Người soạn hịch tướng sĩ để động viên khích lệ tinh thần binh lính là ai

Trần Quốc Tuấn là danh tướng kiệt xuất của dân tộc, ông lập nhiều chiến công lớn với ba lần đánh tan quân Nguyên Mông xâm lược. Tác phẩm “Hịch tướng sĩ” được viết vào khoảng thời kì trước cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông xâm lược nước ta lần thứ 2. Lúc này quân giặc rất mạnh, muốn đánh bại chúng phải có sự nhất trí, ủng hộ của toàn dân, toàn quân. Vì vậy, Trần Quốc Tuấn đã viết bài hịch này để kêu gọi tướng sĩ hết lòng đánh giặc. Mời các bạn tham khảo một số bài soạn hay nhất nhưng mà Thư Viện Hỏi Đáp tổng hợp trong bài viết dưới đây để hiểu tác phẩm và sẵn sàng tốt nhất nội dung lên lớp.

Bài soạn “Hịch tướng sĩ” số 1

Bố cục:

Chia làm 4 phần:

– Phần 1 [ từ đầu … còn lưu tiếng tốt]: Nguyên lý đạo đức hay chính trị làm cơ sở tư tưởng.

– Phần 2 [ tiếp…ta cũng vui lòng]: Nêu thực trạng non sông đang bị giặc ngoại xâm.

– Phần 3 [Các người ở cùng ta…ko muốn vui vẻ phỏng có được ko?]: Nêu giải pháp .

– Phần 4 [còn lại] Lời hiệu dụ, kêu gọi tướng sĩ.

Câu 1 [trang 61 sgk Ngữ văn 8 tập 2]:

Bố cục của toàn văn bản Hịch tướng sĩ.

Chia là 4 phần:

+ Phần 1 [từ đầu … tới nay còn lưu tiếng tốt] Tác giả dẫn ra những gương trung thần nghĩa sĩ, bỏ mình vì nước lưu truyền trong sử sách.

+ Phần 2[ tiếp … ta cũng vui lòng] Bộc lộ sự căm thù trước sự hống hách của giặc.

+ Phần 3 [ tiếp … ko muốn vui vẻ cùng ta có được ko] Phân tích phải trái, đúng sai định hướng hàng ngũ quân sĩ.

+ Phần 4 [còn lại] Lời khích lệ, hiệu dụ tướng soái.

Câu 2 [ trang 61 sgk Ngữ văn 8 tập 2] :

Tác giả vạch ra tội ác và sự hống hách, tai ngược của giặc:

– Khuôn mặt của giặc được phơi bày bằng những việc trong thực tiễn:

+ Đi lại ngông nghênh, sỉ mắng triều đình.

+ Bắt nạt tể phụ, đòi lụa ngọc, thu vàng bạc, vét của kho.

→ Lột tả gương mặt tai ngược, thói tham lam, sự độc ác của những quân giặc, đồng thời bộc bạch sự căm thù, thái độ khinh bỉ tột bậc của tác giả.

– Sử dụng lối nói so sánh, ẩn dụ:

+ So sánh quân giặc với thân dê chó, lưỡi cú diều.

+ Hình ảnh được đặt trong thế đối sánh để tỏ rõ sự căm thù, khinh bỉ tột bậc: uốn lưỡi cũ diều- sỉ mắng triều đình, đem thân dê chó- bắt nạt tể phụ.

→ Tố cáo tội ác của giặc, tác giả đã khơi gợi lòng tự trọng, tự trọng dân tộc, khơi gợi lòng tướng sĩ thái độ căm thù trước quân địch và trách nhiệm với non sông.

Câu 3[ trang 61 sgk Ngữ Văn 8 tập 2]:

Sau lúc tố cáo tội ác của giặc, Trần Quốc Tuấn trực tiếp bộc bạch lòng yêu nước, căm thù giặc của mình.

– Nỗi đau nước mất nhà tan được diễn tả thống thiết:

+ Quên ăn, mất ngủ, lòng đau như dao cắt, nước mắt đầm đìa.

– Uất hận lên tới đỉnh điểm lúc tác giả bộc lộ thái độ căm thù, muốn xoá sổ quân địch:

+ Căm tức chưa xả thịt lột da, nuốt gan uống máu quân thù.

– Vị tướng nguyện một lòng xả thân vì sự nghiệp bảo vệ non sông:

+ Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, … ta cũng vui lòng.

→ Nổi trội hình tượng người người hùng yêu nước, khí khái, sẵn sàng xả thân vì nước. Dốc hết những lời ruột gan để lay động quân sĩ tình yêu nước, thái độ căm thù giặc.

Câu 4 [trang 61 sgk Ngữ Văn 8 tập 2]:

Trần Quốc Tuấn phê phán hành động sai trái của tướng sĩ, đồng thời khẳng định những hành động đúng nên làm là có dụng ý:

+ Trần Quốc Tuấn nghiêm khắc phê phán thái độ thờ ơ, vô trách nhiệm của tướng sĩ lúc non sông bị làm nhục.

+ Tập trung phê phán những thú vui tầm thường, hành động sai trái: thích rượu ngon, mê gái đẹp, ưa săn bắn.

+ Thức tỉnh sự tự ý thức, trách nhiệm, tự nhìn nhận

+ Chấn chỉnh suy nghĩ, hành động của tướng sĩ cho đúng mực:

– Khi phê phán hoặc khẳng định tác giả đều tập trung vào vấn đề nêu cao ý thức cảnh giác, chăm lo rèn luyện để thắng lợi quân địch xâm lược.

– Lời nói gang thép như trách mắng tướng sĩ “ko biết lo”, “ko biết thẹn”, “ko biết căm tức”.

→ Khi chỉ ra những điều sai trái nghĩa quân, tướng sĩ phạm để thức tỉnh ý thức tự trọng dân tộc, qua đó vạch ra hướng đi đúng mực, quyết tâm xoá sổ quân địch là mục tiêu cốt yếu.

Câu 5 [trang 61 sgk Ngữ văn 8 tập 2]:

– Giọng văn linh hoạt:

+ Lúc của chủ tướng nói với tướng sĩ, quân lính.

+ Lúc là người cùng tình cảnh [suy cho cùng lúc nước bị giặc xâm lược.

– Dùng giọng ân tình, thân thiện để khuyên răn thiệt hơn: “các ngươi ở cùng ta… lúc vui cười”.

– Giọng nghiêm khắc trách cứ, cảnh cáo những hành động sai trái, thái độ thờ ơ, tác trách của quân sĩ lúc non sông lâm nguy.

– Thẳng thắn đưa ra những lời lẽ gay gắt để khích tướng, thức tỉnh quân sĩ: ” ko biết lo”, ” ko biết thẹn”.

→ Dù Trần Quốc Tuấn có sử dụng giọng quan tâm khuyên răn hay giọng nghiêm nghị trách giận thì tất cả đều nhằm gợi lên ý thức, trách nhiệm của tướng sĩ với non sông, xã tắc., kêu gọi sự đồng tâm hợp lực.

Câu 6 [trang 61 sgk Ngữ văn 8 tập 2] :

Rực rỡ nghệ thuật góp phần tạo nên sức thuyết phục cho văn bản: – Thủ pháp so sánh tương phản : Làm nổi trội hình ảnh đau thương người dân mất nước >< hình ảnh tai ngược, tàn bạo của giặc Nguyên- Mông.

– Thủ pháp trùng điệp- tăng tiến được liên kết với thủ pháp so sánh- tương phản nhằm tạo giọng điệu hùng hồn, trùng điệp, khắc vào tâm trí người đọc.

– Lập luận chặt chẽ, sắc bén với lời văn gang thép.

– Sử dụng các giải pháp tu từ: so sánh, điệp từ, điệp ngữ, điệp ý…

– Linh hoạt trong cách sử dụng giọng điệu trong văn bản.

→ Nghệ thuật lập luận sắc bén, linh hoạt liên kết với các thủ pháp tiêu biểu, lời lẽ lúc tha thiết, lúc nghiêm nghị nhằm tạo ra áng văn chính luận gang thép, có sức thuyết phục cao.

Câu 7 [ trang 61 sgk Ngữ Văn 8 tập 2]:

Sơ đồ trình bày cách triển khai lập luận: khích lệ nhiều mặt để tập trung vào một hướng

Khích lệ ý thức yêu nước, ý thức chống giặc ngoại xâm

  • Khích lệ lòng căm thù chống ngoại xâm, nỗi nhục lúc mất nước
  • Khích lệ ý thức trung quân ái quốc và ý thức trách nhiệm với xã tắc.
  • Khích lệ ý chi nam nhi, lập công danh, vì non sông cũng là vì bản thân mình
  • Khích lệ lòng tự trọng dân tộc, lòng tự trọng tư nhân.

Luyện tập

Bài 1 [ trang 61 sgk Ngữ văn 8 tập 2]

Phát biểu về lòng yêu nước của Trần Quốc Tuấn được trình bày qua bài hịch.

Hịch tướng sĩ là áng văn bất hủ mọi thời đại phản ánh ý thức yêu nước nồng nàn của vị tướng tài hết lòng vì dân tộc trong cuộc kháng chiến chống ngoại xâm. Lòng căm thù giặc trình bày qua việc quên ăn, quên ngủ, “ruột đau như cắt” căm thù tội ác và sự hống hách của giặc Thanh. Nỗi đau mất nước được tác giả diễn tả thống thiết, cùng với niềm uất hận trào dâng lúc tác giả bộc lộ sự căm thù của mình với quân địch. Vị tướng đã tự xác định ý thức đấu tranh hi sinh, xả thân vì nước được khắc họa rõ nét. Những lời tâm huyết của Trần Quốc Tuấn cho thấy đây là vị tướng tài có sức lay động mạnh mẽ, truyền được lòng yêu nước nồng nàn, ý chí căm thù giặc sục sôi và một thái độ sẵn sàng hi sinh vì non sông.

Bài 2 [ trang 61 sgk Ngữ văn 8 tập 2]

Hịch tướng sĩ có lập luận chặt chẽ, sắc bén, giàu hình tượng xúc cảm , do đó có sức thuyết phục cao.

Để khích lệ ý thức yêu nước, quyết thắng lợi quân địch xâm lược được trình bày thông qua các lập luận.

– Khích lệ lòng căm thù ngoại xâm, nỗi nhục của kẻ mất nước.

– Khích lệ ý thức trung quân ái quốc, ý thức ân nghĩa thủy chung.

– Khích lệ ý chí lập công danh, vì non sông cũng là vì chính mình.

– Khích lệ ý thức trách nhiệm, lòng tự trọng trước điều hơn lẽ thiệt.

→ Những lời tâm huyết, ruột gan của vị tướng có sức lay động mạnh mẽ, truyền cho tướng sĩ, đồng thời khẳng định tình yêu nước tha thiết.

Ảnh minh họa [Nguồn internet]

Bài soạn “Hịch tướng sĩ” số 2

Trả lời câu 1 [trang 61, SGK Ngữ văn 8, tập 2]

Bố cục:

– Đoạn 1 [từ đầu tới “còn lưu tiếng tốt”]: Nêu những gương trung thần nghĩa sĩ trong sử sách để khích lệ ý chí lập công danh, xả thân vì nước.

– Đoạn 2 [từ “Huống chi” tới “cũng vui lòng”]: Tố cáo sự hống hách và tội ác của quân địch, đồng thời nói lên lòng căm thù giặc.

– Đoạn 3 [từ “Các ngươi” tới “ko muốn vui vẻ phỏng có được ko?”]: Phân tích phải trái, làm rõ đúng sai trong lối sống, trong hành động của các tướng sĩ.

– Đoạn 4 [đoạn còn lại]: Nêu nhiệm vụ cụ thể, cấp bách, khích lộ ý thức đấu tranh của tướng sĩ.

Trả lời câu 2 [trang 61, SGK Ngữ văn 8, tập 2]

Tội ác và sự tai ngược của quân địch:

– Quân thù tham lam tàn bạo

– Những hình tượng ẩn dụ “lưỡi cú diều”, “thân dê chó” để chỉ sứ Nguyên cho thấy nỗi căm giận và lòng khinh bỉ giặc của Hưng Đạo Vương.Trần Quốc Tuấn đã chỉ ra nỗi nhục lớn của mọi người lúc chủ quyền non sông bị xâm phạm.

Trả lời câu 3 [trang 61, SGK Ngữ văn 8, tập 2]

Lòng yêu nước căm thù giặc của Trần Quốc Tuấn trình bày qua:

+ Hành động: quên ăn, mất ngủ, đớn đau tới thắt tim, thắt ruột.

+ Thái độ: uất ức, căm tức lúc chưa trả thù, sẵn sàng hy sinh để rửa mối nhục cho non sông.

Trả lời câu 4 [trang 61, SGK Ngữ văn 8, tập 2]

Sau lúc nêu mới ân tình giữa chủ soái và tướng sĩ, Trần Quốc Tuấn phê phán những hành động sai của tướng sĩ, đồng thời khẳng định những hành động nên làm nhằm thức tỉnh sự tự ý thức, trách nhiệm, tự nhìn nhận lại mình để điều chỉnh suy nghĩ cũng như hành động của tướng sĩ.

Trả lời câu 5 [trang 61, SGK Ngữ văn 8, tập 2]

Giọng văn rất linh hoạt, có lúc là lời vị chủ soái nói với tướng sĩ dưới quyền, có lúc là lời người cùng ảnh, lúc là lời khuyên răn bộc bạch thiệt hơn, lúc lại là lời nghiêm khắc cảnh cáo.

Trả lời câu 6 [trang 61, SGK Ngữ văn 8, tập 2]

Rực rỡ nghệ thuật:

– Giọng văn lúc bi thiết nghẹ ngào, lúc sục sôi hùng hồn, lúc mỉa mai giễu cợt, lúc nghiêm khắc như xỉ mắng, lại có lúc ra lệnh dứt khoát.

– Kết cấu chặt chẽ, lập luận sắc bén.

– Sử dụng kiểu câu nguyên nhân – kết quả.

– Biện pháp tu từ: so sánh, điệp từ ngữ, điệp ý tăng tiến, phóng đại …

– Sử dụng những hình tượng nghệ thuật gợi cảm, dễ hiểu.

Trả lời câu 7 [trang 61, SGK Ngữ văn 8, tập 2]

Có thể thấy được cách triển khai lập luận của bài hịch qua sơ đồ kết cấu sau:

Khích lệ ý thức yêu nước, ý thức chống giặc ngoại xâm

  • Khích lệ lòng căm thù chống ngoại xâm, nỗi nhục lúc mất nước
  • Khích lệ ý thức trung quân ái quốc và ý thức trách nhiệm với xã tắc.
  • Khích lệ ý chi nam nhi, lập công danh, vì non sông cũng là vì bản thân mình
  • Khích lệ lòng tự trọng dân tộc, lòng tự trọng tư nhân.

Luyện tập

Câu 1 [trang 61, SGK Ngữ văn 8, tập 2].

Phát biểu cảm nhận về lòng yêu nước của Trần Quốc Tuấn được trình bày qua bài hịch.

Trả lời:

Đọc bài hịch, ta có cảm tưởng như mỗi chữ, mỗi câu văn đều là những lời ruột gan của người người hùng Trần Quốc Tuấn. Sau những câu văn hùng hồn, thấm đượm là hình ảnh người người hùng yêu nước xót đau tới quặn lòng vì nước non bị quân thù giày xéo, là ngọn lửa căm thù hừng hực cháy trong tim, là sự nóng lòng rửa nhục tới quên ăn mất ngủ. Khi bộc bạch những đớn đau dằn vặt tự đáy lòng mình, chính Trần Quốc Tuấn đã nêu ra một tấm gương quật cường về lòng yêu nước để cho tướng sĩ noi theo. Và như thế cũng có tức là nó có sức động viên rất lớn đối với ý thức tướng sĩ.

Tham khảo đoạn văn:

“…Lòng yêu nước của Trần Quốc Tuấn trong Hịch tướng sĩ là nỗi lo cho dân cho nước; là tầm nhìn chiến lược để có một kế sách vẹn toàn cho cuộc khởi binh. Tình cảm thiết tha với dân với nước đó được vị tướng quân viết lên bằng cả nỗi lòng mình; viết lên từ những trằn trọc lo lắng băng qua những “bữa quên ăn”, những “đêm vỗ gối”, những lần “ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa”. Tình yêu của tác giả hiện hữu mạnh mẽ theo đúng kiểu lính nhà binh “chỉ căm tức chưa xả thịt lột da, nuốt gan uống máu quân thù”. Làm xong điều đó thì “dẫu trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa ta cũng vui lòng”.

Yêu nước với Trần Quốc Tuấn trong thời khắc đó tức là phải biết lo cho dân cho nước, phải biết xả thân, biết kết đoàn một lòng. Tất cả những điều đó phát sinh từ một động lực, một mục tiêu lớn lao: yêu nước, xoá sổ giặc thù…”

[Ngô Tuần]

Câu 2* [trang 61, SGK Ngữ văn 8, tập 2].

Chứng minh bài Hịch tướng sĩ vừa có lập luận chặt chẽ, sắc bén vừa giàu hình tượng, xúc cảm, do đó có sức thuyết phục cao.

Trả lời:

Tham khảo đoạn văn sau.

“…Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn đặc trưng sắc sảo trong lời văn và hiệu quả ở giọng điệu. Tác giả mở đầu tác phẩm ko hề rào đón nhưng mà trực tiếp nêu cao khí tiết của những người người hùng trong lịch sử. Đặt vấn đề theo cách này, Hưng Đạo Vương đã ngay ngay lập tức khơi đúng vào cái mạch truyền thống của “con nhà võ tướng” – đó là cái trình bày và sự xả thân. Lời lẽ hùng hồn khiến quân lính đều phải tự nhìn lại chính mình, xem mình đã làm được gì cho dân, cho nước. Trong trình diễn luận điểm, chúng ta dễ dàng nhận thấy, Trần Quốc Tuấn luôn gắn liền quyền lợi và nghĩa vụ của mình với dân với nước, đặt ngang hàng quyền lợi của mình với muôn nghìn tướng sĩ. Binh lính vì thế nhưng mà vừa tin tưởng, vừa nể sợ vị đại tướng quân. Và tương tự cũng có tức là tướng sĩ trên dưới một lòng.

Sự khôn khéo của Trần Quốc Tuấn trong lập luận còn nằm ở chỗ, tác giả xen kết hài hoà giữa phê phán và khích lệ, kiểm điểm với động viên. Điều cốt yếu nhất nhưng mà Đại vương đã làm được đó là khơi vào nỗi nhục của bản thân và quốc thể từ đó nhưng mà thắp lên sự căm hờn trong mỗi người: “Chẳng những gia quyến của ta bị tan nhưng mà vợ con các ngươi cũng khốn, không những tổ tông ta bị giày xéo, nhưng mà phần mộ cha mẹ các ngươi cũng bị quật lên”. Câu văn khơi gợi vô cùng bởi chẳng người nào là ko phẫn uất, ko muốn đứng lên xoá sổ những kẻ dã tâm giày xéo, giày đạp man di lên quê hương, non sông, gia đình mình.

Lời hịch của Trần Quốc Tuấn cứ thế thắt mở thu hút quân sĩ vào trận đấu. Cứ thế tạo cho họ một tâm thế, một khí thế sục sôi sẵn sàng tuân theo thượng lệnh nhưng mà ra trận. Tuy nhiên sự thuyết phục của Hịch tướng sĩ còn ở giọng điệu hùng hồn, ở những hình ảnh và những câu văn giàu xúc cảm. Thử hỏi có người nào ko thấy nhục lúc “ngó thấy sứ thần đi lại ngông nghênh ngoài đường, uốn lưỡi cú diều nhưng mà sỉ mắng triều đình, đem thân dê chó nhưng mà bắt nạt tế phụ…”. Câu văn rất giàu hình ảnh và xúc cảm. Lối ví von hình tượng dấy lên lòng tự ái, tự trọng dân tộc trong lòng mỗi con người.

Hoặc có lúc tự viết về mình, câu văn của Đại vương cũng rất giàu hình ảnh và đầy tâm tình “Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa…”. Một câu văn nhưng mà xen chồng liên tục nhiều vị ngữ. Tất cả đều vừa giàu hình ảnh lại vừa tràn trề xúc cảm. Nó hừng hực sôi trào và căm giận xiết bao. Hịch tướng sĩ còn rất nhiều câu văn giàu hình ảnh. Nó cộm lại rồi cuộn lên có lúc như dòng thác. Hơi văn như hơi thở mạnh hừng hực khí thế khiến người đọc liên tục bị cuốn theo và rồi bị thuyết phục ko biết tự lúc nào…”

[Ngô Tuần]

Tóm tắt

Hịch tướng sĩ là một áng văn chính luận xuất sắc nhằm kêu gọi, khích lệ ý thức yêu nước, lòng tự trọng, tự trọng và ý chí chống giặc ngoại xâm của các tướng sĩ. Mở đầu bài hịch, Trần Quốc Tuấn nêu những gương trung thần nghĩa sĩ trong sử sách. Tiếp theo Ngài tố cáo sự hống hách và tội ác của quân địch để khơi dậy lòng căm thù giặc của tướng sĩ. Ngài còn nói lên mối ân tình giữa chủ soái và tướng sĩ đồng thời Ngài phân tích phải trái, đúng sai, định hướng hàng ngũ quân sĩ và khẳng định những hành động nên làm.

