn nhưng cũng vì thế mà sáng và nhẹ nhàng hơn. Khí thu lạnh, bầu trời thu buồn không làm mất đi vẻ đẹp của cảnh vật cũng như không làm mất đi vẻ đẹp của bầu trời mùa thu. Nó không gay gắt như mùa hè, không u ám như mùa đông, mà với những áng mây trôi lơ lửng dường như bầu không khí mùa thu còn khiến bầu trời trở nên cao hơn, trong hơn và xanh hơn nữa. Đặt trong khung cảnh như vậy, con đường làng vốn đã vắng vẻ nay lại càng trở nên vắng vẻ, quạnh quẽ hơn. Không có chút bóng dáng của con người. Chỉ có hình ảnh ngư ông được hiện lên từ trong câu chữ khiến cho “Thu điếu” gần như trở thành một bài thơ dành trọn vẹn cho bức tranh mùa thu. Nhà thơ vào vai một ngư ông nhưng rồi một cách không cố ý lại biến mình thành người ngoạn cảnh, để rồi, thu vào tầm mắt tất cả hồn cốt của mùa thu Bắc Bộ. Người say sưa ngoạn cảnh bởi có tình yêu đối với thiên nhiên, đất nước sâu sắc, bởi mùa thu xứ Bắc đẹp, thanh bình và thu hút lòng người và cũng bởi người ngoạn cảnh trong lòng đang có nhiều tâm trạng, hoà mình với thiên nhiên, đó cũng là bởi, người đi câu cá nhưng lại là “đi câu” sự thanh thản trong tâm hồn. Bài thơ mang tựa đề “Thu điếu” [Câu cá mùa thu] nhưng mãi đến cuối bài thơ mới xuât hiện người đi câu:

“Tựa gối buông cần lâu chẳng được

Cá dâu đớp động dưới chân bèo”

Hình ảnh con người ở trong tư thế bất động, như chạm khắc vào thiên nhiên, hài hoà với thiên nhiên thành một khối thống nhất, tĩnh lặng. Người đi câu chăm chú với suy tư của mình đến mức dường như quên mất rằng mình đang đi câu. Chỉ đến khi tiếng “cá đâu đớp động dưới chân bèo” mới khiến cho ngư ông chợt tỉnh, kéo ông trở về với hiện thực. Chỉ là một tiếng cá đớp động dưới chân bèo nhưng lại đủ sức kéo con người trở lại với hiện thực chứng tỏ bức tranh thu đó phải tĩnh lặng lắm và con người lòng cũng đang rất nhiều tâm sự. Đó là tâm sự thầm kín của một người luôn nặng trĩu suy tư về quê hương, đất nước, về trách nhiệm của bản thân đối với quê hương đất nước mình. Người đã nén cả một nhân cách lớn, một hồn thơ lớn một nỗi đau lớn vào tiếng cuốc nhớ nước thảm thiết làm chảy máu cả tâm can người đọc hôm nay.

“Có phải tiếc xuân mà đứng gọi

Hay là nhớ nước vẫn nằm mơ”.

“Câu cá mùa thu” là một bài thơ tả cảnh ngụ tình đặc sắc của Nguyễn Khuyến. Cảnh sắc mùa thu quê hương được miêu tả bằng những gam màu đậm nhạt, những nét vẽ xa gần, tinh tế gợi cảm. Bài thơ dựng lên bức tranh thiên nhiên đặc trưng của vùng đồng bằng Bắc bộ với rất nhiều nét thanh bình, những ấn tượng về một mùa thu đẹp và buồn. Nguyễn Khuyến đã rất tài tình trong việc vận dụng từ ngữ “lạnh, lẽo, trong veo, bé tẻo teo” gợi tả đường nét, dáng hình, màu sắc của cảnh vật, sắc nước mùa thu; âm vang lời thơ như tiếng thu, hồn thu vọng về. Âm thanh của tiếng lá rơi đưa “vèo” trong làn gió thu, tiếng cá “đớp động” chân bèo – đó là tiếng thu dân dã quen thuộc của đồng quê đã khơi gợi trong lòng chúng ta bao hoài niệm đẹp về quê hương đất nước. Những hình ngôn từ đầy sức gợi đó không chỉ chứng minh cho tài năng nghệ thuật của Nguyễn Khuyến mà còn góp phần làm nên một bức tranh mùa thu viết về làng cảnh Việt Nam rất riêng, thật buồn và cũng thật đẹp.

