Hcc gan là gì

Ung thư biểu mô tế bào gan [hepatocellular carcinoma: HCC] là loại ung thư chủ yếu của ung thư gan và là nguyên nhân dẫn đến 1/3 số ca tử vong do ung thư trên thế giới. Tỷ lệ tử vong do ung thư gan cao thường do được phát hiện muộn. Vì ung thư gan chỉ có thể điều trị hiệu quả ở giai đoạn sớm nên việc sử dụng bộ ba xét nghiệm [AFP, AFP-L3 và DCP] trở nên rất hứu ích trong việc giúp phát hiện sớm ung thư gan, nâng tỷ lệ sống sót trên 5 năm của bệnh nhân từ dưới 10% lên 70%.

Bộ ba xét nghiệm - Bước đột phá trong chẩn đoán ung thư biểu mô tế bào gan

Bộ ba xét nghiệm phát hiện sớm ung thư biểu mô tế bào gan giai đoạn sớm với độ nhạy 86% và độ đặc hiệu 89%.

Trước đây, chiến lược sàng lọc nhằm phát hiện sớm HCC gồm việc đo mức độ α-fetoprotein [AFP] huyết thanh và siêu âm ổ bụng 3 - 6 tháng một lần. Tuy nhiên, do mức độ AFP huyết thanh có độ nhạy và độ đặc hiệu chẩn đoán ung thư gan thấp nên hiện nay, để phát hiện sớm, chẩn đoán phân biệt, theo dõi hiệu quả điều trị, tái phát và tiên lượng ung thư biểu mô tế bào gan, cần sử dụng bộ ba xét nghiệm gồm AFP, AFP-L3 và DCP.

GALAD là một mô hình toán phân tích đa biến [multivariate analyse model] dựa trên 5 thông số, gồm ba dấu ấn khối u AFP, AFP-L3 và DCP, cộng thêm với giới tính [Gender] và tuổi [Age], kết hợp với một phần mềm chuyên dụng, có thể được sử dụng để phát hiện ung thư biểu mô tế bào gan [HCC] ở giai đoạn sớm. Từ số điểm GALAD [GALAD Score], xác suất ung thư biểu mô tế bào gan [probability of HCC] có thể được tính toán ở giai đoạn sớm với độ nhạy 86% và độ đặc hiệu 89%.

- AFP: được tổng hợp chủ yếu bởi gan của bào thai, bởi các tế bào của túi noãn hoàng và bởi ống tiêu hóa của thai trong quý 1 của thai kỳ, có thời gian bán hủy [half-life] là 5-7 ngày. AFP có độ nhạy chấn đoán ung thư gan thấp vì chỉ tăng xơ gan.

- AFP-L3: AFP có 3 dạng khác nhau là AFP-L1, AFP-L2 và AFP-L3. AFP-L1 có trong viêm gan mạn, xơ gan và là thành phần chính của AFP toàn phần trong những bệnh gan lành tính. AFP-L2 có nguồn gốc chủ yếu từ các khối u túi noãn hoàng. AFP-L3 là dạng chủ yếu của AFP huyết thanh của bệnh nhân HCC, có thể giúp phát hiện khoảng 1/3 số bệnh nhân có khối u HCC nhỏ < 3 cm.

- DCP [Des-γ-carboxy prothrombin]: DCP là một sản phẩm bất thư ờng của prothrombin do rối loạn sự carboxyl hóa của gan trong quá trình tạo thành thrombogen và tác động như một yếu tố tự phân bào [autologous mitogen] đối với dòng tế bào HCC. Trong HCC, sự chuyển dạng này bị cản trở do enzyme carboxylase bị ức chế, dẫn đến sự tích lũy tăng của DCP.

Theo PGS TS Nguyễn Nghiêm Luật, cố vấn khoa học Bệnh viện Đa khoa MEDLATEC, bộ ba các dấu ấn khối u AFP, AFP-L3 và DCP là một phương pháp hiện đại giúp phát hiện sớm khối u, thậm chí khối ung thư có kích thước dưới 2 cm, từ đó giúp việc điều trị bệnh được hiệu quả và nâng tỷ lệ sống sót trên 5 năm của bệnh nhân ung thư gan từ dưới 10% lên 70%. Đây là kỹ thuật định lượng điện di mao quản vi mạch và pha lỏng trên máy phân tích tự động μTAS Wako i30 [Nhật Bản].