ND chính

Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn phản ánh ý thức yêu nước nồng nàn của dân tộc ta trong trận đấu chống ngoại xâm, trình bày lòng căm thù giặc, ý chí quyết đấu, quyết thắng quân địch xâm lược.

Ảnh minh họa [Nguồn internet]

Bài soạn “Hịch tướng sĩ” số 3

A. KIẾN THỨC TRỌNG TÂM

1. Tác giả

Trần Quốc Tuấn: [1231?-1300] tước Hưng Đạo Vương là một danh tướng kiệt xuất của dân tộc.Năm 1285, 1287 quân Mông – Nguyên xâm lược nước ta ông được cử làm Tiết chế thống lĩnh các đạo quân, cả hai lần kháng chiến đều thắng lợi vẻ vang.

Sau lúc ông mất, nhân dân tôn ông là Đức thánh Trần và lập đền thờ ở nhiều nơi trên non sông.

2. Thể loại

Hịch là thể văn nghị luận thời xưa, thường được vua chúa, tướng soái hoặc thủ lĩnh một phong trào dùng để cổ động, thuyết phục hoặc kêu gọi đấu tranh chống thù trong, giặc ngoài.
Hịch có kết cấu chặt chẽ, có lĩ lẽ sắc bén, có dẫn chứng thuyết phục. Đặc điểm nổi trội đó là khích lệ tình cảm, ý thức người nghe.

Thường được viết theo kiểu văn biền ngẫu, kết cấu thay đổi linh hoạt tùy theo mục tiêu và nghệ thuật lập luận của tác giả.

3. Tác phẩm

Hịch tướng sĩ viết vào khoảng trước cuộc kháng chiến chống quân Mông – Nguyên lần thứ hai [1285]. Ở bài hịch này, tác giả ko nêu phần đặt vấn đề riêng vì toàn thể bài hịch là nêu vấn đề và khắc phục vấn đề.
Bài Hịch này được làm để khích lệ ý thức tướng sĩ học tập Binh thư yếu lược do chính Trần Quốc Tuấn soạn thảo.

B. BÀI TẬP VÀ HƯỚNG DẪN GIẢI

Câu 1: Trang 61 sgk ngữ văn 8 tập 2

Bài hịch có thể chia làm mấy đoạn? Nêu ý chính của từng đoạn.

Bài làm:Bài hịch có thể phân thành 4 đoạn:Đoạn 1 [từ đầu tới “tới nay còn lưu tiếng tốt.”]: tác giả nêu ra các gương “trung thần nghĩa sĩ, bỏ mình vì nước” đã được lưu truyền trong sử sách để khích lệ lòng người.Đoạn 2 [từ “Huống chi ta” tới “ta cũng vui lòng.”]: từ việc phơi bày gương mặt xấu xa của sứ giặc, tác giả bộc bạch lòng căm thù giặc thâm thúy.Đoạn 3 [từ “Các ngươi ở cùng ta” tới “ko muốn vui vẻ phỏng có được ko ?”]: từ khắc sâu mối gắn bó ân tình giữa chủ và tướng, tác giả phân tích rõ thiệt hơn, được mất, đúng sai để chỉnh đốn những sai lạc trong hàng ngũ tướng sĩ và đi tới việc vạch ra đường hướng hành động đúng, hứa hứa tương lai.Đoạn 4 [từ “Nay ta chọn binh pháp” tới hết]: nêu ra việc trước mắt phải làm và kết thúc bằng những lời khích lệ nghĩa khí tướng sĩ.


Câu 2: Trang 61 sgk ngữ văn 8 tập 2

Sự tai ngược và tội ác của giặc được lột tả như thế nào? Đoạn văn tố cáo tội ác giặc đã khơi gợi được điều gì ở tướng sĩ?ài làm:Sự tai ngược và tội ác của giặc được lột tả như sau:Những hành động trình bày sự tham lam tàn bạo: đòi ngọc lụa, hạch sách bạc vàng, vét kiệt của kho có hạn, hung hãn như hổ đói, tai ngược đi lại ngông nghênh ngoài đường, bắt nạt tể phụ.Những hình ảnh ẩn dụ “lưỡi cú diều”, “thân dê chó” để chỉ sứ Nguyên cho thấy nỗi căm giận và lòng khinh bỉ giặc của Hưng Đạo Vương.Đoạn văn tố cáo tội ác giặc đã khơi gợi được: lòng căm thù giặc, khích lệ ý thức yêu nước quật cường, ý thức trách nhiệm và nghĩa vụ của tướng sĩ.


Câu 3: Trang 61 sgk ngữ văn 8 tập 2

Phân tích lòng yêu nước, căm thù giặc của Trần Quốc Tuấn qua đoạn văn tác giả tự nói lên nỗi lòng mình.Bài làm:Lòng yêu nước căm thù giặc của Trần Quốc Tuấn trước hết trình bày qua những hành động và thái độ của ôngHành động: “tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa”. Đó là những hành động diễn ra thường xuyên, theo mức độ tăng tiến dần: từ ko ăn, tới ko ngủ, tới ruột đau như cắt cuối cùng là nước mắt rơi đầm đìa.Thái độ: uất ức, căm tức lúc chưa trả thù, sẵn sàng hy sinh để rửa mối nhục cho non sông. Những câu văn biền ngẫu và những động từ mạnh liên tục được sử dụng chỉ trong một đoạn văn ngắn “chưa xả được thịt lột da, nuốt gan uống máu quân thù”.

=> Những câu văn biền ngẫu, dài với những vế câu ngắn tạo thành nhịp độ lập cập, gấp gáp cũng đồng thời trình bày sự căm thù giặc tới tận xương tủy, sự phẫn uất tới nghẹn lòng và lòng yêu nước thâm thúy của vị chủ tưởng lúc chứng kiến cảnh tượng giặc ngoại xâm giày xéo lên mảnh đất ông cha, nhân dân ta chịu nhiều khổ nhục.

Đặc trưng thể giả trình bày quyết tâm của mình bằng câu văn: “Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng vui lòng”. Câu nói giống như một lời thề đầy sức mạnh của người chủ tướng. Cũng vì thế nhưng mà khơi dậy được ý chí đấu tranh của đấu sĩ dưới trướng của mình.

Câu 4: Trang 61 sgk ngữ văn 8 tập 2Sau lúc nêu mối ân tình giữa chủ soái và tướng sĩ, Trần Quốc Tuấn phê phán những hành động sai trái của tướng sĩ, đồng thời khẳng định những hành động đúng nên làm là có dụng ý gì? Khi phê phán hay khẳng định, tác giả tập trung vào vấn đề gì? Vì sao phải tương tự?Bài làm:Sau lúc nêu mối ân tình giữa chủ soái và tướng sĩ, Trần Quốc Tuấn phê phán những hành động sai trái đồng thời khẳng định những hành động đúng của tướng sĩ:

a] Những hành động sai trái

Nhìn chủ nhục nhưng mà ko biết lo, thấy nước nhục nhưng mà ko biết thẹnLàm tướng triều đình phải hầu quân giặc nhưng mà ko thấy tức, nghe nhạc thái thường để đãi yến nhưng mà ko thấy cămHoặc lấy việc chọi gà làm vui đùa, hoặc lấy việc đánh bạc làm tiêu khiển, hoặc vui thú vườn ruộng, hoặc quyến luyến vợ con,Hoặc lo làm giàu nhưng mà quên việc nước, hoặc ham săn bắn nhưng mà quên việc binhHoặc thích rượu ngon, hoặc mê tiếng hátb] Những hành động đúng nên làm Nên nhớ câu “đặt mồi lửa vào dưới đống củi” là nguy cơ, nên lấy điều “kiềng canh nóng nhưng mà thổi rau nguội” là răn sợ.Huấn luyện quân sĩ, tập luyện cung tên; làm cho người người giỏi như Bàng Mông, nhà nhà đều là Hậu Nghệ, có thể bêu được đầu Hốt Tất Liệt ở cửa khuyết, làm rữa thịt Vân Cao Vương ở Cao NhaiTác giả liệt kê những hành động sai trái của tướng sĩ là có dụng ý: phê phán và thức tỉnh sự tự ý thức, trách nhiệm, tự nhìn nhận lại mình để điều chỉnh suy nghĩ cũng như hành động của tướng sĩ.Khi phê phán hay khẳng định, tác giả tập trung vào vấn đề: đề cao ý thức cảnh giác, chăm lo rèn luyện để thắng lợi quân địch xâm lược, để lúc giặc tấn công bất thần ta cũng ko ở thế thụ động nhưng mà luôn chủ động, sẵn sàng đấu tranh trong bất kì hoàn cảnh nào.

Tác giả tập trung vào việc đề cao ý thức cảnh giác bởi vì: bài hịch này dù trực tiếp là nhằm khích lệ tiến sĩ học tập cuốn Binh thư yếu lược do chính Trần Quốc Tuấn biên soạn, nhưng mục tiêu cao nhất chính là kêu gọi ý thức yêu nước quyết đấu quyết thắng với ngoại xâm.

Câu 5: Trang 61 sgk ngữ văn 8 tập 2Giọng văn là lời vị chủ soái nói với tướng sĩ dưới quyền hay là lời người cùng tình cảnh? Là lời khuyên răn bộc bạch thiệt hơn hay là lời nghiêm khắc cảnh cáo? Cách viết của tác giả có tác động tới tướng sĩ như thế nào?Bài làm:Giọng văn được tác giả chuyển đổi rất linh hoạt, có lúc là lời vị chủ soái nói với tướng sĩ dưới quyền, có lúc là lời người cùng ảnh, lúc là lời khuyên răn bộc bạch thiệt hơn, lúc lại là lời nghiêm khắc cảnh cáo.Việc thay đổi giọng điệu một cách linh hoạt trong bài hịch của tác giả có tác động mạnh mẽ tới tới tướng sĩ:Sự thay đổi giọng điệu tương tự thích hợp với nội dung xúc cảm và thái độ của tác giả, rất thích hợp với đặc trưng của một bài hịch, một bài phủ dụ quân línhSự chuyển đổi trong giọng điệu làm cho người tướng soái ko còn đứng ở vị trí của người có quyền lực cao hơn nhưng mà dường như thấu hiểu, đặt mình ở vị trí của quân lính, nó ko còn là lời răn dạy một cách khuôn mẫu, khô khan nhưng mà trái lại giống như lời bộc bạch thân tình giữa những người bạn, người thân. Nhưng ko vì thế nhưng mà làm mất đi uy nghiêm của vị chủ tướng nhưng mà nó còn phát triển hơn vị thế của con người đó.

Không chỉ thế, nó còn tác động cả về trí lẫn tình cảm, khơi dậy trách nhiệm của mọi người đối với non sông, với vị chủ tưởng và với cả bản thân họ cũng như gia đình của họ nữa.

Câu 6: Trang 61 sgk ngữ văn 8 tập 2Hãy nêu một số rực rỡ nghệ thuật đã tạo nên sức thuyết phục người đọc bằng cả nhận thức và tình cảm ở bài Hịch tướng sĩ.Bài làm:

Những rực rỡ nghệ thuật đã tạo nên sức thuyết phục người đọc bằng cả nhận thức và tình cảm ở bài Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn:

Giọng văn chuyển đổi linh hoạt, nhiều chủng loại: lúc bi thiết nghẹ ngào, lúc sục sôi hùng hồn, lúc mỉa mai giễu cợt, lúc nghiêm khắc như xỉ mắng, lại có lúc ra lệnh dứt khoát làm cho bài hịch vừa rắn rỏi, vừa mềm mỏng, ko rơi vào tình trạng giáo điều khô giòn, cũng ko phải là sự ủy mị, lãng mạn.Kết cấu chặt chẽ, lập luận sắc bén với hệ thống luận điểm, dẫn chứng rõ ràng, đầy thuyết phục: tác giả đi từ những tấm gương trong sử sách – sự thực ko người nào có thể chối cãi-> thổ lộ tấm lòng mình -> ân nghĩa của chủ tưởng đối với đấu sĩ -> những việc làm sai trái của họ -> những việc họ nên làm -> gợi ý sách nên đọc -> kết luậnSử dụng kiểu câu nguyên nhân – kết quả phân tích được rõ thiệt hơn, tình hình thực tiễn và trong tương lai của những con người đó.Biện pháp tu từ: so sánh, điệp từ ngữ, điệp ý tăng tiến, phóng đại đặc trưng là tác giả sử dụng dày đặc các câu văn biền ngẫu sóng đôi – một đặc trưng của văn học trung đại, tạo nên nhịp độ gấp gáp, lập cập, hối thúc cho bài hịch.

Sử dụng những hình tượng nghệ thuật vừa thân thiện, thân thuộc, dễ hiểu nhưng lại vô cùng giàu sức gợi.

Câu 7: Trang 61 sgk ngữ văn 8 tập 2

Khích lệ nhiều mặt để tập trung vào một hướng, đó là cách triển khai lập luận của bài Hịch tướng sĩ. Hãy làm sáng tỏ điều này bằng một sơ đồ về kết cấu của bài hịch.

Bài làm:Khích lệ lòng căm thù giặc giặc, mối hận của kẻ bị cướp nướcKhích lệ ý thức ái nước, tình cảm của những người cùng tình cảnh.Khích lệ ý thức lập công và ý chí xả thân vì nước của quân lính.Khích lệ ý thức tư nhân trước vận mệnh của quốc gia, dân tộc.

Để cuối cùng: Khích lệ ý thức yêu nước và quyết tâm kháng thắng lợi lợi.

Luyện tập

Bài tập 1: Trang 62 sgk ngữ ngữ 8 tập 2
Phát biểu cảm nhận về lòng yêu nước của Trần Quốc Tuấn được trình bày qua bài hịch

Bài làm:
Lòng yêu nước là tình cảm thiêng liêng và vô giá của con người. Nhờ thứ tình cảm đó nhưng mà nhân dân ta đã trải qua biết bao sóng gió, thăng trầm, đã từng phải đương đầu với những quân địch mạnh nhất toàn cầu nhưng nhân dân ta chưa bao giờ nao núng. Tấm lòng yêu nước của vị chủ tướng Trần Quốc Tuấn cũng được trình bày thật cảm động qua bài Hịch tướng sĩ.

Hịch tướng sĩ được Trần Quốc Tuấn viết vào khoảng trước cuộc kháng chiến chống quân Mông – Nguyên lần thứ hai [1285]. Bài hịch là lời kêu gọi ý chí đấu tranh và sự thức tỉnh của tướng soái và đấu sĩ trước những hành động tai ngược, bạo tàn của quân địch. Qua đó cũng trình bày tình yêu nước nồng nàn và lòng căm thù giặc thâm thúy cùng ý chí đấu tranh quyết đấu, quyết thắng quân địch xâm lược của Trần Quốc Tuấn.

Lòng yêu nước của Trần Quốc Tuấn được trình bày trước hết qua lời thổ lộ tấm lòng mình với những đấu sĩ:”Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa”. Đó là những hành động diễn ra thường xuyên, theo mức độ tăng tiến dần: từ ko ăn, tới ko ngủ, tới ruột đau như cắt cuối cùng là nước mắt rơi đầm đìa. cùng với đó là một thái độ uất ức, căm tức lúc chưa trả thù, sẵn sàng hy sinh để rửa mối nhục cho non sông. Những câu văn biền ngẫu và những động từ mạnh liên tục được sử dụng chỉ trong một đoạn văn ngắn “chưa xả được thịt lột da, nuốt gan uống máu quân thù”. Những câu văn biền ngẫu, dài với những vế câu ngắn tạo thành nhịp độ lập cập, gấp gáp cũng đồng thời trình bày sự căm thù giặc tới tận xương tủy, sự phẫn uất tới nghẹn lòng và lòng yêu nước thâm thúy của vị chủ tưởng lúc chứng kiến cảnh tượng giặc ngoại xâm giày xéo lên mảnh đất ông cha, nhân dân ta chịu nhiều khổ nhục.

Đặc trưng thể giả trình bày quyết tâm của mình bằng câu văn: “Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng vui lòng”. Câu nói giống như một lời thề đầy sức mạnh của người chủ tướng. Cũng vì thế nhưng mà khơi dậy được ý chí đấu tranh của đấu sĩ dưới trướng của mình. Lời thề đó cũng trở thành kim chỉ nam cho mọi hành động của Trần Quốc Tuấn. Tất cả những gì ông làm, ông khát khao chỉ vì một mục tiêu duy nhất là non sông được tự do, độc lập, nhân dân no ấm, hạnh phúc và thừa hưởng một cuộc sống bình yên.

Không chỉ vậy, lòng yêu nước của Trần Quốc Tuấn còn được trình bày qua việc ông nhìn rõ được những việc làm sai trái của quân lính, lúc họ ngủ quên trong thắng lợi quá lâu nhưng mà lơ là mất cảnh giác và những việc họ cần làm và nên làm. Tác giả liệt kê những hành động sai trái của tướng sĩ nhằm phê phán và thức tỉnh sự tự ý thức, trách nhiệm, tự nhìn nhận lại mình để điều chỉnh suy nghĩ cũng như hành động của tướng sĩ. Khi phê phán hay khẳng định, tác giả tập trung vào việc đề cao ý thức cảnh giác, chăm lo rèn luyện để thắng lợi quân địch xâm lược, để lúc giặc tấn công bất thần ta cũng ko ở thế thụ động nhưng mà luôn chủ động, sẵn sàng đấu tranh trong bất kì hoàn cảnh nào. Tác giả tập trung vào việc đề cao ý thức cảnh giác bởi vì bài hịch này dù trực tiếp là nhằm khích lệ tiến sĩ học tập cuốn Binh thư yếu lược do chính Trần Quốc Tuấn biên soạn, nhưng mục tiêu cao nhất chính là kêu gọi ý thức yêu nước quyết đấu quyết thắng với ngoại xâm.

Như vậy, Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn ko chỉ là lời phủ dụ kêu gọi sự thức tỉnh ý thức đấu tranh của đấu sĩ, đề cao ý thức cảnh giác chứ ko được ngủ quên trong thắng lợi nhưng mà còn trình bày được tấm lòng yêu nước nồng nàn của ông.

Bài tập 2: Trang 61 sgk Ngữ Văn 8 tập 2
Chứng minh bài Hịch tướng sĩ vừa có lập luận chặt chẽ, sắc bén vừa giàu hình tượng, xúc cảm, do đó có sức thuyết phục cao.

Bài làm:
Bài Hịch tướng sĩ vừa có lập luận chặt chẽ, sắc bén vừa giàu hình tượng, xúc cảm, do đó có sức thuyết phục cao:

Lập luận chặt chẽ: Khẳng định việc làm sai trái dẫn tới hậu quả tai hại thông qua những lời phê phán mạnh mẽ đượ đưa ra mộ cách dồn dập :”“Nếu có giặc Mông Thát tràn sang thì cựa gà trông ko thề đâm thùng áo giáp giặc, mẹo cờ hạc ko thể dùng làm mưu lược nhà binh ; dẫu rằng ruộng lắm vườn nhiều, tấm thân quý nghìn vàng khôn chuộc, vả lại vợ bìu con díu, việc quân cơ trăm sự ích chi ; tiền tài tuy nhiều khôn sắm được dầu giặc, chó săn tuy khỏe ko đuổi được quân thù ; chén rượu ngon ko thể làm cho giặc say chết, tiếng hát hay ko thể làm cho giặc điếc tai. Lúc bấy giờ ta cùng các ngươi sẽ bị bắt, dau xót biết chừng nào “Lập luận giàu hình tượng, xúc cảm, có sức thuyết phục cao:Những hình tượng án dụ sinh động, gợi cảm :” uốn lưỡi cú diều, thân dê chó…”;Hình tượng so sánh, cụ thể : “người người giỏi như Bàng Mông, nhà nhà đều là Hậu Nghệ”; “có thể bêu dầu Hốt Tất Liệt ở cửa khuyết, làm rửa thịt Vân Nam Vương ở Cảo Nhai…”Những hình ảnh dễ hiểu : cựa gà trống, áo giáp, mẹo cờ bạc…

=> Bài hịch tướng sĩ được viết bằng cả tâm huyết của tác giả với xúc cảm tuôn trào, lời văn thống thiết, có sức thu hút mạnh mẽ. Chính vì thế bài Hịch trở thành một sức mạnh ý thức góp phần khích lệ ý thức chiến sĩ, đóng góp vào thắng lợi vẻ vang của dân tộc

Ảnh minh họa [Nguồn internet]

Bài soạn “Hịch tướng sĩ” số 4

I – KIẾN THỨC CƠ BẢN CẦN NẮM VỮNG

1. Trần Quốc Tuấn [1231 -1300], tước Hưng Đạo Vương, là một danh tướng kiệt xuất của dân tộc.

2. Hịch là một thể văn thư cổ nhưng mà các tướng soái, vua chúa hoặc thủ lĩnh một tổ chức, một phong trào dùng để kêu gọi động viên mọi người tích cực đấu tranh xoá sổ quân địch.