Nguyễn Khuyến yêu thiên nhiên mùa thu, yêu cảnh sắc đồng quê với tất cả tình quê nồng hậu. ông là nhà thơ của làng cảnh Việt Nam. Đọc “Thu điếu”, “Thu ẩm”, “Thu vịnh”, chúng ta yêu thêm mùa thu quê hương, yêu thêm xóm thôn đồng nội, đát nước. Với Nguyễn Khuyến, tả mùa thu, yêu mùa thu đẹp cũng là yêu quê hương đất nước. Nguyễn Khuyến là nhà thơ kiệt xuất đã chiếm một địa vị vẻ vang trong nền thơ ca cổ điển Việt Nam.

Bài phân tích 31

Mùa thu là mùa của lá vàng rơi, là mùa dễ khiến con người ta xao động. Nhất là đối với tâm hồn tinh tế và nhạy cảm như nhà thơ Nguyễn Khuyến, mùa thu lại càng trở nên xuyến xao hơn. Ông từng viết cả chùm thơ về mùa thu: Thu điếu, Thu ẩm, Thu vịnh. Mỗi bài đều mang những tâm tư, tình cảm rất riêng của thi nhân. Trong đó, Thu điếu thể hiện tình yêu chân thành và đơn sơ, giản dị của tác giả qua vẻ đẹp mùa thu ở làng quê Việt Nam.

Nguyễn Khuyến đã thả hồn mình vào thiên nhiên, vào cảnh thu:

Ao thu lạnh lẽo nước trong veo

Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo

Sóng biếc theo làn hơi gợn tí

Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo.

Có thể thấy cảnh sắc mùa thu ở đây rất êm đềm, nhẹ nhàng và tĩnh lặng. Mọi thứ đều đang nằm trong tầm ngắm của nhà thơ. Vì thế, mỗi câu thơ đều ôm trọn cảnh thu. Nhưng tiếc rằng mùa thu không rực rỡ, không sôi động như mùa hè, cũng không mơn mởn những chồi non như mùa xuân. Mùa thu lạnh lẽo nước trong veo, Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo. Sóng cũng chỉ lặng thầm theo làn hơi gợn tí. Tất cả đều rất uyển chuyển nhưng lại gợi nỗi buồn xa xăm. Phải chăng trong cảnh thu ấy còn chất chứa nỗi niềm của thi nhân? Nguyễn Khuyến là người có tài năng, có cốt cách thanh cao, có tấm lòng yêu nước thương dần, từng bày tỏ thái độ kiên quyết không hợp tác với chính quyền thực dân. Thơ ông phản ánh cuộc sống của những con người khổ cực, thuần hậu, chất phác; châm biếm, đả kích thực dân xâm lược, tầng lớp thống trị, đồng thời bộc lộ tấm lòng ưu ái đối với dân, với nước. Bởi thế, mùa thu trong Thu điếu chính là những nỗi niềm riêng tư của nhà thơ đối với tình cảnh xã hội đương thời. Ông không chọn mùa xuân với những hoa mai hoa đào rực rỡ cho vần thơ thêm nhạc điệu, thêm vui tươi. Ông cũng không chọn cái nắng hè chói chang gay gắt trên những chùm hoa gạo của mùa hạ để đưa vào thi ca. Ông hòa mình vào ao thu, vào những chiếc Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo. Lá vàng là hình ảnh úa tàn và đặc trưng của mùa thu. Lá vàng cũng thường gợi đến một khung cảnh buồn bã, có chút tiếc nuối bâng khuâng.

Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt

Ngõ trúc quanh co khách vắng teo

Tựa gối buông cần lâu chẳng được

Cá đâu đớp động dưới chân bèo.

Lại thêm một màu xanh nữa ngập tràn trong trang thơ của thi nhân. Trời mây xanh ngắt với những tầng mây lửng lơ trôi mang theo những nỗi niềm khó nói thành lời của lòng người đang băn khoăn nghĩ suy về thời thế. Ông ngước lên cao, rồi lại cúi xuống nhìn Ngõ trúc quanh co khách vắng teo. Mùa thu vắng lặng, thôn quê lại càng vắng lặng hơn. Đã thế, cách gieo vần “eo” của tác giả lại càng làm cho không gian dần thu hẹp lại.

Trong khung cảnh ấy, thi nhân đóng vai là một lão nông đang tựa gối buông cần nhưng lâu chẳng được. Và ông nhận ra rằng Cá đâu đớp động dưới chân bèo. Âm thanh duy nhất trong toàn bộ bải thơ vang lên, tưởng chừng như âm thanh ấy sẽ phá vỡ sự im lặng của không gian, nhưng chính nó lại nhấn mạnh thêm sự im lìm của cảnh vật. Tác giả lấy tĩnh tả động và ông đã thành công khi rót sự im lặng vào lòng người bằng một âm thanh rất nhỏ.