Hịch thường được viết theo lối văn tứ lục, cũng có lúc viết bằng văn xuôi hay thơ lục bát.

Một bài hịch thường được cấu trúc theo ba phần chính :

– Phần đầu : Nêu lên một nguyên lí đạo đức hay chính trị làm cơ sở tư tưởng, lí luận.

– Phần giữa : Nêu thực trạng đáng chú ý [thường là kể tội quân địch].

– Phần cuối: Nêu giải pháp và lời kêu gọi đấu tranh.

3. Hịch tướng sĩ trình bày ý thức yêu nước thâm thúy của vị tướng Trần Quốc Tuấn, cũng là của nhân dân ta. Tinh thần đó được chứng tỏ qua lòng căm thù cao độ, ý chí quyết đấu, quyết thắng quật cường trước giặc ngoại xâm.

Hịch tướng sĩ là một áng văn chính luận rực rỡ, với phong cách văn biền ngẫu có sức lay động lòng người. Với kết cấu chặt chẽ, bài hịch cho thấy sự liên kết thuần thục giữa lí lẽ với tình cảm, giữa lập luận với hình ảnh, dẫn chứng giàu sức thuyết phục.

II – HƯỚNG DẪN ĐỌC – HIỂU VĂN BẢN

Câu 1. Bố cục của toàn bài:

– Đoạn 1 [từ đầu tới “tới nay còn lưu tiếng tốt”] : Tác giả nêu ra các gương “trung thần nghĩa sĩ, bỏ mình vì nước” đã được lưu truyền trong sử sách để khích lệ lòng người.

– Đoạn 2 [từ “Huống chi ta” tới “ta cũng vui lòng”] : Từ việc phơi bày gương mặt xấu xa của sứ giặc, tác giả bộc bạch lòng căm thù giặc thâm thúy.

– Đoạn 3 [từ “Các ngươi ở cùng ta” tới “ko muốn vui vẻ phỏng có được ko ?”] : Từ khắc sâu mối gắn bó ân tình giữa chủ và tướng, tác giả phân tích rõ thiệt hơn, được mất, đúng sai để chân chỉnh những sai lạc trong hàng ngũ tướng sĩ [từ “Các ngươi” tới “muốn vui vẻ phỏng có được ko ?”] và đi tới việc vạch ra đường hướng hành động đúng, hứa hứa tương lai [từ “Nay ta bảo thật” tới “ko muốn vui vẻ phỏng có được ko ?”].

– Đoạn 4 [từ “Nay ta chọn binh pháp” tới hết] : Nêu ra việc trước mắt phải làm và kết thúc bằng những lời khích lệ nghĩa khí tướng sĩ.

Câu 2. Tác giả lột tả sự tai ngược và tội ác của giặc :

– Khuôn mặt của quân giặc được phơi bày bằng những sự việc trong thực tiễn : đi lại ngông nghênh, sỉ mắng triều đình, bắt nạt tể phụ, đòi ngọc lụa, thu vàng bạc, vét của kho có hạn…

– Để lột tả sự tai ngược và tội ác tham tàn của giặc, đồng thời bộc bạch thái độ căm thù, khinh bỉ tột bậc, tác giả đã dùng lối nói hình ảnh so sánh, ẩn dụ :

+ Hình ảnh chỉ quân giặc : lưỡi cú diều, thân dê chó, hổ đói.

+ Các hình ảnh được đặt trong thế đôi sánh để tỏ rõ thái độ căm thù, khinh bỉ : uốn lưỡi cú diều – sỉ mắng triều đình, đem thân dê chó – bắt nạt tể phụ.Tố cáo tội ác của giặc, tác giả đã khơi gợi lòng tự trọng dân tộc, khắc sâu lòng căm thù ngoại xâm ở tướng sĩ.

Câu 3. Sau lúc tố cáo tội ác của giặc, Trần Quốc Tuấn đã bộc bạch lòng yêu nước, căm thù giặc của mình. Có thể xem đây là đoạn văn hay nhất của bài hịch :

– Nỗi đau trước cảnh nước mất nhà tan được diễn tả thống thiết : quên ăn, mất ngủ, lòng đau như dao cắt, nước mắt đầm đìa. Uất hận trào dâng tới đỉnh điểm lúc tác giả bộc lộ thái độ của mình đốì với quân địch : chỉ căm tức chưa được xả thịt lột da, nuốt gan uống máu quân thù.

– Vị tướng đã tự xác định một ý thức hi sinh hết mình cho non sông : Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng vui lòng.

– Qua đoạn văn này, hình tượng người người hùng yêu nước, sẵn sàng xả thân vì non sông được khắc hoạ rõ nét. Những lời tâm huyết, ruột gan của vị tướng có sức lay động mạnh mẽ, truyền cho tướng sĩ ý thức yêu nước nồng nàn, lòng căm thù giặc sục sôi và một thái độ xả thân, chấp nhận hi sinh vì non sông xã tắc.

Câu 4. Sau lúc nêu mối ân tình giữa chủ soái và tướng sĩ, Trần Quốc Tuấn phê phán những hành động sai của tướng sĩ, đồng thời khẳng định những hành động nên làm nhằm thức tỉnh sự tự ý thức, trách nhiệm, tự nhìn nhận lại mình để điều chỉnh suy nghĩ cũng như hành động của tướng sĩ.

Khi phê phán hay khẳng định, tác giả đều tập trung vào vân đề đề cao ý thức cảnh giác, chăm lo rèn luyện để thắng lợi quân địch xâm lược. Bởi vì, bài hịch này dù trực tiếp là nhằm khích lệ tướng sĩ học tập cuốn Binh thư yếu lược do chính Trần Quốc Tuấn biên soạn, nhưng mục tiêu cao nhất là kêu gọi ý thức yêu nước, quyết đấu quyết thắng với ngoại xâm.

Câu 5. Giọng văn lúc thìa là của vị chủ soái với tướng sĩ dưới quyền, lúc lại là của người cùng tình cảnh [suy cho cùng, chủ soái hay tướng sĩ lúc non sông lâm nguy thì đều cùng một tình cảnh] :

– Khi muốn bộc bạch ân tình hay khuyên răn thiệt hơn, tác giả lấy giọng thân thiện, chân tình của người cùng chung tình cảnh để nói : “Các ngươi ở cùng ta coi giữ binh quyền đã lâu ngày, […] lúc trận mạc xông pha thì cùng nhau sống chết, lúc ở nhà nhàn hạ thì cùng nhau vui cười.”, “Lúc bấy giờ, ta cùng các ngươi sẽ bị bắt, đau xót biết chừng nào ! Chẳng những thái ấp của ta ko còn, nhưng mà bổng lộc của các ngươi cũng mất; không những gia quyến của ta bị tan, nhưng mà vợ con các ngươi cũng khốn ; không những xã tắc tổ tông ta bị giày xéo, nhưng mà phần mộ cha mẹ các ngươi cũng bị quật lên…”.

– Khi nghiêm khắc quở trách, cảnh cáo những hành động sai, thái độ thờ ơ, vô trách nhiệm của tướng sĩ trước vận mệnh non sông, tác giả thẳng thắn đưa ra những lời lẽ gay gắt, như là sỉ mắng : “ko biết lo”, “ko biết thẹn”, “ko biết tức”, “ko biết căm”… Thực ra, “gia thần của ông như Dã Tượng, Yết Kiêu, các môn khách như Phạm Ngũ Lão, Trần Thì Kiến, Trương Hán Siêu, Phạm Lãm, Trịnh Dũ, Ngô Sĩ Thường, Nguyễn Thế Trực,… đều là những người trung nghĩa. Trung tức là nét nổi trội của ý thức Đông A. Cho nên, số người cầu an, hưởng lạc tuy vẫn có, nhưng có phần chắc là Trần Quốc Tuấn dùng phép khích tướng, kích họ bằng sỉ nhục, đẩy họ vào thế phải chứng tỏ tấm lòng biết lo, biết thẹn, biết tức, biết căm nhưng mà đồng lòng hiệp sức cùng chủ tướng đánh dẹp quân thù.” [Trần Đình Sử]

– Dù là khuyên răn bộc bạch thiệt hơn hay là lời nghiêm khắc cảnh cáo thì cũng đều nhằm khơi dậy ý thức về trách nhiệm, trách nhiệm của tướng sĩ đốì với giang sơn xã tắc, đều hướng tới cái đích kêu gọi đồng tâm hợp lực xoá sổ quân xâm lược, ứng phó với quân địch.

Câu 6. Một số rực rỡ nghệ thuật đã tạo nên sức thuyết phục cho bài Hịch tướng sĩ :

– Thủ pháp so sánh – tương phản : đoạn 2, 3.

– Thủ pháp hùng điệp – tăng tiến được sử dung liên kết với thủ pháp so sánh – tương phản, các điệp từ, điệp ngữ, điệp ý được sử dụng triệt để nhằm tạo ra âm hưởng cho bài hịch, đồng thời gợi, khắc sâu vào tâm trí người đọc [chú ý đoạn 3].

Câu 7. Khích lệ nhiều mặt để tập trung vào một hướng, đó là cách triển khai lập luận của bài Hịch tướng sĩ. Có thể tưởng tượng sự triển khai lập luận này qua sơ đồ sau :

Khích lệ ý thức yêu nước, ý thức chống giặc ngoại xâm

  • Khích lệ lòng căm thù chống ngoại xâm, nỗi nhục lúc mất nước
  • Khích lệ ý thức trung quân ái quốc và ý thức trách nhiệm với xã tắc.
  • Khích lệ ý chi nam nhi, lập công danh, vì non sông cũng là vì bản thân mình
  • Khích lệ lòng tự trọng dân tộc, lòng tự trọng tư nhân.
Ảnh minh họa [Nguồn internet]

Bài soạn “Hịch tướng sĩ” số 5

I. VỀ TÁC GIẢ VÀ TÁC PHẨM

1. Tác giả

Trần Quốc Tuấn [1231? – 1300], tước Hưng Đạo Vương là một danh tướng kiệt xuất của dân tộc. Năm 1285 và năm 1287, quân Mông – Nguyên xâm lược nước ta, lần nào ông cũng được Trần Nhân Tông cử làm Tiết chế thống lĩnh các đạo quân ra trận, và cả hai lần đều thắng lợi vẻ vang.

Đời Trần Anh Tông, ông về trí sĩ ở Vạn Kiếp [nay là xã Hưng Đạo, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương] rồi mất ở đấy. Nhân dân tôn thờ ông là Đức thánh Trần và lập đền thờ ở nhiều nơi trên non sông.

2. Thể loại

Một thể văn thư cổ nhưng mà các tướng soái, vua chúa hoặc người thủ lĩnh một tổ chức, một phong trào dùng để kêu gọi động viên mọi người tích cực đấu tranh xoá sổ quân địch.

Bài hịch tiêu biểu và có trị giá nhất trong văn học Việt Nam là bài Hịch tướng sĩ văn của Trần Hưng Đạo [thế kỉ XIII]. Thời kì Pháp xâm lược nước ta [nửa sau thế kỉ XIX] nhiều hịch bằng chữ Nôm xuất hiện và được lưu truyền rộng rãi trong nhân dân [như Hịch đánh Tây của Lãnh Cồ, Hịch đánh chuột của Nguyễn Đình Chiểu…].

Hịch thường được viết theo lối văn tứ lục, cũng có lúc viết bằng văn xuôi hay thơ lục bát.

Một bài hịch thường được cấu trúc theo ba phần chính:

Phần đầu: nêu lên một nguyên lí đạo đức hay chính trị làm cơ sở tư tưởng, lí luận.

Phần giữa: nêu thực trạng đáng chú ý [thường là kể tội quân địch].

Phần cuối: nêu giải pháp và lời kêu gọi đấu tranh. Hịch viết xong thường được vào ống hịch và do các sứ thần truyền đi khắp nơi. Nếu như hịch nguy cấp thì trên đầu ống hịch thường có một chùm lông gà [do vậy nhưng mà gọi là vũ hịch]. [Theo Tự điển thuật ngữ văn học, NXB Giáo dục, 1992].

3. Tác phẩm

Nửa cuối thế kỉ XIII, chỉ trong ba mươi năm [1257 – 1287], giặc Mông – Nguyên đã ba lần kéo quân sang xâm lược nước ta. Lúc bấy giờ thế giặc rất mạnh, muốn đánh bại chúng phải có sự nhất trí, ủng hộ của toàn quân, toàn dân. Trần Quốc Tuấn đã viết bài hịch này để kêu gọi tướng sĩ hết lòng đánh giặc.

Để kêu gọi lòng dân, người viết có thể dùng nhiều cách không giống nhau. Có lúc chỉ cần nêu lên thực trạng, khơi gợi truyền thống yêu nước, căm thù giặc… Trong bài hịch này, Trần Quốc Tuấn đã sử dụng một giọng điệu, cách viết rất phong phú. Khi thì ông lấy tấm gương của người đời xưa, lúc thì dùng cách “khích tướng”, có lúc lại xoa dịu, vỗ về đối với nhân vật… Đó chính là cái hay, cái lạ mắt của tác phẩm này.

II. TRẢ LỜI CÂU HỎI SGK

Câu 1. Bài hịch có thể chia làm mấy đoạn? Nêu ý chính của từng đoạn.

Trả lời:

Bài hịch bố cục thành 4 đoạn:

– Đoạn 1 [từ đầu tới “tới nay còn lưu tiếng tốt.”]: tác giả nêu ra các gương “trung thần nghĩa sĩ, bỏ mình vì nước” đã được lưu truyền trong sử sách để khích lệ lòng người.

– Đoạn 2 [từ “Huống chi ta” tới “ta cũng vui lòng.”]: từ việc phơi bày gương mặt xấu xa của sứ giặc, tác giả bộc bạch lòng căm thù giặc thâm thúy.

– Đoạn 3 [từ “Các ngươi ở cùng ta” tới “ko muốn vui vẻ phỏng có được ko ?“]: từ khắc sâu mối gắn bó ân tình giữa chủ và tướng, tác giả phân tích rõ thiệt hơn, được mất, đúng sai để chỉnh đốn những sai lạc trong hàng ngũ tướng sĩ [từ “Các ngươi” tới “muốn vui vẻ phỏng có được ko ?“] và đi tới việc vạch ra đường hướng hành động đúng, hứa hứa tương lai [từ “Nay ta bảo thật” tới “ko muốn vui vẻ phỏng có được ko ?“].

– Đoạn 4 [từ “Nay ta chọn binh pháp” tới hết]: nêu ra việc trước mắt phải làm và kết thúc bằng những lời khích lệ nghĩa khí tướng sĩ.

Câu 2. Sự tai ngược và tội ác của giặc được lột tả như thế nào? Đoạn văn tố cáo tội ác giặc đã khơi gợi được điều gì ở tướng sĩ?

Trả lời:

Tác giả lột tả sự tai ngược và tội ác của giặc:

“Ngó thấy sứ giặc đi lại ngông nghênh ngoài đường, uốn lưỡi cú diều nhưng mà sỉ mắng triều đình, đem thân dê chó nhưng mà bắt nạt tể phụ, thác mệnh Hốt Tất Liệt nhưng mà đòi ngọc lụa, để thoả lòng tham ko cùng, giả hiệu Vân Nam Vương nhưng mà thu vàng bạc, để vét của kho có hạn. Thật khác nào như đem thịt nhưng mà nuôi hổ đói, sao cho khỏi để tai vạ về sau !”

– Khuôn mặt của quân giặc được phơi bày bằng những sự việc trong thực tiễn : đi lại ngông nghênh, sỉ mắng triều đình, bắt nạt tể phụ, đòi ngọc lụa, thu vàng bạc, vét của kho có hạn…

– Để lột tả sự tai ngược và tội ác tham tàn của giặc, đồng thời bộc bạch thái độ căm thù, khinh bỉ tột bậc, tác giả đã dùng lối nói hình ảnh so sánh, ẩn dụ:

+ Hình ảnh chỉ quân giặc: lưỡi cú diều, thân dê chó, hổ đói,…

+ Các hình ảnh được đặt trong thế đối sánh để tỏ rõ thái độ căm thù, khinh bỉ: uốn lưỡi cú diều – sỉ mắng triều đình, đem thân dê chó – bắt nạt tể phụ.

– Tố cáo tội ác của giặc, tác giả đã khơi gợi lòng tự trọng dân tộc, khắc sâu lòng căm thù ngoại xâm ở tướng sĩ.

Câu 3. Phân tích lòng yêu nước, căm thù giặc của Trần Quốc Tuấn qua đoạn văn tác giả tự nói lên nỗi lòng mình.

Trả lời:

Sau lúc tố cáo tội ác của giặc, Trần Quốc Tuấn đã bộc bạch lòng yêu nước, căm thù giặc của mình, có thể xem đây là đoạn văn hay nhất của bài hịch: “Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối; ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa; chỉ căm tức chưa được xả thịt lột da, nuốt gan uống máu quân thù. Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng vui lòng.”

– Nỗi đau trước cảnh nước mất nhà tan được diễn tả thống thiết: quên ăn, mất ngủ, lòng đau như dao cắt, nước mắt đầm đìa. Uất hận trào dâng tới đỉnh điểm lúc tác giả bộc lộ thái độ của mình đối với quân địch: chỉ căm tức chưa được xả thịt lột da, nuốt gan uống máu quân thù.

– Vị tướng đã tự xác định một ý thức hi sinh hết mình cho non sông: Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng vui lòng.

– Qua đoạn văn này, hình tượng người người hùng yêu nước, sẵn sàng xả thân vì non sông được khắc hoạ rõ nét. Những lời tâm huyết, ruột gan của vị tướng có sức lay động mạnh mẽ, truyền cho tướng sĩ ý thức yêu nước nồng nàn, lòng căm thù giặc sục sôi và một thái độ xả thân, chấp nhận hi sinh vì non sông xã tắc.

Câu 4. Sau lúc nêu mối ân tình giữa chủ soái và tướng sĩ, Trần Quốc Tuấn phê phán những hành động sai của tướng sĩ, đồng thời khẳng định những hành động đúng nên làm là có dụng ý gì? Khi phê phán hay khẳng định, tác giả tập trung vào vấn đề gì? Vì sao phải tương tự?

Trả lời:

Sau lúc nêu mối ân tình giữa chủ soái và tướng sĩ, Trần Quốc Tuấn phê phán những hành động sai của tướng sĩ, đồng thời khẳng định những hành động nên làm nhằm thức tỉnh sự tự ý thức, trách nhiệm, tự nhìn nhận lại mình để điều chỉnh suy nghĩ cũng như hành động của tướng sĩ.

Khi phê phán hay khẳng định, tác giả đều tập trung vào vấn đề đề cao ý thức cảnh giác, chăm lo rèn luyện để thắng lợi quân địch xâm lược. Bởi vì, bài hịch này dù trực tiếp là nhằm khích lệ tiến sĩ học tập cuốn Binh thư yếu lược do chính Trần Quốc Tuấn biên soạn, nhưng mục tiêu cao nhất chính là kêu gọi ý thức yêu nước quyết đấu quyết thắng với ngoại xâm.

Câu 5. Giọng văn là lời vị chủ soái nói với tướng sĩ dưới quyền hay là lời người cùng tình cảnh? Là lời khuyên răn bộc bạch thiệt hơn hay là lời nghiêm khắc cảnh cáo? Cách viết của tác giả có tác động tới tướng sĩ như thế nào?

Trả lời:

Trong bài hịch, giọng văn lúc thìa là của vị chủ soái với tướng sĩ dưới quyền lúc lại là của người cùng tình cảnh [suy cho cùng, chủ soái hay tướng sĩ lúc non sông lâm nguy thì đều cùng một tình cảnh]:

– Khi muốn bộc bạch ân tình hay khuyên răn thiệt hơn, tác giả lấy giọng thân thiện, chân tình của người cùng chung tình cảnh để nói: “Các ngươi ở cùng ta coi giữ binh quyền đã lâu ngày, […] lúc trận mạc xông pha thì cùng nhau sống chết, lúc ở nhà nhàn hạ thì cùng nhau vui cười.” , “Lúc bấy giờ, ta cùng các ngươi sẽ bị bắt, đau xót biết chừng nào! Chẳng những thái ấp của ta ko còn, nhưng mà bổng lộc của các ngươi cũng mất; không những gia quyến của ta bị tan, nhưng mà vợ con các ngươi cũng khốn; không những xã tắc tổ tông ta bị giày xéo, nhưng mà phần mộ cha mẹ các ngươi cũng bị quật lên…”

– Khi nghiêm khắc quở trách, cảnh cáo những hành động sai, thái độ thờ ơ, vô trách nhiệm của tướng sĩ trước vận mệnh non sông, tác giả thẳng thắn đưa ra những lời lẽ gay gắt, như là sỉ mắng: “ko biết lo”, “ko biết thẹn”, “ko biết tức”, “ko biết căm”… Thực ra, gia thần của ông như Dã Tượng, Yết Kiêu, các môn khách như Phạm Ngũ Lão, Trần Thì Kiến, Trương Hán Siêu, Phạm Lãm, Trịnh Dũ, Ngô Sĩ Thường, Nguyễn Thế Trực… đều là những người trung nghĩa. Trung tức là nét nổi trội của ý thức Đông A [tức nhà Trần]. Cho nên, số người cầu an, hưởng lạc tuy vẫn có, nhưng có phần chắc là Trần Quốc Tuấn dùng phép khích tướng, kích họ bằng sỉ nhục, đẩy họ vào thế phải chứng tỏ tấm lòng biết lo, biết thẹn, biết tức, biết căm nhưng mà đồng lòng hiệp sức cùng chủ tướng đánh dẹp quân thù.“[Trần Đình Sử]

– Dù là khuyên răn bộc bạch thiệt hơn hay là lời nghiêm khắc cảnh cáo thì cũng đều nhằm khơi dậy ý thức về trách nhiệm, trách nhiệm của tướng sĩ đối với giang sơn xã tắc, đều hướng tới cái đích kêu gọi đồng tâm hợp lực xoá sổ quân xâm lược, ứng phó với quân địch.