Nhưng ý nghĩa sâu xa đằng sau tiếng cá đớp động dưới chân bèo là những tâm sự thầm kín của nhà thơ. Ông đã dành cả đời mình cống hiến cho triều đình, cho đất nước, cả đời đi theo tiếng gọi của chân lý, chưa một lần làm điều mờ ám hay bị dính án quan liêu. Bởi thế, tâm hồn Nguyễn Khuyến cũng trong veo như nước trong ao thu, và cũng tĩnh lặng như mọi cảnh vật thiên nhiên ông đang ngắm nhìn.

Tác giả câu cá nhưng thực chất tâm trí lại không hề để ý tới cần câu, đó chỉ là cái cớ để ông nghĩ suy tới thời thế và đất nước. Trong lúc triều đình còn nhiều tham quan, ông không thể nào một mình đứng ra để loại trừ được hết những vấn nạn đó được. Vì thế, mùa thu của Nguyễn Khuyến đã diễn ra theo chiều sâu tâm lý phảng phất buồn, theo những nỗi niềm lo âu thầm kín. Điều đó đã thể hiện tấm lòng yêu nước sâu sắc của thi nhân. Ông muốn cống hiến hết mình cho nhân dân, cho đất nước.

Toàn bộ bài thơ miêu tả cảnh thu nhưng những từ ngữ, những hình ảnh trong đó lại ẩn chứa tâm tình của tác giả. Ông lấy tĩnh tả động, lấy cảnh tả tình. Dù không một lời trực tiếp nói lên nỗi lòng mình nhưng người đọc vẫn thấu hiểu tình cảm của thi nhân. Bài thơ đã mang đến cho nền văn học nước nhà một mùa thu rất mới, mua thu theo cách riêng của Nguyễn Khuyến.

Bài phân tích 32

Mùa thu đã đi vào rất nhiều những vần thơ và bức vẽ tuyệt đẹp của người nghệ sĩ. Mùa thu với một chút nhẹ nhàng, thơ mộng và đầy quyến rũ. Những nét đẹp của sắc thu có lẽ vì thế mà dễ thâm nhập vào tâm hồn con người và gợi lên những cảm xúc chân thật nhất. Nhà thơ Nguyễn Khuyến cũng đã gói mùa thu vào vào những sáng tác của mình mà tiêu biểu là chùm thơ thu nổi tiếng với ba bài: Thu điếu, Thu vịnh, Thu ẩm. Mỗi bài đều có cái hay, cái đẹp riêng nhưng bài “Câu cá mùa thu” [Thu điếu] có một sức hút mãnh liệt như Xuân Diệu đã từng khẳng định “Điển hình hơn cả cho mùa thu của làng cảnh Việt Nam”. “Thu điếu” không chỉ gợi lên vẻ đẹp nhẹ nhàng của mùa thu mà từng câu từng chữ của bài thơ còn là lòng yêu quê hương, đất nước thiết tha.

“Câu cá mùa thu” là một trong những sáng tác nổi tiếng nằm trong chùm thơ thu của Nguyễn Khuyến, cùng với Thu ẩm, Thu vịnh tạo thnahf bộ ba để đời của nhà thơ. Sáng tác này được ông viết khi đã rời khỏi chốn quan trường về que eowr ẩn. Chính tình yêu quê hương và thiên nhiên sâu đậm đã giúp ông viết lên được những vần thơ tuyệt đẹp đến vậy.

Bằng thể thơ Thất ngôn bát cú cùng với ngôn ngữ bình dị nhưng tinh tế, Nguyễn Khuyến đã vẽ nên mọt bức tranh thu với những vẻ đẹp tuyệt vời của đất trời. Mở đầu bài thơ mở ra một không gian mênh mông, xanh thẳm.

Ao thu lạnh lẽo nước trong veo

Mùa thu, mặt nước dềnh dàng, bình lặng. Nó không còn dữ dội và xối xả với những cơn mưa rào mùa hạ. Những ao, những hồ tràn đầy nước. Chính vì sự yên bình của con nước mà mặt hồ như trong hơn. Người ta có thể nhìn thấy vào trong lòng nước, xuống tận  đáy hồ và cam rnhaanj màu xanh mát của những đám rêu đang đeo bám. Có lẽ, tác giả viết bài thơ này khi đã sang nửa sau của mùa thu. Những cơn gió heo may tràn về, đem theo cái không khí se lạnh đặc trưng của cuối thu. Giữa làn nước mênh mông ấy, những cơn gió thổi qua càng làm ta thêm phần lạnh lẽo. Mọi thứ cứ nhẹ nhàng, yên ả trên mặt hồ lan tăn gợn sóng. Và cái không gian yên ắng ấy càng làm nổi bật lên một sự chuyển đọng dù chỉ là rất nhỏ.

Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo

Giữa mặt hồ mênh mông ấy xuất hiện một sự sống của con người. Thế nhưng, chính vì sự rộng lớn của thiên nhiên mà chiếc thuyền câu càng trở nên nhỏ bé. Nhà thơ dùng số từ “một” để chỉ cái ít, cái đơn chiếc, đã vậy lại còn thêm cụm từ “bé tẻo teo” như để nhấn mạnh lên sự cô đơn, hiu quạnh. Dường như, trên chiếc thuyền ấy, nhà thơ đang một mình bên cạnh cần câu. Mình ông đơn độc giữa mặt hồ rọng lớn. Ông đắm chìm vào thiên nhiên để tận hưởng trọn vẹn vẻ đẹp vô tận của thiên nhiên. Chỉ với hai câu thơ, với những nét vẽ đơn giản cũng đủ để người đọc hiểu được phần nào tâm tư của người thi sĩ trước vẻ đẹp của mùa thu, của đất trời.

Sóng biếc theo làn hơi gợn tí

Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo

Ở đây, đã bắt đầu có sự chuyển động. Những cơn gió kéo đến làm mặt nước lăn tăn, tí tách theo ánh nắng mặt trời trông thật thích mắt. Gió  không quá mạnh, không quá to những cũng đủ để làn nước bình yên kia khẽ đưa mình đung đưa. Trên những vòm cây bên bờ, lá đã vàng, vàng theo sắc màu mơ mộng của mùa thu. Cơn gió đến, lá cũng hòa mình đi theo. Một chiếc lá rơi xuống, nhỏ bé nhưng sao lại gây chú ý đến như vậy. Có lẽ, vì không gian yên ắng và thanh bình quá nên chỉ một âm thanh nhỏ cũng đủ để ai cũng phải ngước nhìn. Chữ “vèo” được nhà thơ sử dụng thật đắt giá. Nó nhanh, mạnh và dứt khoát.

Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt

Ngõ trúc quanh co khách vắng teo

Cảnh sắc mùa thu đã được lan tỏa ra rộng hơn, cao hơn và xanh thẳm hơn. Bầu trời trong xanh với những đám mênh trắng bồng bềnh đang lặng lẽ nhích từng bước chân. Sắc xanh của mặt nước trong veo, của bầu trời xanh ngắt cùng màu vàng ươm thơ mộng của những chiếc lá đã tạo nên một bức tranh thu tuyệt đẹp. Thế nhưng, giữa vẻ đẹp vô tận của thiên nhiên, khong gian vẫn yên ắng quá. Con người chẳng thấy đâu, vắng teo, hịu quạnh. Một không khí sao bình yên đến lạ thường.

Tựa gối ôm cần lâu chẳng được

Cá đâu đớp động dưới chân bèo

Người thi sĩ “tựa gối ôm cần” trong phong thái ung dung, tự tại. Ông đã hòa mình vào với thiên nhiên bằng tất cả những cảm giác bình yên và hạnh phúc. Dường như, chiếc thuyền câu ấy ra hồ không phải vì mục đích câu được nhiều cá mà chỉ là đi ngắm nhìn núi sông, cây cỏ. Người đâu quan tâm đến việc cá có ăn mồi và cắn câu hay không. Ông mãi đắm chìm vào thiên nhiên, mải thả hồn để quên đi những muộn phiền của cuộc sống để rồi bất chợt nhớ đến chiếc cần câu, âm thanh nhỏ bé của cá cũng làm ông giật mình và bừng tỉnh.

Như vậy với ngôn ngữ thơ mộc mạc, gần gũi, Nguyễn Khuyến đã vẽ ra trước mắt người đọc một bức tranh yên bình, mơ mộng trong một buổi chiều câu cá mùa thu. Qua đó, gợi lên tâm thế nhàn nhã và tình yêu thiên nhiên, đất nước sâu đậm của một vị quan lỗi lạc nhưng không gặp thời.