Câu 6. Hãy nêu một số rực rỡ nghệ thuật đã tạo nên sức thuyết phục người đọc bằng cả nhận thức và tình cảm ở bài Hịch tướng sĩ.

Trả lời:

Một số rực rỡ nghệ thuật đã tạo nên sức thuyết phục cho bài hịch tướng sĩ.

– Thủ pháp so sánh – tương phản: đoạn 2,3

– Thủ pháp trùng điệp – tăng tiến; được sử dụng liên kết với thủ pháp so sánh – tương phản, các điệp từ, điệp ngữ, điệp ý được sử dụng triệt để nhằm tạo ra âm hưởng cho bài hịch, đồng thời gợi, khắc sâu vào tâm trí người đọc [đoạn 3].

Câu 7*. Khích lệ nhiều mặt để tập trung vào một hướng, đó là cách triển khai lập luận của bài Hịch tướng sĩ. Hãy làm sáng tỏ điều này bằng một sơ đồ về kết cấu của bài hịch.

Trả lời:

Hịch tướng sĩ là một áng văn chính luận rực rỡ, với phong cách văn biền ngẫu có sức lay động lòng người.

Với kết cấu chặt chẽ, bài hịch cho thấy sự liên kết thuần thục giữa lí lẽ với tình cảm, giữa lập luận với hình ảnh, dẫn chứng giàu sức thuyết phục.

Có thể thấy được cách triển khai lập luận của bài hịch qua sơ đồ kết cấu sau:

III. LUYỆN TẬP

Câu 1. Phát biểu cảm nhận về lòng yêu nước của Trần Quốc Tuấn được trình bày qua bài hịch.

Trả lời:

Đọc bài hịch, ta có cảm tưởng như mỗi chữ, mỗi câu văn đều là những lời ruột gan của người người hùng Trần Quốc Tuấn. Sau những câu văn hùng hồn, thấm đượm là hình ảnh người người hùng yêu nước xót đau tới quặn lòng vì nước non bị quân thù giày xéo, là ngọn lửa căm thù hừng hực cháy trong tim, là sự nóng lòng rửa nhục tới quên ăn mất ngủ. Khi bộc bạch những đớn đau dằn vặt tự đáy lòng mình, chính Trần Quốc Tuấn đã nêu ra một tấm gương quật cường về lòng yêu nước để cho tướng sĩ noi theo. Và như thế cũng có tức là nó có sức động viên rất lớn đối với ý thức tướng sĩ.

Tham khảo đoạn văn:

“…Lòng yêu nước của Trần Quốc Tuấn trong Hịch tướng sĩ là nỗi lo cho dân cho nước; là tầm nhìn chiến lược để có một kế sách vẹn toàn cho cuộc khởi binh. Tình cảm thiết tha với dân với nước đó được vị tướng quân viết lên bằng cả nỗi lòng mình; viết lên từ những trằn trọc lo lắng băng qua những “bữa quên ăn”, những “đêm vỗ gối”, những lần “ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa”. Tình yêu của tác giả hiện hữu mạnh mẽ theo đúng kiểu lính nhà binh “chỉ căm tức chưa xả thịt lột da, nuốt gan uống máu quân thù”. Làm xong điều đó thì “dẫu trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa ta cũng vui lòng”. Yêu nước với Trần Quốc Tuấn trong thời khắc đó tức là phải biết lo cho dân cho nước, phải biết xả thân, biết kết đoàn một lòng. Tất cả những điều đó phát sinh từ một động lực, một mục tiêu lớn lao: yêu nước, xoá sổ giặc thù…”

[Ngô Tuần]

Câu 2*. Chứng minh bài Hịch tướng sĩ vừa có lập luận chặt chẽ, sắc bén vừa giàu hình tượng, xúc cảm, do đó có sức thuyết phục cao.

Trả lời:

Tham khảo đoạn văn sau.

“…Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn đặc trưng sắc sảo trong lời văn và hiệu quả ở giọng điệu. Tác giả mở đầu tác phẩm ko hề rào đón nhưng mà trực tiếp nêu cao khí tiết của những người người hùng trong lịch sử. Đặt vấn đề theo cách này, Hưng Đạo Vương đã ngay ngay lập tức khơi đúng vào cái mạch truyền thống của “con nhà võ tướng” – đó là cái trình bày và sự xả thân. Lời lẽ hùng hồn khiến quân lính đều phải tự nhìn lại chính mình, xem mình đã làm được gì cho dân, cho nước. Trong trình diễn luận điểm, chúng ta dễ dàng nhận thấy, Trần Quốc Tuấn luôn gắn liền quyền lợi và nghĩa vụ của mình với dân với nước, đặt ngang hàng quyền lợi của mình với muôn nghìn tướng sĩ. Binh lính vì thế nhưng mà vừa tin tưởng, vừa nể sợ vị đại tướng quân. Và tương tự cũng có tức là tướng sĩ trên dưới một lòng.

Sự khôn khéo của Trần Quốc Tuấn trong lập luận còn nằm ở chỗ, tác giả xen kết hài hoà giữa phê phán và khích lệ, kiểm điểm với động viên. Điều cốt yếu nhất nhưng mà Đại vương đã làm được đó là khơi vào nỗi nhục của bản thân và quốc thể từ đó nhưng mà thắp lên sự căm hờn trong mỗi người: “Chẳng những gia quyến của ta bị tan nhưng mà vợ con các ngươi cũng khốn, không những tổ tông ta bị giày xéo, nhưng mà phần mộ cha mẹ các ngươi cũng bị quật lên”. Câu văn khơi gợi vô cùng bởi chẳng người nào là ko phẫn uất, ko muốn đứng lên xoá sổ những kẻ dã tâm giày xéo, giày đạp man di lên quê hương, non sông, gia đình mình.

Lời hịch của Trần Quốc Tuấn cứ thế thắt mở thu hút quân sĩ vào trận đấu. Cứ thế tạo cho họ một tâm thế, một khí thế sục sôi sẵn sàng tuân theo thượng lệnh nhưng mà ra trận. Tuy nhiên sự thuyết phục của Hịch tướng sĩ còn ở giọng điệu hùng hồn, ở những hình ảnh và những câu văn giàu xúc cảm. Thử hỏi có người nào ko thấy nhục lúc “ngó thấy sứ thần đi lại ngông nghênh ngoài đường, uốn lưỡi cú diều nhưng mà sỉ mắng triều đình, đem thân dê chó nhưng mà bắt nạt tế phụ…”. Câu văn rất giàu hình ảnh và xúc cảm. Lối ví von hình tượng dấy lên lòng tự ái, tự trọng dân tộc trong lòng mỗi con người.

Hoặc có lúc tự viết về mình, câu văn của Đại vương cũng rất giàu hình ảnh và đầy tâm tình “Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa…”. Một câu văn nhưng mà xen chồng liên tục nhiều vị ngữ. Tất cả đều vừa giàu hình ảnh lại vừa tràn trề xúc cảm. Nó hừng hực sôi trào và căm giận xiết bao. Hịch tướng sĩ còn rất nhiều câu văn giàu hình ảnh. Nó cộm lại rồi cuộn lên có lúc như dòng thác. Hơi văn như hơi thở mạnh hừng hực khí thế khiến người đọc liên tục bị cuốn theo và rồi bị thuyết phục ko biết tự lúc nào…”

[Ngô Tuần]

Ảnh minh họa [Nguồn internet]

Bài soạn “Hịch tướng sĩ” số 6

I. Đôi nét về tác giả Trần Quốc Tuấn– Trần Quốc Tuấn [1231-1300] còn được gọi là Hưng Đạo Đại Vương– Cuộc đời: + Là danh tướng kiệt xuất của dân tộc + Năm 1285 và năm 1288. Ông chỉ huy quân đội đánh tan hai cuộc xâm lược của quân Nguyên-Mông + Ông lập nhiều chiến công lớn: 3 lần đánh tan quân Nguyên Mông

+ Tác phẩm nổi trội: Binh thư yếu lược, Đại Việt sử kí toàn thư

II. Đôi nét về tác phẩm Hịch tướng sĩ
1. Hoàn cảnh sáng tác

– Được viết vào khoảng thời kì trước cuộc kháng chiến chống quân Nguyên – Mông lần thứ hai [1285]: Khi giặc Nguyên Mông sang xâm lược nước ta lần thứ hai, lúc này quân giặc rất mạnh muốn đánh bại chúng phải có sự nhất trí, ủng hộ của toàn quân, toàn dân, vì vậy Trần Quốc Tuấn đã viết bài hịch này để kêu gọi tướng sĩ hết lòng đánh giặc
2. Thể loại:
Hịch
3. Bố cục
– Chia làm 3 phần: + Phần 1: Từ đầu tới “lưu tiếng tốt”: Nêu tên những trung thần nghĩa sĩ được sử sách lưu danh + Phần 1: Từ tiếp tới “ta cũng vui lòng”: Tình hình non sông hiện nay và nỗi lòng của người chủ tướng

+ Phần 3: Còn lại: Phê phán những biểu thị sai trái tong hàng ngũ quân sĩ
4. Giá trị nội dung


– Bài Hịch phản ánh ý thức yêu nước nồng nàn của dân tộc trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược, trình bày lòng căm thù giặc và ý chí quyết thắng.
5. Giá trị nghệ thuật
– Hịch tướng sĩ là một áng văn chính luận xuất sắc– Lập luận chặt chẽ, lĩ lẽ rõ ràng, giàu hình ảnh, có sức thuyết phục cao– Liên kết hài hoà giữa lí trí và tình cảm

– Lời văn giàu hình ảnh nhạc điệu

III.Đọc – hiểu văn bản

Câu 1. Bài hịch có thể chia làm ba đoạn.

a. Đoạn 1 : Từ đầu tới ‘… lưu tiếng tốt’ : nêu gương sử sách nhằm khích lệ ý chí lập công danh, hi sinh vì nước ở các tướng sĩ.

b. Đoạn 2 : ‘Huống chỉ ta cùng các ngươi…’ tới ‘… cũng chẳng kém gì’. Quay về thực tiễn, lột tả tội ác và sự tai ngược của giặc đồng thời nêu mối ân tình giữa chủ và tướng.

c. Đoạn 3 : Phần còn lại : Phê phán thái độ, hành động sai trái của các tướng sĩ và chỉ ra cho tướng sĩ những thái độ, hành động đừng nên theo, cần làm.

Câu 2. Tội ác và sự tai ngược của quân địch được lột tả bằng những hành động thực tiễn và qua cách diễn tả bằng những hình ảnh ẩn dụ. Quân thù tham lam tàn bạo : đòi ngọc lụa, hạch sách bạc vàng, vét kiệt của kho có hạn, hung hãn như hổ đói. Kẻ thì tai ngược đi lại ngông nghênh ngoài đường, bắt nạt tể phụ. Những hình tượng ẩn dụ ‘lưỡi cú diều’, ‘thân dê chó’ để chỉ sứ Nguyên cho thấy nỗi căm giận và lòng khinh bỉ giặc của Hưng Đạo Vương. Đồng thời, đặt những hình tượng đó trong thế tương quan ‘lưỡi cú diều’, ‘xỉ mắng triều đình’, ‘thân dê chó’, ‘bắt nạt tể phụ’. Trần Quốc Tuấn đã chỉ ra nỗi nhục lớn của mọi người lúc chủ quyền non sông bị xâm phạm. Có thể so sánh với thực tiễn lịch sử, năm 1277 Sài Xuân đi sứ buộc ta lên tận biên giới đón rước. Năm 1281, Sài Xuân lại sang sứ, cưỡi ngựa đi thẳng vào cửa Dương Minh, quân sĩ Thiên Trường ngăn lại, bị Xuân lấy roi đánh toạn cả đầu. Vua sai Thượng tướng Thái sư Trần Quang Khcửa ải ra đón tiếp. Xuân nằm khểnh ko dậy. So sánh với thực tiễn sẽ thấy tác dụng của lời hịch như lửa đổ thêm dầu.

Đoạn văn tố cáo tội ác giặc đã khơi gợi được lòng căm thù giặc, khích lệ ý thức yêu nước quật cường, ý thức trách nhiệm và nghĩa vụ của tướng sĩ.

Câu 3. Lòng yêu nước căm thù giặc của Trần Quốc Tuấn trình bày qua hành động : quên ăn, mất ngủ, đớn đau tới thắt tim, thắt ruột, trình bày qua thái độ : uất ức, căm tức lúc chưa trả thù, sẵn sàng hy sinh để rửa mối nhục cho non sông. Bao nhiêu tâm huyết, bút lục của Trần Quốc Tuấn dồn vào đoạn : ‘Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa, chỉ căm tức chưa xả thịt lột da, nuốt gan uống máu quân thù. Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng vui lòng’. Mỗi chữ mỗi lời như chảy trực tiếp từ trái tim qua ngòi bút lên trang giấy. Câu văn chính luận nhưng mà đã khắc họa thật sinh động hình tượng người người hùng yêu nước, đau xót tới quặn lòng trước cảnh tình non sông, căm thù tới bầm gian tím ruột mong rửa nhục tới mất ngủ quên ăn, vì nghĩa lớn nhưng mà khinh thường xương tan, thịt nát. Khi tự bộc bạch ruột gan, chính Trần Quốc Tuấn đã là một tấm gương yêu nước quật cường có tác dụng động viên to lớn đối với tướng sĩ.

Câu 4. Nêu mối ân tình giữa mình và tướng sĩ. Trần Quốc Tuấn đã kích động ý thức trách nhiệm và nghĩa vụ của mọi người đối với lẽ vua tôi cũng như đối với mình cốt nhục. Không chỉ vậy, tác giả Trần Quốc Tuấn còn chân tình chỉ bảo và phê phán nghiêm khắc hành động hưởng lạc, thái độ bàng quan trước vận mệnh của non sông của tướng sĩ, ‘làm cho họ tức khí, muốn nhanh chóng chứng minh tài năng, phẩm chất của mình bằng việc làm thiết thực’ [Trần Đình Sử].

Cùng với việc phê phán thái độ, hành động sai, Trần Quốc Tuấn còn chỉ ra những việc đúng nên làm. Đó là nêu cao ý thức cảnh giác, chăm lo ‘tập luyện cung tên, làm cho người người giỏi như Bàng Mông, nhà nhà đều là Hậu Nghệ’. Những hành động này đều xuất phát từ mục tiêu quyết đấu quyết thắng quân địch xâm lược.

Khi phê phán hay khẳng định, tác giả đều tập trung khích lệ từ ý chí lập công danh, lòng tự trọng tư nhân, tự trọng dân tộc tới lòng căm thù giặc, ý thức trung quân ái quốc, tình nghĩa cốt nhục… để cuối cùng khích lệ lòng yêu nước quật cường, quyết đấu quyết thắng quân địch xâm lược. Điều này rất cần thiết trong hoàn cảnh nước nhà lâm vào thế nước sôi lửa bỏng, nó trả tiền những thái độ và hành động trù trừ trong hành ngũ tướng sĩ, động viên những người nào còn thờ ơ, do dự hãy đứng hẳn sang phía lực lượng quyết tâm xoá sổ quân địch.

Câu 5. Giọng văn rất linh hoạt, có lúc là lời vị chủ soái nói với tướng sĩ dưới quền [‘Các ngươi ở cùng ta… đi bộ thì ta cho ngựa’, ‘Nay các ngươi nhìn chủ nhục… thẹn’], có lúc là lời người cùng ảnh ngộ [‘Huống chi ta… gian nan’, ‘lúc trận mạc… vui cười’, ‘Lúc bấy giờ, ta cùng các ngươi… thua cuộc’] lúc là lời khuyên răn bộc bạch thiệt hơn [‘Như vậy, không những … ko muốn vui vẻ phỏng có được ko ?], lúc lại là lời nghiêm khắc cảnh cáo [làm tướng triều đình… muốn vui vẻ phỏng có được ko ?]…

Sự thay đổi giọng điệu tương tự thích hợp với nội dung xúc cảm và thái độ của tác giả, tác động cả về trí lẫn tình cảm, khơi dậy trách nhiệm của mọi người đối với chủ tướng cũng như với bản thân họ.

Câu 6. Một số rực rỡ nghệ thuật tạo nên sức thuyết phục người đọc bằng cả nhận thức và tình cảm ở bài ‘Hịch tướng sĩ’. Gợi ý :

Giọng văn lúc bi thiết nghẹ ngào, lúc sục sôi hùng hồn, lúc mỉa mai giễu cợt, lúc nghiêm khắc như xỉ mắng, lại có lúc ra lệnh dứt khoát.Kết cấu chặt chẽ, lập luận sắc bén.Sử dụng kiểu câu nguyên nhân – kết quả.Biện pháp tu từ : so sánh, điệp từ ngữ, điệp ý tăng tiến, phóng đại…

Sử dụng những hình tượng nghệ thuật gợi cảm, dễ hiểu.

Câu 7. Sơ đồ kết cấu bài hịch.

Khích lệ lòng căm thù giặc, nỗi nhục mất nước.Khích lệ lòng trung quân ái quốc và lòng ân nghĩa thủy chung của người cùng tình cảnh.Khích lệ ý chí lập công danh, xả thân vì nước.Khích lệ lòng tự trọng, liêm sỉ ở mỗi người lúc nhận rõ cái sai, thấy rõ điều đúng.

= > Thất cả những ý trên nhằm khích lệ lòng yêu nước quật cường, quyết đấu quyết thắng quân địch xâm lược.

I. Luyện tập [Gợi ý những điểm chính].

Câu 1: Cảm nhận về lòng yêu nước của tác giả được trình bày qua bài hịch :

Lòng yêu nước được hiện rất phong phú ở nhiều sắc độ :Lòng căm thù giặc thâm thúy.Nhục nhã cho thể diện dân tộc.Đớn đau day dứt vì chưa xoá sổ được quân địch.Nghiêm khắc phê phán thái độ ăn chơi hưởng lạc thờ ơ trước vận mệnh non sông của các tướng sĩ.

Khích lệ lòng tự trọng dân tộc, lòng yêu nước thiết tha ở tướng sĩ…

Lòng yêu nước được diễn tả bằng những nét rực rỡ về nghệ thuật [xem câu 6].
Lòng yêu nước của tác giả kế tương truyền thống yêu nước nghìn năm của dân tộc và được phát huy ko chỉ trên câu chữ, lời hịch nhưng mà ngay trong hành động thực tiễn lãnh đạo quân dân nhà Trần chống quân thù. Đây là tình cảm của tác giả nhưng mà cũng là nỗi lòng của mọi người dân ta lúc này.

Câu 2. ‘Hịch tướng sĩ’ vừa có lập luận chặt chẽ, sắc bén vừa giàu hình tượng, xúc cảm :

Lập luận chặt chẽ sắc bén [kết cấu gồm 3 phần – xem câu 1, phép tắc sắc bén có xưa – nay, gồm hơn – thiệt, trách nhiệm – quyền lợi,…, dẫn chứng sử sách chuẩn xác, dễ hiểu].Giàu hình tượng, xúc cảm :

Khi tố cáo tội ác của quân địch, Trần Quốc Tuấn viết là lũ ‘cú diều’, là loài ‘dê chó’, cao hơn nữa chúng chỉ là những con ‘hổ đói’ đang tìm cách săn mồi. Qua những hình ảnh ẩn dụ bọn sứ giặc ko còn đại diện cho một quốc gia, ko còn là con người. Chúng chỉ còn là lũ mãnh thú gian manh, là bọn giặc thù.

Khi bộc bạch tấm lòng mình, Trần Quốc Tuấn đã khắc họa được sống động hình tượng một vị chủ tướng yêu nước, căm thù giặc thâm thúy. Qua những hình ảnh thậm xưng, lối nói điệp ý và tăng tiến, người đọc tưởng tượng vị chủ tướng đó đau xót tới quặn lòng trước cảnh tình non sông, căm thù giặc tới bầm gan tím ruột, mong rửa nhục tới mất ngủ quên ăn, vì nghĩa lớn nhưng mà khinh thường thịt nát, xương tan.

Xúc cảm trong bài hịch rất nhiều chủng loại. Khi thống thiết, lúc sục sôi, lúc nghiêm khắc, lúc lại ân tình…

Ảnh minh họa [Nguồn internet]

.