Bài phân tích 33

Làng cảnh Việt Nam lúc đất trời vào thu đẹp một vẻ đẹp thanh sơ, bình dị mà thật nên thơ, nhưng không mấy ai đưa được vẻ đẹp ấy vào thơ một cách thân tình như Nguyễn Khuyến. Cũng chẳng mấy ai nói được tình cảm bình dị mà lắng sâu của con người Việt Nam với làng xóm quê hương như ông. Nhắc đến Nguyễn Khuyến, người yêu thơ không quên được chùm thơ của ông viết về mùa thu như một chùm hoa đẹp có hương sắc lâu bền, trong đó bài Câu cá mùa thu được coi là một trong những bài thơ hay nhất của Nguyễn Khuyến. Bài thơ có sự hòa hợp giữa cảnh thiên nhiên thanh sơ của nông thôn êm đềm, vắng lặng vào tiết thu với tâm trạng thời thế kín đáo của thi sĩ

Nhan đề bài thơ là Câu cá mùa thu nhưng mục đích không ở việc kiếm cá ăn; câu cá chỉ là cái cớ để tiêu sầu và cảm nhận hương sắc mùa thu. Còn gì thú vị hơn được ngồi câu cá giữa một vùng phong cảnh quen thuộc của quê hương mình, để hồn thu thấm vào hồn người. Lúc Nguyên Khuyến viết bài thơ này, gót giày quân xâm lược Pháp đã đặt lên nhiều nơi trên đất nước, xã hội thuộc địa đã được lập nên ở vài đô thị. Nhưng làng quê Việt Nam, làng quê nghìn đời của Nguyễn Khuyến vẫn giữ được vẻ đẹp thanh sạch, giản dị, duyên dáng như cô gái chân quê xứ Bắc với “ cái áo tứ thân, cái khăn mỏ quạ, cái quần nái đen”. Nguyễn Khuyến đi câu cá là để tắm mình trong không khí nguyên sơ ấy của mùa thu quê hương cho khuây khỏa nỗi thương đau trong lòng.

“Ao thu lạnh lẽo nước trong veo

Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo”

Bài thơ mở ra thời gian và không gian nghệ thuật đầy thi vị, đầy ắp không khí làng cảnh vùng đồng bằng Bắc Bộ. Vì đi câu cá nên điểm xuất phát của cảm hứng là chiếc “ao thu”. Ao là một hình ảnh thân quen, thân mật, bình dị ở làng quê xứ Bắc. Nguyễn Khuyến chọn ao thu để khơi nguồn thi hứng, vì đó là điệu tâm hồn ông: thân mật, chân thành, bình dị, vô cùng gắn bó với làng quê. Chiếc ao thu trong tấm lòng yêu thương và rung cảm thẩm mĩ của Nguyễn Khuyến đẹp và gợi cảm hứng như một tác phẩm mĩ thuật. Chiếc ao thu ấy “ lạnh lẽo” một cách đầy chất thơ. Gió thu đã mang theo heo may về và ban phát cho vạn vật của mùa thu để cho nó đáng yêu hơn.

Từ cái nóng oi khó chịu của mùa hè chuyển sang cái se lạnh của heo may mới thật là thi vị. Đã vắng những cơn mưa rào xối xả của mùa hạ, nước trong ao thu thấm cái lạnh lẽo của heo may mà lắng trong đến độ như được chọn lọc, trong vắt “ trong veo” đến tận đáy. Bên trong cái tiếng “ trong veo” đặt ở cuối câu thơ như có niềm rung cảm thích thú. Trời hôm ấy lặng gió và rất nhiều nắng, rất sáng, nước trong ao mới có độ “ trong veo” như thế. Mới chỉ nói nước thu [thu thủy] mà ta đã thấy trời thu, nắng thu, gió thu. Độ hàm súc, sự tinh tế trong cách dùng từ của Nguyễn Khuyến cũng thật đáng nể. Trước mắt người đọc là một khoảng không gian mùa thu trong sáng và tĩnh lặng vô cùng.

Hiện lên trên khuôn “ ao thu”, giữa không khí thu “ lạnh lẽo” ấy là “ Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo”. Người đi câu không ngồi trên bờ mà ngồi trên chiếc thuyền câu để buông câu chính là để mở góc nhìn không gian thu cho rộng ra. Ao thu chắc không thể to lắm, cho nên chiếc thuyền câu cũng phải “ bé tẻo teo”. Đó chính là chiếc thuyền thúng quen thuộc ở vùng quê Bình Lục, chiếc thuyền chỉ vừa đủ cho một người ngồi, vừa đủ để gọi là “ thuyền”, nhỏ hơn chút nữa thì thành cái thúng! Cách đây non một thế lỉ người ta thấy rất nhiều chiếc thuyền thúng như thế len lỏi giữa xóm làng của Hà Nam, nước lụt mênh mang “ Bóng thuyền thấp thoáng vừa trên vách – Tiếng sóng long lanh vỗ trước nhà” [ Nguyễn Khuyến, Vịnh lụt].

Ngồi trên chiếc thuyền giữa ao thu nên nhiều vẻ đep của mùa thu dễ đến trong tầm nhìn của thi sĩ.