Top 6 Bài soạn “Hịch tướng sĩ” của Trần Quốc Tuấn lớp 8 hay nhất

[rule_3_plain]

Trần Quốc Tuấn là danh tướng kiệt xuất của dân tộc, ông lập nhiều chiến công lớn với ba lần đánh tan quân Nguyên Mông xâm lược. Tác phẩm “Hịch tướng sĩ” được viết vào khoảng thời kì trước cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông xâm lược nước ta lần thứ 2. Lúc này quân giặc rất mạnh, muốn đánh bại chúng phải có sự nhất trí, ủng hộ của toàn dân, toàn quân. Vì vậy, Trần Quốc Tuấn đã viết bài hịch này để kêu gọi tướng sĩ hết lòng đánh giặc. Mời các bạn tham khảo một số bài soạn hay nhất nhưng mà Thư Viện Hỏi Đáp tổng hợp trong bài viết dưới đây để hiểu tác phẩm và sẵn sàng tốt nhất nội dung lên lớp.

1

2

1

2

Bài soạn “Hịch tướng sĩ” số 1

Bố cục: Chia làm 4 phần: – Phần 1 [ từ đầu … còn lưu tiếng tốt]: Nguyên lý đạo đức hay chính trị làm cơ sở tư tưởng. – Phần 2 [ tiếp…ta cũng vui lòng]: Nêu thực trạng non sông đang bị giặc ngoại xâm. – Phần 3 [Các người ở cùng ta…ko muốn vui vẻ phỏng có được ko?]: Nêu giải pháp .

– Phần 4 [còn lại] Lời hiệu dụ, kêu gọi tướng sĩ.

Câu 1 [trang 61 sgk Ngữ văn 8 tập 2]: Bố cục của toàn văn bản Hịch tướng sĩ. Chia là 4 phần: + Phần 1 [từ đầu … tới nay còn lưu tiếng tốt] Tác giả dẫn ra những gương trung thần nghĩa sĩ, bỏ mình vì nước lưu truyền trong sử sách. + Phần 2[ tiếp … ta cũng vui lòng] Bộc lộ sự căm thù trước sự hống hách của giặc. + Phần 3 [ tiếp … ko muốn vui vẻ cùng ta có được ko] Phân tích phải trái, đúng sai định hướng hàng ngũ quân sĩ.

+ Phần 4 [còn lại] Lời khích lệ, hiệu dụ tướng soái.

Câu 2 [ trang 61 sgk Ngữ văn 8 tập 2] : Tác giả vạch ra tội ác và sự hống hách, tai ngược của giặc: – Khuôn mặt của giặc được phơi bày bằng những việc trong thực tiễn: + Đi lại ngông nghênh, sỉ mắng triều đình. + Bắt nạt tể phụ, đòi lụa ngọc, thu vàng bạc, vét của kho. → Lột tả gương mặt tai ngược, thói tham lam, sự độc ác của những quân giặc, đồng thời bộc bạch sự căm thù, thái độ khinh bỉ tột bậc của tác giả. – Sử dụng lối nói so sánh, ẩn dụ: + So sánh quân giặc với thân dê chó, lưỡi cú diều. + Hình ảnh được đặt trong thế đối sánh để tỏ rõ sự căm thù, khinh bỉ tột bậc: uốn lưỡi cũ diều- sỉ mắng triều đình, đem thân dê chó- bắt nạt tể phụ.

→ Tố cáo tội ác của giặc, tác giả đã khơi gợi lòng tự trọng, tự trọng dân tộc, khơi gợi lòng tướng sĩ thái độ căm thù trước quân địch và trách nhiệm với non sông.

Câu 3[ trang 61 sgk Ngữ Văn 8 tập 2]: Sau lúc tố cáo tội ác của giặc, Trần Quốc Tuấn trực tiếp bộc bạch lòng yêu nước, căm thù giặc của mình. – Nỗi đau nước mất nhà tan được diễn tả thống thiết: + Quên ăn, mất ngủ, lòng đau như dao cắt, nước mắt đầm đìa. – Uất hận lên tới đỉnh điểm lúc tác giả bộc lộ thái độ căm thù, muốn xoá sổ quân địch: + Căm tức chưa xả thịt lột da, nuốt gan uống máu quân thù. – Vị tướng nguyện một lòng xả thân vì sự nghiệp bảo vệ non sông: + Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, … ta cũng vui lòng.

→ Nổi trội hình tượng người người hùng yêu nước, khí khái, sẵn sàng xả thân vì nước. Dốc hết những lời ruột gan để lay động quân sĩ tình yêu nước, thái độ căm thù giặc.

Câu 4 [trang 61 sgk Ngữ Văn 8 tập 2]: Trần Quốc Tuấn phê phán hành động sai trái của tướng sĩ, đồng thời khẳng định những hành động đúng nên làm là có dụng ý: + Trần Quốc Tuấn nghiêm khắc phê phán thái độ thờ ơ, vô trách nhiệm của tướng sĩ lúc non sông bị làm nhục. + Tập trung phê phán những thú vui tầm thường, hành động sai trái: thích rượu ngon, mê gái đẹp, ưa săn bắn. + Thức tỉnh sự tự ý thức, trách nhiệm, tự nhìn nhận + Chấn chỉnh suy nghĩ, hành động của tướng sĩ cho đúng mực: – Khi phê phán hoặc khẳng định tác giả đều tập trung vào vấn đề nêu cao ý thức cảnh giác, chăm lo rèn luyện để thắng lợi quân địch xâm lược. – Lời nói gang thép như trách mắng tướng sĩ “ko biết lo”, “ko biết thẹn”, “ko biết căm tức”.

→ Khi chỉ ra những điều sai trái nghĩa quân, tướng sĩ phạm để thức tỉnh ý thức tự trọng dân tộc, qua đó vạch ra hướng đi đúng mực, quyết tâm xoá sổ quân địch là mục tiêu cốt yếu.

Câu 5 [trang 61 sgk Ngữ văn 8 tập 2]: – Giọng văn linh hoạt: + Lúc của chủ tướng nói với tướng sĩ, quân lính. + Lúc là người cùng tình cảnh [suy cho cùng lúc nước bị giặc xâm lược. – Dùng giọng ân tình, thân thiện để khuyên răn thiệt hơn: “các ngươi ở cùng ta… lúc vui cười”. – Giọng nghiêm khắc trách cứ, cảnh cáo những hành động sai trái, thái độ thờ ơ, tác trách của quân sĩ lúc non sông lâm nguy. – Thẳng thắn đưa ra những lời lẽ gay gắt để khích tướng, thức tỉnh quân sĩ: ” ko biết lo”, ” ko biết thẹn”.

→ Dù Trần Quốc Tuấn có sử dụng giọng quan tâm khuyên răn hay giọng nghiêm nghị trách giận thì tất cả đều nhằm gợi lên ý thức, trách nhiệm của tướng sĩ với non sông, xã tắc., kêu gọi sự đồng tâm hợp lực.

Câu 6 [trang 61 sgk Ngữ văn 8 tập 2] : Rực rỡ nghệ thuật góp phần tạo nên sức thuyết phục cho văn bản: – Thủ pháp so sánh tương phản : Làm nổi trội hình ảnh đau thương người dân mất nước >< hình ảnh tai ngược, tàn bạo của giặc Nguyên- Mông. – Thủ pháp trùng điệp- tăng tiến được liên kết với thủ pháp so sánh- tương phản nhằm tạo giọng điệu hùng hồn, trùng điệp, khắc vào tâm trí người đọc. – Lập luận chặt chẽ, sắc bén với lời văn gang thép. – Sử dụng các giải pháp tu từ: so sánh, điệp từ, điệp ngữ, điệp ý… – Linh hoạt trong cách sử dụng giọng điệu trong văn bản.

→ Nghệ thuật lập luận sắc bén, linh hoạt liên kết với các thủ pháp tiêu biểu, lời lẽ lúc tha thiết, lúc nghiêm nghị nhằm tạo ra áng văn chính luận gang thép, có sức thuyết phục cao.

Câu 7 [ trang 61 sgk Ngữ Văn 8 tập 2]: Sơ đồ trình bày cách triển khai lập luận: khích lệ nhiều mặt để tập trung vào một hướng Khích lệ ý thức yêu nước, ý thức chống giặc ngoại xâmKhích lệ lòng căm thù chống ngoại xâm, nỗi nhục lúc mất nướcKhích lệ ý thức trung quân ái quốc và ý thức trách nhiệm với xã tắc.Khích lệ ý chi nam nhi, lập công danh, vì non sông cũng là vì bản thân mìnhKhích lệ lòng tự trọng dân tộc, lòng tự trọng tư nhân. Luyện tập Bài 1 [ trang 61 sgk Ngữ văn 8 tập 2] Phát biểu về lòng yêu nước của Trần Quốc Tuấn được trình bày qua bài hịch. Hịch tướng sĩ là áng văn bất hủ mọi thời đại phản ánh ý thức yêu nước nồng nàn của vị tướng tài hết lòng vì dân tộc trong cuộc kháng chiến chống ngoại xâm. Lòng căm thù giặc trình bày qua việc quên ăn, quên ngủ, “ruột đau như cắt” căm thù tội ác và sự hống hách của giặc Thanh. Nỗi đau mất nước được tác giả diễn tả thống thiết, cùng với niềm uất hận trào dâng lúc tác giả bộc lộ sự căm thù của mình với quân địch. Vị tướng đã tự xác định ý thức đấu tranh hi sinh, xả thân vì nước được khắc họa rõ nét. Những lời tâm huyết của Trần Quốc Tuấn cho thấy đây là vị tướng tài có sức lay động mạnh mẽ, truyền được lòng yêu nước nồng nàn, ý chí căm thù giặc sục sôi và một thái độ sẵn sàng hi sinh vì non sông. Bài 2 [ trang 61 sgk Ngữ văn 8 tập 2] Hịch tướng sĩ có lập luận chặt chẽ, sắc bén, giàu hình tượng xúc cảm , do đó có sức thuyết phục cao. Để khích lệ ý thức yêu nước, quyết thắng lợi quân địch xâm lược được trình bày thông qua các lập luận. – Khích lệ lòng căm thù ngoại xâm, nỗi nhục của kẻ mất nước. – Khích lệ ý thức trung quân ái quốc, ý thức ân nghĩa thủy chung. – Khích lệ ý chí lập công danh, vì non sông cũng là vì chính mình. – Khích lệ ý thức trách nhiệm, lòng tự trọng trước điều hơn lẽ thiệt.

→ Những lời tâm huyết, ruột gan của vị tướng có sức lay động mạnh mẽ, truyền cho tướng sĩ, đồng thời khẳng định tình yêu nước tha thiết.

Ảnh minh họa [Nguồn internet]

[adsbygoogle = window.adsbygoogle || []].push[{}];

2

1

2

1

Bài soạn “Hịch tướng sĩ” số 2

Trả lời câu 1 [trang 61, SGK Ngữ văn 8, tập 2] Bố cục: – Đoạn 1 [từ đầu tới “còn lưu tiếng tốt”]: Nêu những gương trung thần nghĩa sĩ trong sử sách để khích lệ ý chí lập công danh, xả thân vì nước. – Đoạn 2 [từ “Huống chi” tới “cũng vui lòng”]: Tố cáo sự hống hách và tội ác của quân địch, đồng thời nói lên lòng căm thù giặc. – Đoạn 3 [từ “Các ngươi” tới “ko muốn vui vẻ phỏng có được ko?”]: Phân tích phải trái, làm rõ đúng sai trong lối sống, trong hành động của các tướng sĩ. – Đoạn 4 [đoạn còn lại]: Nêu nhiệm vụ cụ thể, cấp bách, khích lộ ý thức đấu tranh của tướng sĩ. Trả lời câu 2 [trang 61, SGK Ngữ văn 8, tập 2] Tội ác và sự tai ngược của quân địch: – Quân thù tham lam tàn bạo – Những hình tượng ẩn dụ “lưỡi cú diều”, “thân dê chó” để chỉ sứ Nguyên cho thấy nỗi căm giận và lòng khinh bỉ giặc của Hưng Đạo Vương.Trần Quốc Tuấn đã chỉ ra nỗi nhục lớn của mọi người lúc chủ quyền non sông bị xâm phạm. Trả lời câu 3 [trang 61, SGK Ngữ văn 8, tập 2] Lòng yêu nước căm thù giặc của Trần Quốc Tuấn trình bày qua: + Hành động: quên ăn, mất ngủ, đớn đau tới thắt tim, thắt ruột. + Thái độ: uất ức, căm tức lúc chưa trả thù, sẵn sàng hy sinh để rửa mối nhục cho non sông. Trả lời câu 4 [trang 61, SGK Ngữ văn 8, tập 2] Sau lúc nêu mới ân tình giữa chủ soái và tướng sĩ, Trần Quốc Tuấn phê phán những hành động sai của tướng sĩ, đồng thời khẳng định những hành động nên làm nhằm thức tỉnh sự tự ý thức, trách nhiệm, tự nhìn nhận lại mình để điều chỉnh suy nghĩ cũng như hành động của tướng sĩ. Trả lời câu 5 [trang 61, SGK Ngữ văn 8, tập 2]

Giọng văn rất linh hoạt, có lúc là lời vị chủ soái nói với tướng sĩ dưới quyền, có lúc là lời người cùng ảnh, lúc là lời khuyên răn bộc bạch thiệt hơn, lúc lại là lời nghiêm khắc cảnh cáo.

Trả lời câu 6 [trang 61, SGK Ngữ văn 8, tập 2] Rực rỡ nghệ thuật: – Giọng văn lúc bi thiết nghẹ ngào, lúc sục sôi hùng hồn, lúc mỉa mai giễu cợt, lúc nghiêm khắc như xỉ mắng, lại có lúc ra lệnh dứt khoát. – Kết cấu chặt chẽ, lập luận sắc bén. – Sử dụng kiểu câu nguyên nhân – kết quả. – Biện pháp tu từ: so sánh, điệp từ ngữ, điệp ý tăng tiến, phóng đại … – Sử dụng những hình tượng nghệ thuật gợi cảm, dễ hiểu. Trả lời câu 7 [trang 61, SGK Ngữ văn 8, tập 2] Có thể thấy được cách triển khai lập luận của bài hịch qua sơ đồ kết cấu sau: Khích lệ ý thức yêu nước, ý thức chống giặc ngoại xâmKhích lệ lòng căm thù chống ngoại xâm, nỗi nhục lúc mất nướcKhích lệ ý thức trung quân ái quốc và ý thức trách nhiệm với xã tắc.Khích lệ ý chi nam nhi, lập công danh, vì non sông cũng là vì bản thân mìnhKhích lệ lòng tự trọng dân tộc, lòng tự trọng tư nhân. Luyện tập Câu 1 [trang 61, SGK Ngữ văn 8, tập 2]. Phát biểu cảm nhận về lòng yêu nước của Trần Quốc Tuấn được trình bày qua bài hịch. Trả lời: Đọc bài hịch, ta có cảm tưởng như mỗi chữ, mỗi câu văn đều là những lời ruột gan của người người hùng Trần Quốc Tuấn. Sau những câu văn hùng hồn, thấm đượm là hình ảnh người người hùng yêu nước xót đau tới quặn lòng vì nước non bị quân thù giày xéo, là ngọn lửa căm thù hừng hực cháy trong tim, là sự nóng lòng rửa nhục tới quên ăn mất ngủ. Khi bộc bạch những đớn đau dằn vặt tự đáy lòng mình, chính Trần Quốc Tuấn đã nêu ra một tấm gương quật cường về lòng yêu nước để cho tướng sĩ noi theo. Và như thế cũng có tức là nó có sức động viên rất lớn đối với ý thức tướng sĩ. Tham khảo đoạn văn: “…Lòng yêu nước của Trần Quốc Tuấn trong Hịch tướng sĩ là nỗi lo cho dân cho nước; là tầm nhìn chiến lược để có một kế sách vẹn toàn cho cuộc khởi binh. Tình cảm thiết tha với dân với nước đó được vị tướng quân viết lên bằng cả nỗi lòng mình; viết lên từ những trằn trọc lo lắng băng qua những “bữa quên ăn”, những “đêm vỗ gối”, những lần “ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa”. Tình yêu của tác giả hiện hữu mạnh mẽ theo đúng kiểu lính nhà binh “chỉ căm tức chưa xả thịt lột da, nuốt gan uống máu quân thù”. Làm xong điều đó thì “dẫu trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa ta cũng vui lòng”. Yêu nước với Trần Quốc Tuấn trong thời khắc đó tức là phải biết lo cho dân cho nước, phải biết xả thân, biết kết đoàn một lòng. Tất cả những điều đó phát sinh từ một động lực, một mục tiêu lớn lao: yêu nước, xoá sổ giặc thù…” [Ngô Tuần] Câu 2* [trang 61, SGK Ngữ văn 8, tập 2]. Chứng minh bài Hịch tướng sĩ vừa có lập luận chặt chẽ, sắc bén vừa giàu hình tượng, xúc cảm, do đó có sức thuyết phục cao. Trả lời: Tham khảo đoạn văn sau. “…Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn đặc trưng sắc sảo trong lời văn và hiệu quả ở giọng điệu. Tác giả mở đầu tác phẩm ko hề rào đón nhưng mà trực tiếp nêu cao khí tiết của những người người hùng trong lịch sử. Đặt vấn đề theo cách này, Hưng Đạo Vương đã ngay ngay lập tức khơi đúng vào cái mạch truyền thống của “con nhà võ tướng” – đó là cái trình bày và sự xả thân. Lời lẽ hùng hồn khiến quân lính đều phải tự nhìn lại chính mình, xem mình đã làm được gì cho dân, cho nước. Trong trình diễn luận điểm, chúng ta dễ dàng nhận thấy, Trần Quốc Tuấn luôn gắn liền quyền lợi và nghĩa vụ của mình với dân với nước, đặt ngang hàng quyền lợi của mình với muôn nghìn tướng sĩ. Binh lính vì thế nhưng mà vừa tin tưởng, vừa nể sợ vị đại tướng quân. Và tương tự cũng có tức là tướng sĩ trên dưới một lòng. Sự khôn khéo của Trần Quốc Tuấn trong lập luận còn nằm ở chỗ, tác giả xen kết hài hoà giữa phê phán và khích lệ, kiểm điểm với động viên. Điều cốt yếu nhất nhưng mà Đại vương đã làm được đó là khơi vào nỗi nhục của bản thân và quốc thể từ đó nhưng mà thắp lên sự căm hờn trong mỗi người: “Chẳng những gia quyến của ta bị tan nhưng mà vợ con các ngươi cũng khốn, không những tổ tông ta bị giày xéo, nhưng mà phần mộ cha mẹ các ngươi cũng bị quật lên”. Câu văn khơi gợi vô cùng bởi chẳng người nào là ko phẫn uất, ko muốn đứng lên xoá sổ những kẻ dã tâm giày xéo, giày đạp man di lên quê hương, non sông, gia đình mình.

Lời hịch của Trần Quốc Tuấn cứ thế thắt mở thu hút quân sĩ vào trận đấu. Cứ thế tạo cho họ một tâm thế, một khí thế sục sôi sẵn sàng tuân theo thượng lệnh nhưng mà ra trận. Tuy nhiên sự thuyết phục của Hịch tướng sĩ còn ở giọng điệu hùng hồn, ở những hình ảnh và những câu văn giàu xúc cảm. Thử hỏi có người nào ko thấy nhục lúc “ngó thấy sứ thần đi lại ngông nghênh ngoài đường, uốn lưỡi cú diều nhưng mà sỉ mắng triều đình, đem thân dê chó nhưng mà bắt nạt tế phụ…”. Câu văn rất giàu hình ảnh và xúc cảm. Lối ví von hình tượng dấy lên lòng tự ái, tự trọng dân tộc trong lòng mỗi con người.

Hoặc có lúc tự viết về mình, câu văn của Đại vương cũng rất giàu hình ảnh và đầy tâm tình “Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa…”. Một câu văn nhưng mà xen chồng liên tục nhiều vị ngữ. Tất cả đều vừa giàu hình ảnh lại vừa tràn trề xúc cảm. Nó hừng hực sôi trào và căm giận xiết bao. Hịch tướng sĩ còn rất nhiều câu văn giàu hình ảnh. Nó cộm lại rồi cuộn lên có lúc như dòng thác. Hơi văn như hơi thở mạnh hừng hực khí thế khiến người đọc liên tục bị cuốn theo và rồi bị thuyết phục ko biết tự lúc nào…”

[Ngô Tuần] Tóm tắt Hịch tướng sĩ là một áng văn chính luận xuất sắc nhằm kêu gọi, khích lệ ý thức yêu nước, lòng tự trọng, tự trọng và ý chí chống giặc ngoại xâm của các tướng sĩ. Mở đầu bài hịch, Trần Quốc Tuấn nêu những gương trung thần nghĩa sĩ trong sử sách. Tiếp theo Ngài tố cáo sự hống hách và tội ác của quân địch để khơi dậy lòng căm thù giặc của tướng sĩ. Ngài còn nói lên mối ân tình giữa chủ soái và tướng sĩ đồng thời Ngài phân tích phải trái, đúng sai, định hướng hàng ngũ quân sĩ và khẳng định những hành động nên làm. ND chính

Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn phản ánh ý thức yêu nước nồng nàn của dân tộc ta trong trận đấu chống ngoại xâm, trình bày lòng căm thù giặc, ý chí quyết đấu, quyết thắng quân địch xâm lược.