“Sóng biếc theo làn hơi gợn tí,

Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo”

Hai câu thực là cảnh trong tầm nhìn gần [ cận cảnh]. Trong ao nhỏ có sóng, có gió nhưng rất nhỏ, rất nhẹ và và rất đẹp. “Sóng biếc” nghĩa là “sóng xanh”; sóng theo gió nhẹ chỉ “ hơi gợn” trên mặt ao thành hình, “lá vàng” cũng theo gió “ khẽ đưa” thành tiếng. Cả hình và tiếng đều cực nhỏ. Cuối hai câu thơ, nổi lên hai từ đối nhau: “ tí”, “ vèo”- một từ nói lên cái cực nhỏ của hình khối, một từ diễn tả sự cực nhỏ của âm thanh, người đọc còn nhận dạng được chiếc lá với hình dài thon nhọn, nhẹ và nhỏ: chiếc lá tre, lá trúc đang xoay xoay mà liệng xuống. Không gian động mà tĩnh, hữu thanh mà vô thanh. Những làn sóng hơi gợn, âm thanh mơ hồ của chiếc lá vàng “khẽ đưa vèo” như xao động trong cõi lòng cũng tĩnh lặng như làng quê, mùa thu của thi sĩ.

“Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt

Ngõ trúc quanh co khách vắng teo”

Không gian nghệ thuật đột ngột mở lên chiều cao và mở ra hướng trước mặt. Trên cao là trời thu cao xanh, trước mặt là đường làng ngõ xóm mùa thu quanh co, vắng vẻ. Trong cảm nhận của Nguyễn Khuyến, da trời mùa thu có màu “ xanh ngắt” rất khơi gợi, cái màu xanh liền một khối tinh khiết, thăm thẳm, khiến cho những ai ngẩng mặt lên ngắm trời thu đềucó cảm giác mông lung, huyền ảo, vời vợi. Nhờ có “ tầng mây lơ lửng” bên dưới mà nhận ra “ trời xanh ngắt” bên trên. Đó là một nét quen thuộc thi pháp cổ điển: lấy điểm tả diện.

Đang vào vụ thu, người ra đồng làm lụng nên đường làng ngõ xóm vắng lặng. Thảng hoặc có người thì cũng bị cái quanh co của ngõ trúc che khuất. Thành thử không gian vắng lặng đên tuyệt đối: “vắng teo”!

Ở hai cặp câu thực và luận có đủ sóng gió, trời, mây, có màu sắc, âm thanh, hình ảnh, có chuyển động, …Nhưng mỗi từ ngữ trong bốn dòng thơ ấy đều gợi cho ta phải đọc bằng giọng êm dịu, nhẹ nhẹ. Âm hưởng bốn dòng thơ nhẹ êm như hơi thở.

Tựa gối ôm cần lâu chẳng được

Cá dâu đớp động dưới chân bèo

Đến đây chủ thể trữ tình mới xuất hiện, xuất hiện trong tư thế ngồi bất động “ tựa gối ôm cần” – tư thế co lại, như thu nhỏ mình lại để giảm bớt diện tích tỏa nhiệt tránh cái” lạnh lẽo” giữa ao thu. Ngồi như thế cũng là để ngồi cho lâu, cho khỏi phải thay đổi tư thế làm mất đi cái tĩnh lặng trong cõi lòng đang mải suy tư và khỏi đứt đi “dây tơ” vô hình đang giăng mắc trong không gian mùa thu làng quê êm đềm, bởi vì “ Không gian như có dây tơ – Bước đi sẽ dứt, động hờ sẽ tiêu” [ Xuân Diệu].

Nguyễn Khuyến muốn ngồi trong tĩnh lặng mà trầm tư mặc tưởng, gắn cái cô đơn trống trải của lòng mình vào cái cô tịch, trong trẻo của mùa thu làng quê. Thực ra khi lấy cớ đau mắt nặng để cáo quan về hưu ẩn dật, Nguyễn Khuyến đã mang nặng mặc cảm bất lực trước thời cuộc. Trong bài thơ Di chúc, ông có những câu thơ đau đáu đến từng chữ.

Ơn vua chưa chút báo đền

Cúi trông hổ đất, ngửa lên thẹn trời.

Cho nên, thấm đẫm trong Thu điếu là tâm sự rối bời trước thời thế của ông, ôm cần buông câu để tiêu sầu mà mối sầu càng đọng lại trong tư thế bất động, thấy chiếc “ lá vàng trước gió khẽ đưa vèo” mà thảng thốt thấy thời thế thay đổi quá nhanh, non sông đã rơi vào tay giặc mà mình chẳng thể làm gì để báo đền ơn vua, nợ nước.