Ảnh minh họa [Nguồn internet]

3

0

3

0

Bài soạn “Hịch tướng sĩ” số 3

A. KIẾN THỨC TRỌNG TÂM 1. Tác giả Trần Quốc Tuấn: [1231?-1300] tước Hưng Đạo Vương là một danh tướng kiệt xuất của dân tộc.Năm 1285, 1287 quân Mông – Nguyên xâm lược nước ta ông được cử làm Tiết chế thống lĩnh các đạo quân, cả hai lần kháng chiến đều thắng lợi vẻ vang.Sau lúc ông mất, nhân dân tôn ông là Đức thánh Trần và lập đền thờ ở nhiều nơi trên non sông.2. Thể loại Hịch là thể văn nghị luận thời xưa, thường được vua chúa, tướng soái hoặc thủ lĩnh một phong trào dùng để cổ động, thuyết phục hoặc kêu gọi đấu tranh chống thù trong, giặc ngoài.Hịch có kết cấu chặt chẽ, có lĩ lẽ sắc bén, có dẫn chứng thuyết phục. Đặc điểm nổi trội đó là khích lệ tình cảm, ý thức người nghe. Thường được viết theo kiểu văn biền ngẫu, kết cấu thay đổi linh hoạt tùy theo mục tiêu và nghệ thuật lập luận của tác giả.3. Tác phẩm Hịch tướng sĩ viết vào khoảng trước cuộc kháng chiến chống quân Mông – Nguyên lần thứ hai [1285]. Ở bài hịch này, tác giả ko nêu phần đặt vấn đề riêng vì toàn thể bài hịch là nêu vấn đề và khắc phục vấn đề. Bài Hịch này được làm để khích lệ ý thức tướng sĩ học tập Binh thư yếu lược do chính Trần Quốc Tuấn soạn thảo. B. BÀI TẬP VÀ HƯỚNG DẪN GIẢI Câu 1: Trang 61 sgk ngữ văn 8 tập 2

Bài hịch có thể chia làm mấy đoạn? Nêu ý chính của từng đoạn.Bài làm:Bài hịch có thể phân thành 4 đoạn:Đoạn 1 [từ đầu tới “tới nay còn lưu tiếng tốt.”]: tác giả nêu ra các gương “trung thần nghĩa sĩ, bỏ mình vì nước” đã được lưu truyền trong sử sách để khích lệ lòng người.Đoạn 2 [từ “Huống chi ta” tới “ta cũng vui lòng.”]: từ việc phơi bày gương mặt xấu xa của sứ giặc, tác giả bộc bạch lòng căm thù giặc thâm thúy.Đoạn 3 [từ “Các ngươi ở cùng ta” tới “ko muốn vui vẻ phỏng có được ko ?”]: từ khắc sâu mối gắn bó ân tình giữa chủ và tướng, tác giả phân tích rõ thiệt hơn, được mất, đúng sai để chỉnh đốn những sai lạc trong hàng ngũ tướng sĩ và đi tới việc vạch ra đường hướng hành động đúng, hứa hứa tương lai.Đoạn 4 [từ “Nay ta chọn binh pháp” tới hết]: nêu ra việc trước mắt phải làm và kết thúc bằng những lời khích lệ nghĩa khí tướng sĩ.Câu 2: Trang 61 sgk ngữ văn 8 tập 2Sự tai ngược và tội ác của giặc được lột tả như thế nào? Đoạn văn tố cáo tội ác giặc đã khơi gợi được điều gì ở tướng sĩ?ài làm:Sự tai ngược và tội ác của giặc được lột tả như sau:Những hành động trình bày sự tham lam tàn bạo: đòi ngọc lụa, hạch sách bạc vàng, vét kiệt của kho có hạn, hung hãn như hổ đói, tai ngược đi lại ngông nghênh ngoài đường, bắt nạt tể phụ.Những hình ảnh ẩn dụ “lưỡi cú diều”, “thân dê chó” để chỉ sứ Nguyên cho thấy nỗi căm giận và lòng khinh bỉ giặc của Hưng Đạo Vương.Đoạn văn tố cáo tội ác giặc đã khơi gợi được: lòng căm thù giặc, khích lệ ý thức yêu nước quật cường, ý thức trách nhiệm và nghĩa vụ của tướng sĩ.Câu 3: Trang 61 sgk ngữ văn 8 tập 2Phân tích lòng yêu nước, căm thù giặc của Trần Quốc Tuấn qua đoạn văn tác giả tự nói lên nỗi lòng mình.Bài làm:Lòng yêu nước căm thù giặc của Trần Quốc Tuấn trước hết trình bày qua những hành động và thái độ của ôngHành động: “tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa”. Đó là những hành động diễn ra thường xuyên, theo mức độ tăng tiến dần: từ ko ăn, tới ko ngủ, tới ruột đau như cắt cuối cùng là nước mắt rơi đầm đìa.Thái độ: uất ức, căm tức lúc chưa trả thù, sẵn sàng hy sinh để rửa mối nhục cho non sông. Những câu văn biền ngẫu và những động từ mạnh liên tục được sử dụng chỉ trong một đoạn văn ngắn “chưa xả được thịt lột da, nuốt gan uống máu quân thù”.=> Những câu văn biền ngẫu, dài với những vế câu ngắn tạo thành nhịp độ lập cập, gấp gáp cũng đồng thời trình bày sự căm thù giặc tới tận xương tủy, sự phẫn uất tới nghẹn lòng và lòng yêu nước thâm thúy của vị chủ tưởng lúc chứng kiến cảnh tượng giặc ngoại xâm giày xéo lên mảnh đất ông cha, nhân dân ta chịu nhiều khổ nhục.Đặc trưng thể giả trình bày quyết tâm của mình bằng câu văn: “Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng vui lòng”. Câu nói giống như một lời thề đầy sức mạnh của người chủ tướng. Cũng vì thế nhưng mà khơi dậy được ý chí đấu tranh của đấu sĩ dưới trướng của mình.Câu 4: Trang 61 sgk ngữ văn 8 tập 2Sau lúc nêu mối ân tình giữa chủ soái và tướng sĩ, Trần Quốc Tuấn phê phán những hành động sai trái của tướng sĩ, đồng thời khẳng định những hành động đúng nên làm là có dụng ý gì? Khi phê phán hay khẳng định, tác giả tập trung vào vấn đề gì? Vì sao phải tương tự?Bài làm:Sau lúc nêu mối ân tình giữa chủ soái và tướng sĩ, Trần Quốc Tuấn phê phán những hành động sai trái đồng thời khẳng định những hành động đúng của tướng sĩ:a] Những hành động sai tráiNhìn chủ nhục nhưng mà ko biết lo, thấy nước nhục nhưng mà ko biết thẹnLàm tướng triều đình phải hầu quân giặc nhưng mà ko thấy tức, nghe nhạc thái thường để đãi yến nhưng mà ko thấy cămHoặc lấy việc chọi gà làm vui đùa, hoặc lấy việc đánh bạc làm tiêu khiển, hoặc vui thú vườn ruộng, hoặc quyến luyến vợ con,Hoặc lo làm giàu nhưng mà quên việc nước, hoặc ham săn bắn nhưng mà quên việc binhHoặc thích rượu ngon, hoặc mê tiếng hátb] Những hành động đúng nên làm Nên nhớ câu “đặt mồi lửa vào dưới đống củi” là nguy cơ, nên lấy điều “kiềng canh nóng nhưng mà thổi rau nguội” là răn sợ.Huấn luyện quân sĩ, tập luyện cung tên; làm cho người người giỏi như Bàng Mông, nhà nhà đều là Hậu Nghệ, có thể bêu được đầu Hốt Tất Liệt ở cửa khuyết, làm rữa thịt Vân Cao Vương ở Cao NhaiTác giả liệt kê những hành động sai trái của tướng sĩ là có dụng ý: phê phán và thức tỉnh sự tự ý thức, trách nhiệm, tự nhìn nhận lại mình để điều chỉnh suy nghĩ cũng như hành động của tướng sĩ.Khi phê phán hay khẳng định, tác giả tập trung vào vấn đề: đề cao ý thức cảnh giác, chăm lo rèn luyện để thắng lợi quân địch xâm lược, để lúc giặc tấn công bất thần ta cũng ko ở thế thụ động nhưng mà luôn chủ động, sẵn sàng đấu tranh trong bất kì hoàn cảnh nào.Tác giả tập trung vào việc đề cao ý thức cảnh giác bởi vì: bài hịch này dù trực tiếp là nhằm khích lệ tiến sĩ học tập cuốn Binh thư yếu lược do chính Trần Quốc Tuấn biên soạn, nhưng mục tiêu cao nhất chính là kêu gọi ý thức yêu nước quyết đấu quyết thắng với ngoại xâm.Câu 5: Trang 61 sgk ngữ văn 8 tập 2Giọng văn là lời vị chủ soái nói với tướng sĩ dưới quyền hay là lời người cùng tình cảnh? Là lời khuyên răn bộc bạch thiệt hơn hay là lời nghiêm khắc cảnh cáo? Cách viết của tác giả có tác động tới tướng sĩ như thế nào?Bài làm:Giọng văn được tác giả chuyển đổi rất linh hoạt, có lúc là lời vị chủ soái nói với tướng sĩ dưới quyền, có lúc là lời người cùng ảnh, lúc là lời khuyên răn bộc bạch thiệt hơn, lúc lại là lời nghiêm khắc cảnh cáo.Việc thay đổi giọng điệu một cách linh hoạt trong bài hịch của tác giả có tác động mạnh mẽ tới tới tướng sĩ:Sự thay đổi giọng điệu tương tự thích hợp với nội dung xúc cảm và thái độ của tác giả, rất thích hợp với đặc trưng của một bài hịch, một bài phủ dụ binh línhSự chuyển đổi trong giọng điệu làm cho người tướng soái ko còn đứng ở vị trí của người có quyền lực cao hơn nhưng mà dường như thấu hiểu, đặt mình ở vị trí của quân lính, nó ko còn là lời răn dạy một cách khuôn mẫu, khô khan nhưng mà trái lại giống như lời bộc bạch thân tình giữa những người bạn, người thân. Nhưng ko vì thế nhưng mà làm mất đi uy nghiêm của vị chủ tướng nhưng mà nó còn phát triển hơn vị thế của con người đó.Không chỉ thế, nó còn tác động cả về trí lẫn tình cảm, khơi dậy trách nhiệm của mọi người đối với non sông, với vị chủ tưởng và với cả bản thân họ cũng như gia đình của họ nữa.Câu 6: Trang 61 sgk ngữ văn 8 tập 2Hãy nêu một số rực rỡ nghệ thuật đã tạo nên sức thuyết phục người đọc bằng cả nhận thức và tình cảm ở bài Hịch tướng sĩ.Bài làm:Những rực rỡ nghệ thuật đã tạo nên sức thuyết phục người đọc bằng cả nhận thức và tình cảm ở bài Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn:Giọng văn chuyển đổi linh hoạt, nhiều chủng loại: lúc bi thiết nghẹ ngào, lúc sục sôi hùng hồn, lúc mỉa mai giễu cợt, lúc nghiêm khắc như xỉ mắng, lại có lúc ra lệnh dứt khoát làm cho bài hịch vừa rắn rỏi, vừa mềm mỏng, ko rơi vào tình trạng giáo điều khô giòn, cũng ko phải là sự ủy mị, lãng mạn.Kết cấu chặt chẽ, lập luận sắc bén với hệ thống luận điểm, dẫn chứng rõ ràng, đầy thuyết phục: tác giả đi từ những tấm gương trong sử sách – sự thực ko người nào có thể chối cãi-> thổ lộ tấm lòng mình -> ân nghĩa của chủ tưởng đối với đấu sĩ -> những việc làm sai trái của họ -> những việc họ nên làm -> gợi ý sách nên đọc -> kết luậnSử dụng kiểu câu nguyên nhân – kết quả phân tích được rõ thiệt hơn, tình hình thực tiễn và trong tương lai của những con người đó.Biện pháp tu từ: so sánh, điệp từ ngữ, điệp ý tăng tiến, phóng đại đặc trưng là tác giả sử dụng dày đặc các câu văn biền ngẫu sóng đôi – một đặc trưng của văn học trung đại, tạo nên nhịp độ gấp gáp, lập cập, hối thúc cho bài hịch.Sử dụng những hình tượng nghệ thuật vừa thân thiện, thân thuộc, dễ hiểu nhưng lại vô cùng giàu sức gợi.Câu 7: Trang 61 sgk ngữ văn 8 tập 2Khích lệ nhiều mặt để tập trung vào một hướng, đó là cách triển khai lập luận của bài Hịch tướng sĩ. Hãy làm sáng tỏ điều này bằng một sơ đồ về kết cấu của bài hịch.Bài làm:Khích lệ lòng căm thù giặc giặc, mối hận của kẻ bị cướp nướcKhích lệ ý thức ái nước, tình cảm của những người cùng tình cảnh.Khích lệ ý thức lập công và ý chí xả thân vì nước của quân lính.Khích lệ ý thức tư nhân trước vận mệnh của quốc gia, dân tộc.Để cuối cùng: Khích lệ ý thức yêu nước và quyết tâm kháng thắng lợi lợi.Luyện tậpBài tập 1: Trang 62 sgk ngữ ngữ 8 tập 2Phát biểu cảm nhận về lòng yêu nước của Trần Quốc Tuấn được trình bày qua bài hịchBài làm:Lòng yêu nước là tình cảm thiêng liêng và vô giá của con người. Nhờ thứ tình cảm đó nhưng mà nhân dân ta đã trải qua biết bao sóng gió, thăng trầm, đã từng phải đương đầu với những quân địch mạnh nhất toàn cầu nhưng nhân dân ta chưa bao giờ nao núng. Tấm lòng yêu nước của vị chủ tướng Trần Quốc Tuấn cũng được trình bày thật cảm động qua bài Hịch tướng sĩ. Hịch tướng sĩ được Trần Quốc Tuấn viết vào khoảng trước cuộc kháng chiến chống quân Mông – Nguyên lần thứ hai [1285]. Bài hịch là lời kêu gọi ý chí đấu tranh và sự thức tỉnh của tướng soái và đấu sĩ trước những hành động tai ngược, bạo tàn của quân địch. Qua đó cũng trình bày tình yêu nước nồng nàn và lòng căm thù giặc thâm thúy cùng ý chí đấu tranh quyết đấu, quyết thắng quân địch xâm lược của Trần Quốc Tuấn.Lòng yêu nước của Trần Quốc Tuấn được trình bày trước hết qua lời thổ lộ tấm lòng mình với những đấu sĩ:”Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa”. Đó là những hành động diễn ra thường xuyên, theo mức độ tăng tiến dần: từ ko ăn, tới ko ngủ, tới ruột đau như cắt cuối cùng là nước mắt rơi đầm đìa. cùng với đó là một thái độ uất ức, căm tức lúc chưa trả thù, sẵn sàng hy sinh để rửa mối nhục cho non sông. Những câu văn biền ngẫu và những động từ mạnh liên tục được sử dụng chỉ trong một đoạn văn ngắn “chưa xả được thịt lột da, nuốt gan uống máu quân thù”. Những câu văn biền ngẫu, dài với những vế câu ngắn tạo thành nhịp độ lập cập, gấp gáp cũng đồng thời trình bày sự căm thù giặc tới tận xương tủy, sự phẫn uất tới nghẹn lòng và lòng yêu nước thâm thúy của vị chủ tưởng lúc chứng kiến cảnh tượng giặc ngoại xâm giày xéo lên mảnh đất ông cha, nhân dân ta chịu nhiều khổ nhục.Đặc trưng thể giả trình bày quyết tâm của mình bằng câu văn: “Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng vui lòng”. Câu nói giống như một lời thề đầy sức mạnh của người chủ tướng. Cũng vì thế nhưng mà khơi dậy được ý chí đấu tranh của đấu sĩ dưới trướng của mình. Lời thề đó cũng trở thành kim chỉ nam cho mọi hành động của Trần Quốc Tuấn. Tất cả những gì ông làm, ông khát khao chỉ vì một mục tiêu duy nhất là non sông được tự do, độc lập, nhân dân no ấm, hạnh phúc và thừa hưởng một cuộc sống bình yên.Không chỉ vậy, lòng yêu nước của Trần Quốc Tuấn còn được trình bày qua việc ông nhìn rõ được những việc làm sai trái của quân lính, lúc họ ngủ quên trong thắng lợi quá lâu nhưng mà lơ là mất cảnh giác và những việc họ cần làm và nên làm. Tác giả liệt kê những hành động sai trái của tướng sĩ nhằm phê phán và thức tỉnh sự tự ý thức, trách nhiệm, tự nhìn nhận lại mình để điều chỉnh suy nghĩ cũng như hành động của tướng sĩ. Khi phê phán hay khẳng định, tác giả tập trung vào việc đề cao ý thức cảnh giác, chăm lo rèn luyện để thắng lợi quân địch xâm lược, để lúc giặc tấn công bất thần ta cũng ko ở thế thụ động nhưng mà luôn chủ động, sẵn sàng đấu tranh trong bất kì hoàn cảnh nào. Tác giả tập trung vào việc đề cao ý thức cảnh giác bởi vì bài hịch này dù trực tiếp là nhằm khích lệ tiến sĩ học tập cuốn Binh thư yếu lược do chính Trần Quốc Tuấn biên soạn, nhưng mục tiêu cao nhất chính là kêu gọi ý thức yêu nước quyết đấu quyết thắng với ngoại xâm.Như vậy, Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn ko chỉ là lời phủ dụ kêu gọi sự thức tỉnh ý thức đấu tranh của đấu sĩ, đề cao ý thức cảnh giác chứ ko được ngủ quên trong thắng lợi nhưng mà còn trình bày được tấm lòng yêu nước nồng nàn của ông.Bài tập 2: Trang 61 sgk Ngữ Văn 8 tập 2Chứng minh bài Hịch tướng sĩ vừa có lập luận chặt chẽ, sắc bén vừa giàu hình tượng, xúc cảm, do đó có sức thuyết phục cao.Bài làm:Bài Hịch tướng sĩ vừa có lập luận chặt chẽ, sắc bén vừa giàu hình tượng, xúc cảm, do đó có sức thuyết phục cao:Lập luận chặt chẽ: Khẳng định việc làm sai trái dẫn tới hậu quả tai hại thông qua những lời phê phán mạnh mẽ đượ đưa ra mộ cách dồn dập :”“Nếu có giặc Mông Thát tràn sang thì cựa gà trông ko thề đâm thùng áo giáp giặc, mẹo cờ hạc ko thể dùng làm mưu lược nhà binh ; dẫu rằng ruộng lắm vườn nhiều, tấm thân quý nghìn vàng khôn chuộc, vả lại vợ bìu con díu, việc quân cơ trăm sự ích chi ; tiền tài tuy nhiều khôn sắm được dầu giặc, chó săn tuy khỏe ko đuổi được quân thù ; chén rượu ngon ko thể làm cho giặc say chết, tiếng hát hay ko thể làm cho giặc điếc tai. Lúc bấy giờ ta cùng các ngươi sẽ bị bắt, dau xót biết chừng nào “Lập luận giàu hình tượng, xúc cảm, có sức thuyết phục cao:Những hình tượng án dụ sinh động, gợi cảm :” uốn lưỡi cú diều, thân dê chó…”;Hình tượng so sánh, cụ thể : “người người giỏi như Bàng Mông, nhà nhà đều là Hậu Nghệ”; “có thể bêu dầu Hốt Tất Liệt ở cửa khuyết, làm rửa thịt Vân Nam Vương ở Cảo Nhai…”Những hình ảnh dễ hiểu : cựa gà trống, áo giáp, mẹo cờ bạc… => Bài hịch tướng sĩ được viết bằng cả tâm huyết của tác giả với xúc cảm tuôn trào, lời văn thống thiết, có sức thu hút mạnh mẽ. Chính vì thế bài Hịch trở thành một sức mạnh ý thức góp phần khích lệ ý thức chiến sĩ, đóng góp vào thắng lợi vẻ vang của dân tộc

Ảnh minh họa [Nguồn internet]

4

0

4

0

Bài soạn “Hịch tướng sĩ” số 4

I – KIẾN THỨC CƠ BẢN CẦN NẮM VỮNG 1. Trần Quốc Tuấn [1231 -1300], tước Hưng Đạo Vương, là một danh tướng kiệt xuất của dân tộc. 2. Hịch là một thể văn thư cổ nhưng mà các tướng soái, vua chúa hoặc thủ lĩnh một tổ chức, một phong trào dùng để kêu gọi động viên mọi người tích cực đấu tranh xoá sổ quân địch. Hịch thường được viết theo lối văn tứ lục, cũng có lúc viết bằng văn xuôi hay thơ lục bát. Một bài hịch thường được cấu trúc theo ba phần chính : – Phần đầu : Nêu lên một nguyên lí đạo đức hay chính trị làm cơ sở tư tưởng, lí luận. – Phần giữa : Nêu thực trạng đáng chú ý [thường là kể tội quân địch]. – Phần cuối: Nêu giải pháp và lời kêu gọi đấu tranh. 3. Hịch tướng sĩ trình bày ý thức yêu nước thâm thúy của vị tướng Trần Quốc Tuấn, cũng là của nhân dân ta. Tinh thần đó được chứng tỏ qua lòng căm thù cao độ, ý chí quyết đấu, quyết thắng quật cường trước giặc ngoại xâm. Hịch tướng sĩ là một áng văn chính luận rực rỡ, với phong cách văn biền ngẫu có sức lay động lòng người. Với kết cấu chặt chẽ, bài hịch cho thấy sự liên kết thuần thục giữa lí lẽ với tình cảm, giữa lập luận với hình ảnh, dẫn chứng giàu sức thuyết phục. II – HƯỚNG DẪN ĐỌC – HIỂU VĂN BẢN Câu 1. Bố cục của toàn bài: – Đoạn 1 [từ đầu tới “tới nay còn lưu tiếng tốt”] : Tác giả nêu ra các gương “trung thần nghĩa sĩ, bỏ mình vì nước” đã được lưu truyền trong sử sách để khích lệ lòng người. – Đoạn 2 [từ “Huống chi ta” tới “ta cũng vui lòng”] : Từ việc phơi bày gương mặt xấu xa của sứ giặc, tác giả bộc bạch lòng căm thù giặc thâm thúy. – Đoạn 3 [từ “Các ngươi ở cùng ta” tới “ko muốn vui vẻ phỏng có được ko ?”] : Từ khắc sâu mối gắn bó ân tình giữa chủ và tướng, tác giả phân tích rõ thiệt hơn, được mất, đúng sai để chân chỉnh những sai lạc trong hàng ngũ tướng sĩ [từ “Các ngươi” tới “muốn vui vẻ phỏng có được ko ?”] và đi tới việc vạch ra đường hướng hành động đúng, hứa hứa tương lai [từ “Nay ta bảo thật” tới “ko muốn vui vẻ phỏng có được ko ?”]. – Đoạn 4 [từ “Nay ta chọn binh pháp” tới hết] : Nêu ra việc trước mắt phải làm và kết thúc bằng những lời khích lệ nghĩa khí tướng sĩ. Câu 2. Tác giả lột tả sự tai ngược và tội ác của giặc : – Khuôn mặt của quân giặc được phơi bày bằng những sự việc trong thực tiễn : đi lại ngông nghênh, sỉ mắng triều đình, bắt nạt tể phụ, đòi ngọc lụa, thu vàng bạc, vét của kho có hạn… – Để lột tả sự tai ngược và tội ác tham tàn của giặc, đồng thời bộc bạch thái độ căm thù, khinh bỉ tột bậc, tác giả đã dùng lối nói hình ảnh so sánh, ẩn dụ : + Hình ảnh chỉ quân giặc : lưỡi cú diều, thân dê chó, hổ đói. + Các hình ảnh được đặt trong thế đôi sánh để tỏ rõ thái độ căm thù, khinh bỉ : uốn lưỡi cú diều – sỉ mắng triều đình, đem thân dê chó – bắt nạt tể phụ.Tố cáo tội ác của giặc, tác giả đã khơi gợi lòng tự trọng dân tộc, khắc sâu lòng căm thù ngoại xâm ở tướng sĩ. Câu 3. Sau lúc tố cáo tội ác của giặc, Trần Quốc Tuấn đã bộc bạch lòng yêu nước, căm thù giặc của mình. Có thể xem đây là đoạn văn hay nhất của bài hịch : – Nỗi đau trước cảnh nước mất nhà tan được diễn tả thống thiết : quên ăn, mất ngủ, lòng đau như dao cắt, nước mắt đầm đìa. Uất hận trào dâng tới đỉnh điểm lúc tác giả bộc lộ thái độ của mình đốì với quân địch : chỉ căm tức chưa được xả thịt lột da, nuốt gan uống máu quân thù. – Vị tướng đã tự xác định một ý thức hi sinh hết mình cho non sông : Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng vui lòng. – Qua đoạn văn này, hình tượng người người hùng yêu nước, sẵn sàng xả thân vì non sông được khắc hoạ rõ nét. Những lời tâm huyết, ruột gan của vị tướng có sức lay động mạnh mẽ, truyền cho tướng sĩ ý thức yêu nước nồng nàn, lòng căm thù giặc sục sôi và một thái độ xả thân, chấp nhận hi sinh vì non sông xã tắc. Câu 4. Sau lúc nêu mối ân tình giữa chủ soái và tướng sĩ, Trần Quốc Tuấn phê phán những hành động sai của tướng sĩ, đồng thời khẳng định những hành động nên làm nhằm thức tỉnh sự tự ý thức, trách nhiệm, tự nhìn nhận lại mình để điều chỉnh suy nghĩ cũng như hành động của tướng sĩ. Khi phê phán hay khẳng định, tác giả đều tập trung vào vân đề đề cao ý thức cảnh giác, chăm lo rèn luyện để thắng lợi quân địch xâm lược. Bởi vì, bài hịch này dù trực tiếp là nhằm khích lệ tướng sĩ học tập cuốn Binh thư yếu lược do chính Trần Quốc Tuấn biên soạn, nhưng mục tiêu cao nhất là kêu gọi ý thức yêu nước, quyết đấu quyết thắng với ngoại xâm. Câu 5. Giọng văn lúc thìa là của vị chủ soái với tướng sĩ dưới quyền, lúc lại là của người cùng tình cảnh [suy cho cùng, chủ soái hay tướng sĩ lúc non sông lâm nguy thì đều cùng một tình cảnh] : – Khi muốn bộc bạch ân tình hay khuyên răn thiệt hơn, tác giả lấy giọng thân thiện, chân tình của người cùng chung tình cảnh để nói : “Các ngươi ở cùng ta coi giữ binh quyền đã lâu ngày, […] lúc trận mạc xông pha thì cùng nhau sống chết, lúc ở nhà nhàn hạ thì cùng nhau vui cười.”, “Lúc bấy giờ, ta cùng các ngươi sẽ bị bắt, đau xót biết chừng nào ! Chẳng những thái ấp của ta ko còn, nhưng mà bổng lộc của các ngươi cũng mất; không những gia quyến của ta bị tan, nhưng mà vợ con các ngươi cũng khốn ; không những xã tắc tổ tông ta bị giày xéo, nhưng mà phần mộ cha mẹ các ngươi cũng bị quật lên…”. – Khi nghiêm khắc quở trách, cảnh cáo những hành động sai, thái độ thờ ơ, vô trách nhiệm của tướng sĩ trước vận mệnh non sông, tác giả thẳng thắn đưa ra những lời lẽ gay gắt, như là sỉ mắng : “ko biết lo”, “ko biết thẹn”, “ko biết tức”, “ko biết căm”… Thực ra, “gia thần của ông như Dã Tượng, Yết Kiêu, các môn khách như Phạm Ngũ Lão, Trần Thì Kiến, Trương Hán Siêu, Phạm Lãm, Trịnh Dũ, Ngô Sĩ Thường, Nguyễn Thế Trực,… đều là những người trung nghĩa. Trung tức là nét nổi trội của ý thức Đông A. Cho nên, số người cầu an, hưởng lạc tuy vẫn có, nhưng có phần chắc là Trần Quốc Tuấn dùng phép khích tướng, kích họ bằng sỉ nhục, đẩy họ vào thế phải chứng tỏ tấm lòng biết lo, biết thẹn, biết tức, biết căm nhưng mà đồng lòng hiệp sức cùng chủ tướng đánh dẹp quân thù.” [Trần Đình Sử] – Dù là khuyên răn bộc bạch thiệt hơn hay là lời nghiêm khắc cảnh cáo thì cũng đều nhằm khơi dậy ý thức về trách nhiệm, trách nhiệm của tướng sĩ đốì với giang sơn xã tắc, đều hướng tới cái đích kêu gọi đồng tâm hợp lực xoá sổ quân xâm lược, ứng phó với quân địch. Câu 6. Một số rực rỡ nghệ thuật đã tạo nên sức thuyết phục cho bài Hịch tướng sĩ : – Thủ pháp so sánh – tương phản : đoạn 2, 3. – Thủ pháp hùng điệp – tăng tiến được sử dung liên kết với thủ pháp so sánh – tương phản, các điệp từ, điệp ngữ, điệp ý được sử dụng triệt để nhằm tạo ra âm hưởng cho bài hịch, đồng thời gợi, khắc sâu vào tâm trí người đọc [chú ý đoạn 3].

Câu 7. Khích lệ nhiều mặt để tập trung vào một hướng, đó là cách triển khai lập luận của bài Hịch tướng sĩ. Có thể tưởng tượng sự triển khai lập luận này qua sơ đồ sau :Khích lệ ý thức yêu nước, ý thức chống giặc ngoại xâmKhích lệ lòng căm thù chống ngoại xâm, nỗi nhục lúc mất nướcKhích lệ ý thức trung quân ái quốc và ý thức trách nhiệm với xã tắc.Khích lệ ý chi nam nhi, lập công danh, vì non sông cũng là vì bản thân mìnhKhích lệ lòng tự trọng dân tộc, lòng tự trọng tư nhân.

Ảnh minh họa [Nguồn internet]

5

0

5

0

Bài soạn “Hịch tướng sĩ” số 5

I. VỀ TÁC GIẢ VÀ TÁC PHẨM 1. Tác giả Trần Quốc Tuấn [1231? – 1300], tước Hưng Đạo Vương là một danh tướng kiệt xuất của dân tộc. Năm 1285 và năm 1287, quân Mông – Nguyên xâm lược nước ta, lần nào ông cũng được Trần Nhân Tông cử làm Tiết chế thống lĩnh các đạo quân ra trận, và cả hai lần đều thắng lợi vẻ vang. Đời Trần Anh Tông, ông về trí sĩ ở Vạn Kiếp [nay là xã Hưng Đạo, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương] rồi mất ở đấy. Nhân dân tôn thờ ông là Đức thánh Trần và lập đền thờ ở nhiều nơi trên non sông. 2. Thể loại Một thể văn thư cổ nhưng mà các tướng soái, vua chúa hoặc người thủ lĩnh một tổ chức, một phong trào dùng để kêu gọi động viên mọi người tích cực đấu tranh xoá sổ quân địch. Bài hịch tiêu biểu và có trị giá nhất trong văn học Việt Nam là bài Hịch tướng sĩ văn của Trần Hưng Đạo [thế kỉ XIII]. Thời kì Pháp xâm lược nước ta [nửa sau thế kỉ XIX] nhiều hịch bằng chữ Nôm xuất hiện và được lưu truyền rộng rãi trong nhân dân [như Hịch đánh Tây của Lãnh Cồ, Hịch đánh chuột của Nguyễn Đình Chiểu…]. Hịch thường được viết theo lối văn tứ lục, cũng có lúc viết bằng văn xuôi hay thơ lục bát. Một bài hịch thường được cấu trúc theo ba phần chính: Phần đầu: nêu lên một nguyên lí đạo đức hay chính trị làm cơ sở tư tưởng, lí luận. Phần giữa: nêu thực trạng đáng chú ý [thường là kể tội quân địch]. Phần cuối: nêu giải pháp và lời kêu gọi đấu tranh. Hịch viết xong thường được vào ống hịch và do các sứ thần truyền đi khắp nơi. Nếu như hịch nguy cấp thì trên đầu ống hịch thường có một chùm lông gà [do vậy nhưng mà gọi là vũ hịch]. [Theo Tự điển thuật ngữ văn học, NXB Giáo dục, 1992]. 3. Tác phẩm Nửa cuối thế kỉ XIII, chỉ trong ba mươi năm [1257 – 1287], giặc Mông – Nguyên đã ba lần kéo quân sang xâm lược nước ta. Lúc bấy giờ thế giặc rất mạnh, muốn đánh bại chúng phải có sự nhất trí, ủng hộ của toàn quân, toàn dân. Trần Quốc Tuấn đã viết bài hịch này để kêu gọi tướng sĩ hết lòng đánh giặc. Để kêu gọi lòng dân, người viết có thể dùng nhiều cách không giống nhau. Có lúc chỉ cần nêu lên thực trạng, khơi gợi truyền thống yêu nước, căm thù giặc… Trong bài hịch này, Trần Quốc Tuấn đã sử dụng một giọng điệu, cách viết rất phong phú. Khi thì ông lấy tấm gương của người đời xưa, lúc thì dùng cách “khích tướng”, có lúc lại xoa dịu, vỗ về đối với nhân vật… Đó chính là cái hay, cái lạ mắt của tác phẩm này. II. TRẢ LỜI CÂU HỎI SGK Câu 1. Bài hịch có thể chia làm mấy đoạn? Nêu ý chính của từng đoạn. Trả lời: Bài hịch bố cục thành 4 đoạn: – Đoạn 1 [từ đầu tới “tới nay còn lưu tiếng tốt.”]: tác giả nêu ra các gương “trung thần nghĩa sĩ, bỏ mình vì nước” đã được lưu truyền trong sử sách để khích lệ lòng người. – Đoạn 2 [từ “Huống chi ta” tới “ta cũng vui lòng.”]: từ việc phơi bày gương mặt xấu xa của sứ giặc, tác giả bộc bạch lòng căm thù giặc thâm thúy. – Đoạn 3 [từ “Các ngươi ở cùng ta” tới “ko muốn vui vẻ phỏng có được ko ?“]: từ khắc sâu mối gắn bó ân tình giữa chủ và tướng, tác giả phân tích rõ thiệt hơn, được mất, đúng sai để chỉnh đốn những sai lạc trong hàng ngũ tướng sĩ [từ “Các ngươi” tới “muốn vui vẻ phỏng có được ko ?“] và đi tới việc vạch ra đường hướng hành động đúng, hứa hứa tương lai [từ “Nay ta bảo thật” tới “ko muốn vui vẻ phỏng có được ko ?“]. – Đoạn 4 [từ “Nay ta chọn binh pháp” tới hết]: nêu ra việc trước mắt phải làm và kết thúc bằng những lời khích lệ nghĩa khí tướng sĩ. Câu 2. Sự tai ngược và tội ác của giặc được lột tả như thế nào? Đoạn văn tố cáo tội ác giặc đã khơi gợi được điều gì ở tướng sĩ? Trả lời: Tác giả lột tả sự tai ngược và tội ác của giặc: “Ngó thấy sứ giặc đi lại ngông nghênh ngoài đường, uốn lưỡi cú diều nhưng mà sỉ mắng triều đình, đem thân dê chó nhưng mà bắt nạt tể phụ, thác mệnh Hốt Tất Liệt nhưng mà đòi ngọc lụa, để thoả lòng tham ko cùng, giả hiệu Vân Nam Vương nhưng mà thu vàng bạc, để vét của kho có hạn. Thật khác nào như đem thịt nhưng mà nuôi hổ đói, sao cho khỏi để tai vạ về sau !” – Khuôn mặt của quân giặc được phơi bày bằng những sự việc trong thực tiễn : đi lại ngông nghênh, sỉ mắng triều đình, bắt nạt tể phụ, đòi ngọc lụa, thu vàng bạc, vét của kho có hạn… – Để lột tả sự tai ngược và tội ác tham tàn của giặc, đồng thời bộc bạch thái độ căm thù, khinh bỉ tột bậc, tác giả đã dùng lối nói hình ảnh so sánh, ẩn dụ: + Hình ảnh chỉ quân giặc: lưỡi cú diều, thân dê chó, hổ đói,… + Các hình ảnh được đặt trong thế đối sánh để tỏ rõ thái độ căm thù, khinh bỉ: uốn lưỡi cú diều – sỉ mắng triều đình, đem thân dê chó – bắt nạt tể phụ. – Tố cáo tội ác của giặc, tác giả đã khơi gợi lòng tự trọng dân tộc, khắc sâu lòng căm thù ngoại xâm ở tướng sĩ. Câu 3. Phân tích lòng yêu nước, căm thù giặc của Trần Quốc Tuấn qua đoạn văn tác giả tự nói lên nỗi lòng mình. Trả lời: Sau lúc tố cáo tội ác của giặc, Trần Quốc Tuấn đã bộc bạch lòng yêu nước, căm thù giặc của mình, có thể xem đây là đoạn văn hay nhất của bài hịch: “Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối; ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa; chỉ căm tức chưa được xả thịt lột da, nuốt gan uống máu quân thù. Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng vui lòng.” – Nỗi đau trước cảnh nước mất nhà tan được diễn tả thống thiết: quên ăn, mất ngủ, lòng đau như dao cắt, nước mắt đầm đìa. Uất hận trào dâng tới đỉnh điểm lúc tác giả bộc lộ thái độ của mình đối với quân địch: chỉ căm tức chưa được xả thịt lột da, nuốt gan uống máu quân thù. – Vị tướng đã tự xác định một ý thức hi sinh hết mình cho non sông: Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng vui lòng. – Qua đoạn văn này, hình tượng người người hùng yêu nước, sẵn sàng xả thân vì non sông được khắc hoạ rõ nét. Những lời tâm huyết, ruột gan của vị tướng có sức lay động mạnh mẽ, truyền cho tướng sĩ ý thức yêu nước nồng nàn, lòng căm thù giặc sục sôi và một thái độ xả thân, chấp nhận hi sinh vì non sông xã tắc. Câu 4. Sau lúc nêu mối ân tình giữa chủ soái và tướng sĩ, Trần Quốc Tuấn phê phán những hành động sai của tướng sĩ, đồng thời khẳng định những hành động đúng nên làm là có dụng ý gì? Khi phê phán hay khẳng định, tác giả tập trung vào vấn đề gì? Vì sao phải tương tự? Trả lời: Sau lúc nêu mối ân tình giữa chủ soái và tướng sĩ, Trần Quốc Tuấn phê phán những hành động sai của tướng sĩ, đồng thời khẳng định những hành động nên làm nhằm thức tỉnh sự tự ý thức, trách nhiệm, tự nhìn nhận lại mình để điều chỉnh suy nghĩ cũng như hành động của tướng sĩ. Khi phê phán hay khẳng định, tác giả đều tập trung vào vấn đề đề cao ý thức cảnh giác, chăm lo rèn luyện để thắng lợi quân địch xâm lược. Bởi vì, bài hịch này dù trực tiếp là nhằm khích lệ tiến sĩ học tập cuốn Binh thư yếu lược do chính Trần Quốc Tuấn biên soạn, nhưng mục tiêu cao nhất chính là kêu gọi ý thức yêu nước quyết đấu quyết thắng với ngoại xâm. Câu 5. Giọng văn là lời vị chủ soái nói với tướng sĩ dưới quyền hay là lời người cùng tình cảnh? Là lời khuyên răn bộc bạch thiệt hơn hay là lời nghiêm khắc cảnh cáo? Cách viết của tác giả có tác động tới tướng sĩ như thế nào? Trả lời: Trong bài hịch, giọng văn lúc thìa là của vị chủ soái với tướng sĩ dưới quyền lúc lại là của người cùng tình cảnh [suy cho cùng, chủ soái hay tướng sĩ lúc non sông lâm nguy thì đều cùng một tình cảnh]: – Khi muốn bộc bạch ân tình hay khuyên răn thiệt hơn, tác giả lấy giọng thân thiện, chân tình của người cùng chung tình cảnh để nói: “Các ngươi ở cùng ta coi giữ binh quyền đã lâu ngày, […] lúc trận mạc xông pha thì cùng nhau sống chết, lúc ở nhà nhàn hạ thì cùng nhau vui cười.” , “Lúc bấy giờ, ta cùng các ngươi sẽ bị bắt, đau xót biết chừng nào! Chẳng những thái ấp của ta ko còn, nhưng mà bổng lộc của các ngươi cũng mất; không những gia quyến của ta bị tan, nhưng mà vợ con các ngươi cũng khốn; không những xã tắc tổ tông ta bị giày xéo, nhưng mà phần mộ cha mẹ các ngươi cũng bị quật lên…” – Khi nghiêm khắc quở trách, cảnh cáo những hành động sai, thái độ thờ ơ, vô trách nhiệm của tướng sĩ trước vận mệnh non sông, tác giả thẳng thắn đưa ra những lời lẽ gay gắt, như là sỉ mắng: “ko biết lo”, “ko biết thẹn”, “ko biết tức”, “ko biết căm”… Thực ra, gia thần của ông như Dã Tượng, Yết Kiêu, các môn khách như Phạm Ngũ Lão, Trần Thì Kiến, Trương Hán Siêu, Phạm Lãm, Trịnh Dũ, Ngô Sĩ Thường, Nguyễn Thế Trực… đều là những người trung nghĩa. Trung tức là nét nổi trội của ý thức Đông A [tức nhà Trần]. Cho nên, số người cầu an, hưởng lạc tuy vẫn có, nhưng có phần chắc là Trần Quốc Tuấn dùng phép khích tướng, kích họ bằng sỉ nhục, đẩy họ vào thế phải chứng tỏ tấm lòng biết lo, biết thẹn, biết tức, biết căm nhưng mà đồng lòng hiệp sức cùng chủ tướng đánh dẹp quân thù.“[Trần Đình Sử] – Dù là khuyên răn bộc bạch thiệt hơn hay là lời nghiêm khắc cảnh cáo thì cũng đều nhằm khơi dậy ý thức về trách nhiệm, trách nhiệm của tướng sĩ đối với giang sơn xã tắc, đều hướng tới cái đích kêu gọi đồng tâm hợp lực xoá sổ quân xâm lược, ứng phó với quân địch. Câu 6. Hãy nêu một số rực rỡ nghệ thuật đã tạo nên sức thuyết phục người đọc bằng cả nhận thức và tình cảm ở bài Hịch tướng sĩ. Trả lời: Một số rực rỡ nghệ thuật đã tạo nên sức thuyết phục cho bài hịch tướng sĩ. – Thủ pháp so sánh – tương phản: đoạn 2,3 – Thủ pháp trùng điệp – tăng tiến; được sử dụng liên kết với thủ pháp so sánh – tương phản, các điệp từ, điệp ngữ, điệp ý được sử dụng triệt để nhằm tạo ra âm hưởng cho bài hịch, đồng thời gợi, khắc sâu vào tâm trí người đọc [đoạn 3]. Câu 7*. Khích lệ nhiều mặt để tập trung vào một hướng, đó là cách triển khai lập luận của bài Hịch tướng sĩ. Hãy làm sáng tỏ điều này bằng một sơ đồ về kết cấu của bài hịch. Trả lời: Hịch tướng sĩ là một áng văn chính luận rực rỡ, với phong cách văn biền ngẫu có sức lay động lòng người. Với kết cấu chặt chẽ, bài hịch cho thấy sự liên kết thuần thục giữa lí lẽ với tình cảm, giữa lập luận với hình ảnh, dẫn chứng giàu sức thuyết phục. Có thể thấy được cách triển khai lập luận của bài hịch qua sơ đồ kết cấu sau: III. LUYỆN TẬP Câu 1. Phát biểu cảm nhận về lòng yêu nước của Trần Quốc Tuấn được trình bày qua bài hịch. Trả lời: Đọc bài hịch, ta có cảm tưởng như mỗi chữ, mỗi câu văn đều là những lời ruột gan của người người hùng Trần Quốc Tuấn. Sau những câu văn hùng hồn, thấm đượm là hình ảnh người người hùng yêu nước xót đau tới quặn lòng vì nước non bị quân thù giày xéo, là ngọn lửa căm thù hừng hực cháy trong tim, là sự nóng lòng rửa nhục tới quên ăn mất ngủ. Khi bộc bạch những đớn đau dằn vặt tự đáy lòng mình, chính Trần Quốc Tuấn đã nêu ra một tấm gương quật cường về lòng yêu nước để cho tướng sĩ noi theo. Và như thế cũng có tức là nó có sức động viên rất lớn đối với ý thức tướng sĩ. Tham khảo đoạn văn:

“…Lòng yêu nước của Trần Quốc Tuấn trong Hịch tướng sĩ là nỗi lo cho dân cho nước; là tầm nhìn chiến lược để có một kế sách vẹn toàn cho cuộc khởi binh. Tình cảm thiết tha với dân với nước đó được vị tướng quân viết lên bằng cả nỗi lòng mình; viết lên từ những trằn trọc lo lắng băng qua những “bữa quên ăn”, những “đêm vỗ gối”, những lần “ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa”. Tình yêu của tác giả hiện hữu mạnh mẽ theo đúng kiểu lính nhà binh “chỉ căm tức chưa xả thịt lột da, nuốt gan uống máu quân thù”. Làm xong điều đó thì “dẫu trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa ta cũng vui lòng”. Yêu nước với Trần Quốc Tuấn trong thời khắc đó tức là phải biết lo cho dân cho nước, phải biết xả thân, biết kết đoàn một lòng. Tất cả những điều đó phát sinh từ một động lực, một mục tiêu lớn lao: yêu nước, xoá sổ giặc thù…”

[Ngô Tuần] Câu 2*. Chứng minh bài Hịch tướng sĩ vừa có lập luận chặt chẽ, sắc bén vừa giàu hình tượng, xúc cảm, do đó có sức thuyết phục cao. Trả lời: Tham khảo đoạn văn sau. “…Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn đặc trưng sắc sảo trong lời văn và hiệu quả ở giọng điệu. Tác giả mở đầu tác phẩm ko hề rào đón nhưng mà trực tiếp nêu cao khí tiết của những người người hùng trong lịch sử. Đặt vấn đề theo cách này, Hưng Đạo Vương đã ngay ngay lập tức khơi đúng vào cái mạch truyền thống của “con nhà võ tướng” – đó là cái trình bày và sự xả thân. Lời lẽ hùng hồn khiến quân lính đều phải tự nhìn lại chính mình, xem mình đã làm được gì cho dân, cho nước. Trong trình diễn luận điểm, chúng ta dễ dàng nhận thấy, Trần Quốc Tuấn luôn gắn liền quyền lợi và nghĩa vụ của mình với dân với nước, đặt ngang hàng quyền lợi của mình với muôn nghìn tướng sĩ. Binh lính vì thế nhưng mà vừa tin tưởng, vừa nể sợ vị đại tướng quân. Và tương tự cũng có tức là tướng sĩ trên dưới một lòng. Sự khôn khéo của Trần Quốc Tuấn trong lập luận còn nằm ở chỗ, tác giả xen kết hài hoà giữa phê phán và khích lệ, kiểm điểm với động viên. Điều cốt yếu nhất nhưng mà Đại vương đã làm được đó là khơi vào nỗi nhục của bản thân và quốc thể từ đó nhưng mà thắp lên sự căm hờn trong mỗi người: “Chẳng những gia quyến của ta bị tan nhưng mà vợ con các ngươi cũng khốn, không những tổ tông ta bị giày xéo, nhưng mà phần mộ cha mẹ các ngươi cũng bị quật lên”. Câu văn khơi gợi vô cùng bởi chẳng người nào là ko phẫn uất, ko muốn đứng lên xoá sổ những kẻ dã tâm giày xéo, giày đạp man di lên quê hương, non sông, gia đình mình.

Lời hịch của Trần Quốc Tuấn cứ thế thắt mở thu hút quân sĩ vào trận đấu. Cứ thế tạo cho họ một tâm thế, một khí thế sục sôi sẵn sàng tuân theo thượng lệnh nhưng mà ra trận. Tuy nhiên sự thuyết phục của Hịch tướng sĩ còn ở giọng điệu hùng hồn, ở những hình ảnh và những câu văn giàu xúc cảm. Thử hỏi có người nào ko thấy nhục lúc “ngó thấy sứ thần đi lại ngông nghênh ngoài đường, uốn lưỡi cú diều nhưng mà sỉ mắng triều đình, đem thân dê chó nhưng mà bắt nạt tế phụ…”. Câu văn rất giàu hình ảnh và xúc cảm. Lối ví von hình tượng dấy lên lòng tự ái, tự trọng dân tộc trong lòng mỗi con người.

Hoặc có lúc tự viết về mình, câu văn của Đại vương cũng rất giàu hình ảnh và đầy tâm tình “Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa…”. Một câu văn nhưng mà xen chồng liên tục nhiều vị ngữ. Tất cả đều vừa giàu hình ảnh lại vừa tràn trề xúc cảm. Nó hừng hực sôi trào và căm giận xiết bao. Hịch tướng sĩ còn rất nhiều câu văn giàu hình ảnh. Nó cộm lại rồi cuộn lên có lúc như dòng thác. Hơi văn như hơi thở mạnh hừng hực khí thế khiến người đọc liên tục bị cuốn theo và rồi bị thuyết phục ko biết tự lúc nào…”

[Ngô Tuần]

Ảnh minh họa [Nguồn internet]

6

0

6

0

Bài soạn “Hịch tướng sĩ” số 6

I. Đôi nét về tác giả Trần Quốc Tuấn- Trần Quốc Tuấn [1231-1300] còn được gọi là Hưng Đạo Đại Vương- Cuộc đời: + Là danh tướng kiệt xuất của dân tộc + Năm 1285 và năm 1288. Ông chỉ huy quân đội đánh tan hai cuộc xâm lược của quân Nguyên-Mông + Ông lập nhiều chiến công lớn: 3 lần đánh tan quân Nguyên Mông + Tác phẩm nổi trội: Binh thư yếu lược, Đại Việt sử kí toàn thưII. Đôi nét về tác phẩm Hịch tướng sĩ1. Hoàn cảnh sáng tác- Được viết vào khoảng thời kì trước cuộc kháng chiến chống quân Nguyên – Mông lần thứ hai [1285]: Khi giặc Nguyên Mông sang xâm lược nước ta lần thứ hai, lúc này quân giặc rất mạnh muốn đánh bại chúng phải có sự nhất trí, ủng hộ của toàn quân, toàn dân, vì vậy Trần Quốc Tuấn đã viết bài hịch này để kêu gọi tướng sĩ hết lòng đánh giặc2. Thể loại: Hịch3. Bố cục- Chia làm 3 phần: + Phần 1: Từ đầu tới “lưu tiếng tốt”: Nêu tên những trung thần nghĩa sĩ được sử sách lưu danh + Phần 1: Từ tiếp tới “ta cũng vui lòng”: Tình hình non sông hiện nay và nỗi lòng của người chủ tướng + Phần 3: Còn lại: Phê phán những biểu thị sai trái tong hàng ngũ quân sĩ4. Giá trị nội dung- Bài Hịch phản ánh ý thức yêu nước nồng nàn của dân tộc trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược, trình bày lòng căm thù giặc và ý chí quyết thắng.5. Giá trị nghệ thuật- Hịch tướng sĩ là một áng văn chính luận xuất sắc- Lập luận chặt chẽ, lĩ lẽ rõ ràng, giàu hình ảnh, có sức thuyết phục cao- Liên kết hài hoà giữa lí trí và tình cảm- Lời văn giàu hình ảnh nhạc điệu

III.Đọc – hiểu văn bản Câu 1. Bài hịch có thể chia làm ba đoạn. a. Đoạn 1 : Từ đầu tới ‘… lưu tiếng tốt’ : nêu gương sử sách nhằm khích lệ ý chí lập công danh, hi sinh vì nước ở các tướng sĩ. b. Đoạn 2 : ‘Huống chỉ ta cùng các ngươi…’ tới ‘… cũng chẳng kém gì’. Quay về thực tiễn, lột tả tội ác và sự tai ngược của giặc đồng thời nêu mối ân tình giữa chủ và tướng.

c. Đoạn 3 : Phần còn lại : Phê phán thái độ, hành động sai trái của các tướng sĩ và chỉ ra cho tướng sĩ những thái độ, hành động đừng nên theo, cần làm.

Câu 2. Tội ác và sự tai ngược của quân địch được lột tả bằng những hành động thực tiễn và qua cách diễn tả bằng những hình ảnh ẩn dụ. Quân thù tham lam tàn bạo : đòi ngọc lụa, hạch sách bạc vàng, vét kiệt của kho có hạn, hung hãn như hổ đói. Kẻ thì tai ngược đi lại ngông nghênh ngoài đường, bắt nạt tể phụ. Những hình tượng ẩn dụ ‘lưỡi cú diều’, ‘thân dê chó’ để chỉ sứ Nguyên cho thấy nỗi căm giận và lòng khinh bỉ giặc của Hưng Đạo Vương. Đồng thời, đặt những hình tượng đó trong thế tương quan ‘lưỡi cú diều’, ‘xỉ mắng triều đình’, ‘thân dê chó’, ‘bắt nạt tể phụ’. Trần Quốc Tuấn đã chỉ ra nỗi nhục lớn của mọi người lúc chủ quyền non sông bị xâm phạm. Có thể so sánh với thực tiễn lịch sử, năm 1277 Sài Xuân đi sứ buộc ta lên tận biên giới đón rước. Năm 1281, Sài Xuân lại sang sứ, cưỡi ngựa đi thẳng vào cửa Dương Minh, quân sĩ Thiên Trường ngăn lại, bị Xuân lấy roi đánh toạn cả đầu. Vua sai Thượng tướng Thái sư Trần Quang Khcửa ải ra đón tiếp. Xuân nằm khểnh ko dậy. So sánh với thực tiễn sẽ thấy tác dụng của lời hịch như lửa đổ thêm dầu. Đoạn văn tố cáo tội ác giặc đã khơi gợi được lòng căm thù giặc, khích lệ ý thức yêu nước quật cường, ý thức trách nhiệm và nghĩa vụ của tướng sĩ. Câu 3. Lòng yêu nước căm thù giặc của Trần Quốc Tuấn trình bày qua hành động : quên ăn, mất ngủ, đớn đau tới thắt tim, thắt ruột, trình bày qua thái độ : uất ức, căm tức lúc chưa trả thù, sẵn sàng hy sinh để rửa mối nhục cho non sông. Bao nhiêu tâm huyết, bút lục của Trần Quốc Tuấn dồn vào đoạn : ‘Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa, chỉ căm tức chưa xả thịt lột da, nuốt gan uống máu quân thù. Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng vui lòng’. Mỗi chữ mỗi lời như chảy trực tiếp từ trái tim qua ngòi bút lên trang giấy. Câu văn chính luận nhưng mà đã khắc họa thật sinh động hình tượng người người hùng yêu nước, đau xót tới quặn lòng trước cảnh tình non sông, căm thù tới bầm gian tím ruột mong rửa nhục tới mất ngủ quên ăn, vì nghĩa lớn nhưng mà khinh thường xương tan, thịt nát. Khi tự bộc bạch ruột gan, chính Trần Quốc Tuấn đã là một tấm gương yêu nước quật cường có tác dụng động viên to lớn đối với tướng sĩ. Câu 4. Nêu mối ân tình giữa mình và tướng sĩ. Trần Quốc Tuấn đã kích động ý thức trách nhiệm và nghĩa vụ của mọi người đối với lẽ vua tôi cũng như đối với mình cốt nhục. Không chỉ vậy, tác giả Trần Quốc Tuấn còn chân tình chỉ bảo và phê phán nghiêm khắc hành động hưởng lạc, thái độ bàng quan trước vận mệnh của non sông của tướng sĩ, ‘làm cho họ tức khí, muốn nhanh chóng chứng minh tài năng, phẩm chất của mình bằng việc làm thiết thực’ [Trần Đình Sử]. Cùng với việc phê phán thái độ, hành động sai, Trần Quốc Tuấn còn chỉ ra những việc đúng nên làm. Đó là nêu cao ý thức cảnh giác, chăm lo ‘tập luyện cung tên, làm cho người người giỏi như Bàng Mông, nhà nhà đều là Hậu Nghệ’. Những hành động này đều xuất phát từ mục tiêu quyết đấu quyết thắng quân địch xâm lược. Khi phê phán hay khẳng định, tác giả đều tập trung khích lệ từ ý chí lập công danh, lòng tự trọng tư nhân, tự trọng dân tộc tới lòng căm thù giặc, ý thức trung quân ái quốc, tình nghĩa cốt nhục… để cuối cùng khích lệ lòng yêu nước quật cường, quyết đấu quyết thắng quân địch xâm lược. Điều này rất cần thiết trong hoàn cảnh nước nhà lâm vào thế nước sôi lửa bỏng, nó trả tiền những thái độ và hành động trù trừ trong hành ngũ tướng sĩ, động viên những người nào còn thờ ơ, do dự hãy đứng hẳn sang phía lực lượng quyết tâm xoá sổ quân địch. Câu 5. Giọng văn rất linh hoạt, có lúc là lời vị chủ soái nói với tướng sĩ dưới quền [‘Các ngươi ở cùng ta… đi bộ thì ta cho ngựa’, ‘Nay các ngươi nhìn chủ nhục… thẹn’], có lúc là lời người cùng ảnh ngộ [‘Huống chi ta… gian nan’, ‘lúc trận mạc… vui cười’, ‘Lúc bấy giờ, ta cùng các ngươi… thua cuộc’] lúc là lời khuyên răn bộc bạch thiệt hơn [‘Như vậy, không những … ko muốn vui vẻ phỏng có được ko ?], lúc lại là lời nghiêm khắc cảnh cáo [làm tướng triều đình… muốn vui vẻ phỏng có được ko ?]… Sự thay đổi giọng điệu tương tự thích hợp với nội dung xúc cảm và thái độ của tác giả, tác động cả về trí lẫn tình cảm, khơi dậy trách nhiệm của mọi người đối với chủ tướng cũng như với bản thân họ. Câu 6. Một số rực rỡ nghệ thuật tạo nên sức thuyết phục người đọc bằng cả nhận thức và tình cảm ở bài ‘Hịch tướng sĩ’. Gợi ý : Giọng văn lúc bi thiết nghẹ ngào, lúc sục sôi hùng hồn, lúc mỉa mai giễu cợt, lúc nghiêm khắc như xỉ mắng, lại có lúc ra lệnh dứt khoát.Kết cấu chặt chẽ, lập luận sắc bén.Sử dụng kiểu câu nguyên nhân – kết quả.Biện pháp tu từ : so sánh, điệp từ ngữ, điệp ý tăng tiến, phóng đại…Sử dụng những hình tượng nghệ thuật gợi cảm, dễ hiểu.Câu 7. Sơ đồ kết cấu bài hịch. Khích lệ lòng căm thù giặc, nỗi nhục mất nước.Khích lệ lòng trung quân ái quốc và lòng ân nghĩa thủy chung của người cùng tình cảnh.Khích lệ ý chí lập công danh, xả thân vì nước.Khích lệ lòng tự trọng, liêm sỉ ở mỗi người lúc nhận rõ cái sai, thấy rõ điều đúng.= > Thất cả những ý trên nhằm khích lệ lòng yêu nước quật cường, quyết đấu quyết thắng quân địch xâm lược. I. Luyện tập [Gợi ý những điểm chính]. Câu 1: Cảm nhận về lòng yêu nước của tác giả được trình bày qua bài hịch : Lòng yêu nước được hiện rất phong phú ở nhiều sắc độ :Lòng căm thù giặc thâm thúy.Nhục nhã cho thể diện dân tộc.Đớn đau day dứt vì chưa xoá sổ được quân địch.Nghiêm khắc phê phán thái độ ăn chơi hưởng lạc thờ ơ trước vận mệnh non sông của các tướng sĩ.Khích lệ lòng tự trọng dân tộc, lòng yêu nước thiết tha ở tướng sĩ… Lòng yêu nước được diễn tả bằng những nét rực rỡ về nghệ thuật [xem câu 6].Lòng yêu nước của tác giả kế tương truyền thống yêu nước nghìn năm của dân tộc và được phát huy ko chỉ trên câu chữ, lời hịch nhưng mà ngay trong hành động thực tiễn lãnh đạo quân dân nhà Trần chống quân thù. Đây là tình cảm của tác giả nhưng mà cũng là nỗi lòng của mọi người dân ta lúc này.Câu 2. ‘Hịch tướng sĩ’ vừa có lập luận chặt chẽ, sắc bén vừa giàu hình tượng, xúc cảm : Lập luận chặt chẽ sắc bén [kết cấu gồm 3 phần – xem câu 1, phép tắc sắc bén có xưa – nay, gồm hơn – thiệt, trách nhiệm – quyền lợi,…, dẫn chứng sử sách chuẩn xác, dễ hiểu].Giàu hình tượng, xúc cảm :Khi tố cáo tội ác của quân địch, Trần Quốc Tuấn viết là lũ ‘cú diều’, là loài ‘dê chó’, cao hơn nữa chúng chỉ là những con ‘hổ đói’ đang tìm cách săn mồi. Qua những hình ảnh ẩn dụ bọn sứ giặc ko còn đại diện cho một quốc gia, ko còn là con người. Chúng chỉ còn là lũ mãnh thú gian manh, là bọn giặc thù. Khi bộc bạch tấm lòng mình, Trần Quốc Tuấn đã khắc họa được sống động hình tượng một vị chủ tướng yêu nước, căm thù giặc thâm thúy. Qua những hình ảnh thậm xưng, lối nói điệp ý và tăng tiến, người đọc tưởng tượng vị chủ tướng đó đau xót tới quặn lòng trước cảnh tình non sông, căm thù giặc tới bầm gan tím ruột, mong rửa nhục tới mất ngủ quên ăn, vì nghĩa lớn nhưng mà khinh thường thịt nát, xương tan.

Xúc cảm trong bài hịch rất nhiều chủng loại. Khi thống thiết, lúc sục sôi, lúc nghiêm khắc, lúc lại ân tình…

Ảnh minh họa [Nguồn internet]

#Top #Bài #soạn #Hịch #tướng #sĩ #của #Trần #Quốc #Tuấn #lớp #hay #nhất

  • Tổng hợp: Thư Viện Hỏi Đáp
  • Nguồn: //toplist.vn/top-list/bai-soan-hich-tuong-si-cua-tran-quoc-tuan-lop-8-hay-nhat-45124.htm

Video liên quan

Chủ Đề