Bài thơ kết lại trong cái thảng thốt khi trong im lặng bỗng có tiếng cá “ đớp động dưới chân bèo”. Chữ “đâu” được dùng thật thần tình, nó như cái giật mình thảng thốt, lại như cái ngơ ngác kiếm tìm của người mất phương hướng. Ba phụ âm đầu hữu thanh trong ba từ “ đâu đớp động” làm rung động câu thơ, rung động cả tâm hồn người đang mải suy tư. Dù chỉ là rung động mơ hồ [có mà như không] cũng đủ làm cho không gian mùa thu lắng lại tĩnh vô cùng. Đó cũng là một nét thi pháp quen thuộc của thi pháp: lấy động tả tĩnh.

Tiếng Việt trong Câu cá mùa thu ở độ kết tinh, giản dị, trong sáng, tinh tế,uyển chuyển, có khả năng diễn tả những biến thái tinh vi của sự vật, nững uẩn khúc rất khó giãi bày tâm trạng. Vần “eo” là “ tử vận”, oái oăm không dễ theo, đã được Nguyễn Khuyến dùng một cách thần tình để diễn đạt uẩn khúc của tâm tư.

“Câu cá mùa thu” mang đến vẻ đẹp giản dị, thanh sơ của mùa thu làng quê Việt Nam; vẻ đẹp của tâm hồn Nguyễn Khuyến: trong sáng, bình dị, tinh tế và chân thành, rất gắn bó với những gì thuộc về quê hương và dân tộc…Đó là những gì đã làm cho bài thơ Câu cá mùa thu sống mãi trong lòng các thế hệ bạn đọc.

Bài phân tích 34

Trong văn học Việt Nam mùa thu luôn là đề tài hấp dẫn những nhà văn nhà thơ. Đặc biệt trong đó có nhà thơ Nguyễn Khuyến, trong vô số những tác phẩm của ông không thể không nhắc tới bài thơ Câu Cá Mùa Thu. Ở ngay nhan đề của bài thơ và xuất hiện ngay nội dung chính nhưng nội dung chính lại không lấy việc câu cá làm mục đích chính mà đó chỉ là cái cớ để tác giả tô đậm thêm mùa thu mà thôi. Nguyễn Khuyến đã sử dụng hết những giác quan của mình để cảm nhận mùa thu của đất Bắc.

Mở đầu bài thơ theo thơ được tác giả đã nêu lên không gian của bài thơ đó chính là “ao thu”.

“Ao thu lạnh lẽo nước trong veo,

Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo”

Tác giả đã đánh dấu một khoảng thời gian đó chính là mùa thu trên cái ao nhỏ ở một vùng quê nào đó. Tiếp đến ông lại cảm nhận  được tính chất: “lạnh lẽo”, “nước trong veo”. Mùa thu lúc nào cũng mang lại cho con người ta cảm thấy hơi se lạnh nhưng lại có cảm giác vô cùng dễ chịu hơn so với mùa hè nóng nực kéo dài. Cái lạnh của mùa thu dễ khiến lòng người trào dâng đến cảm xúc nồng nàn và chính tác giả đã nhận ra. Vả lại ngoài cái lạnh còn có một đặc điểm là mặt nước trong hơn những mùa khác. Mùa thu trên mặt ao yên ả khiến tác giả cảm thấy nước trong hồ trở nên trong veo hơn nhưng một chiếc gương. Trên mặt nước ấy xuất hiện một “chiếc thuyền bé tẻo teo”. Tác giả đã sử dụng từ ngữ vô cùng khéo léo để cho người đọc cảm nhận được sự nhỏ bé của chiếc thuyền “bé tẻo teo”. Âm “eo” là từ vô cùng khó để gieo vần nhưng tác giả và khiến cho ta cảm thấy đoạn thơ vô cùng cho trôi chảy tự nhiên. Nước ta có vô vàn những dòng sông lớn, hồ lớn như Hồ Tây, hồ Gươm, sông Hồng… mà các nhà thơ xưa vẫn luôn lấy làm đề tài để sáng tác. Vậy mà Nguyễn Khuyến lại chọn một cái ao nhỏ không tên ở một vùng quê nhỏ hẻo lánh. Nhưng chính vì thế lại khiến cho ta cảm thấy có cái gì đó thân quen gần gũi bình dị. Phải chăng đó chính là lý do khiến cho ông cả tâm hồn mình vào để cảm nhận ngay từ những cái tưởng chừng quá quen thuộc kia

Để vẽ nên bức tranh nông thôn nhỏ bé thân thuộc này, trên ao nhỏ có một chiếc thuyền nhỏ đã làm nên một bức tranh mang hình ảnh cân đối hài hòa. Nhà thơ lúc này đang ngồi trên một chiếc thuyền câu như thế một cái ao như thế hoặc cũng chính là nhà thơ đã vô tình nhìn thấy người câu cá. Nhưng dù là gì thì nhà thơ cũng đã nhận ra nhiều vẻ đẹp ẩn giấu của mùa thu. Không chỉ mặt nước, thuyền câu, Nguyễn Khuyến còn có những quan sát tinh tế đến những điều nhỏ bé khác:

“Sóng biếc theo làn hơi gợn tí,

Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo”

Ở hai câu tiếp theo tác giả quan sát “sóng” trên ao và xung quanh “lá vàng” đung đưa theo gió. Đây là những hình ảnh tưởng đơn giản bình thường nhưng ở cuối hai câu thơ tác giả khi cho người đọc bỗng ngỡ ra bởi hai từ đối nhau:”tí”,”vèo”. Đây là những từ vô cùng đặc biệt một từ nói lên sự cực nhỏ của hình khối, từ còn lại diễn tả cực nhỏ và nhanh của âm thanh. tác giả khiến cho người đọc cảm nhận được qua từng cấp độ”hơi gợn tí”,”khẽ đưa vèo”. Nếu ở hai câu trước tác giả nói lên những khung cảnh gần thì đến hai câu luận tác giả lại hướng ra xa hơn một chút

“Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt

Ngõ trúc quanh co khách vắng teo”

Đó là bầu trời xanh ngắt của mùa thu. Màu xanh là màu đặc trưng của mùa thu với những đám mây tầng tầng lớp lớp lơ lửng trước nền xanh của bầu trời. Để cảm nhận được hết những vẻ đẹp của nó thì phải là người có con mắt tinh tế, sự quan sát tinh tường của nhà thơ. Nguyễn Khuyến lại hướng nhìn về làng ngõ xóm vốn đã yên tĩnh vắng vẻ lại càng thấy hiu quạnh hơn khi “khách vắng teo”. Ít người đi lại mà nếu có thì cũng bởi cái ngõ quanh co không nhìn thấy bóng người.

Bức tranh mùa thu có bốn câu thơ tuy có dáng hình có màu sắc có âm thanh nhưng tất cả đều giống như một làn gió nhẹ hơi thở nhẹ của mùa thu. Đến hai câu thơ kết ta mới giải thích được vị trí của tác  giả trong khung cảnh ấy. Nếu không phải đang ngồi trên chiếc thuyền nhỏ câu cá và với tư thế ngồi đó thì làm sao tác giả có thể viết lên cảnh mùa thu sống động như vậy. Hai câu thơ cuối tác giả xuất hiện không như sáu câu thơ trên không một bóng người thì tác giả đã khiến cho người đọc vô cùng bất ngờ bởi tư thế câu cá của ông:

‎ ”Tựa gối, ôm cần lâu chẳng được

Cá đâu đớp động dưới chân bèo.”

Tư thế tựa gối khiến cho ta cảm thấy sự chờ đợi của tác giả suốt cả một thời gian dài để trầm tư, tự thưởng thức cảnh sắc chứ không phải chỉ đơn thuần là câu cá. Cứ ngỡ như tác giả đã quên mình đang câu cá để thả hồn vào thiên nhiên nhưng chính bởi: “lâu chẳng được” đã chính tỏ tác giả vẫn đang chờ đợi cá đớp mồi. Dù phải chờ đợi rất lâu nhưng tác giả không tỏ ra sốt ruột. Câu thơ cuối “Cá đâu đớp động dưới chân bèo” âm thanh cá đớp mồi khiến cho cả bài thơ khẽ rung động. Phải chăng đây chính là cái rung động mơ hồ đáng quý khiến cho tác giả chờ đợi để có thể chứng kiến giây phút hiếm hoi này.

Bức tranh mùa thu của Nguyễn Khuyến được ông miêu tả bằng những từ tinh tế và đường nét hồn nhiên hấp dẫn người đọc. Bài thơ xứng đáng là một bài thơ tiêu biểu về làng cảnh Việt Nam vì nó mang lại cho ta nhiều cảm nhận mới mẻ về quê hương bình dị nhưng thân thuộc.

Hi vọng tổng hợp các bài phân tích trên về bài thơ Câu cá mùa thu của tác giả Nguyễn Khuyến có thể đem đến cho bạn đọc nhiều góc nhìn, cũng như cảm nhận sâu sắc hơn về bài thơ. Bpackingapp.com chúc các bạn học tập thật tốt!

Video liên quan

Chủ Đề