Bộ ba xét nghiệm này được chỉ định trong các trường hợp có nguy cơ cao bị ung thư biểu mô tế bào gan như: người bị viêm gan virus B, C mạn, xơ gan do rượu, do béo phì, đái tháo đường, quá tải sắt, nhiễm độc aflatoxin, … Ngoài ra, PGS Nguyễn Nghiêm Luật còn nhấn mạnh: để chẩn đoán ung thư biểu mô tế gan, nếu bệnh nhân có kết quả bộ ba xét nghiệm bất thường, việc kết hợp thêm với các kỹ thuật chẩn đoán hình ảnh như siêu âm, chụp cắt lớp vi tính, chụp cộng hưởng từ và sinh thiết khối u để đoán xác định là rất cần thiết.

Phát hiện khối u có kích thước dưới 2 cm

Tại Bệnh viện Đa khoa MEDLATEC, cùng với các kỹ thuật chẩn đoán hiện đại, còn có đội ngũ chuyên gia Truyền nhiễm khám và tư vấn các bệnh lý gan mật.

Trong thời gian gần đây, Bệnh viện Đa khoa MEDLATEC đã triển khai bộ ba xét nghiệm của Wako và đã phát hiện được một số bệnh nhân ung thư ở giai đoạn sớm, từ đó giúp bệnh nhân điều trị hiệu quả.

Ví dụ: một bệnh nhân nam, 53 tuổi, bị viêm gan virus B đã được điều trị từ năm 2008, hiện tại sự hoạt động của HBV trong tế bào gan yếu, có thể xếp vào giai đoạn người mang virus không hoạt động [HBV DNA dưới ngưỡng phát hiện, HBsAg định lượng = 0,95 U/mL], AST = 23,0 U/L, ALT = 25,6 U/L, HBeAg [-] tính, HBeAb [+] tính. Bệnh nhân được chẩn đoán sớm ung thư biểu mô tế bào gan bằng mô hình toán phân tích đa biến dựa trên xét nghiệm bộ ba AFP, AFP-L3 và DCP trên máy µTASWako i30. Kết quả thu được như sau: AFP= 267 ng/m [giá trị cắt ≤ 20 ng/mL]; AFP-L3 = 54,6% [giá trị cắt ≤ 0,5%]; DCP = 46 mAU/mL = 0,552 ng/mL [giá trị cắt ≤ 40 mAU/mL hay ≤ 0,48 ng/mL]; GALAD score = 3,8, xác suất ung thư biểu mô tế bào gan [Probability of HCC] = 98%, khi kích thước khối u ở gan chỉ là 12 × 22 mm. Vì vậy, bệnh nhân được chuyển ngay đến Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức để cắt bỏ khối u và cũng được chẩn đoán tế bào học là ung thư biểu mô tế bào gan. Hiện tại bệnh nhân đã khỏe trở lại và mức độ AFP huyết thanh đã trở về mức độ bình thường [4 ng/mL].

Tại Bệnh viện Đa khoa MEDLATEC, cùng với đội ngũ chuyên gia, bác sĩ chuyên khoa giàu kinh nghiệm, bệnh viện đã không ngừng trang bị đầy đủ hệ thống máy móc hiện đại nhất về xét nghiệm [như máy Cobas 8000, Architect,…], về chẩn đoán hình ảnh [máy siêu âm 3,4D, Firbroscan, chụp cắt lớp vi tính, cộng hưởng từ,…]. Đặc biệt, Bệnh viện MEDLATEC hiện là đơn vị y tế ngoài công lập đầu tiên ở phía Bắc đầu tư máy µTASWako i30 với mong muốn phục vụ tốt nhất nhu cầu của người dân về sàng lọc, chẩn đoán sớm, chẩn đoán phân biệt, đánh giá đáp ứng điều trị và tiên lượng tốt nhất bệnh ung thư biểu mô tế bào gan.

Những triệu chứng khởi đầu của HCC thì rất thay đổi. Ở nhiều nước nơi mà HCC rất thường gặp nhìn chung ung thư phát hiện ra là ở giai đoạn trễ của bệnh rồi. Ở những quốc gia đang phát triển, việc chăm sóc sức khỏe bị hạn chế do đó tần suất bị HCC cao hơn những quốc gia khác. Hơn nữa, những xét nghiệm sàng lọc những bệnh nhân bị nguy cơ tiến triển tới HCC thì không được thực hiện ở những nơi này. Thêm vào đó những bệnh nhân ở vùng này có nhiều yếu tố khác làm cho HCC dễ bị hơn. Mặt khác khối u tiến triển tới giai đoạn trễ thì gây ra những triệu chứng rất nặng. Trái lại, những bệnh nhân ở những vùng có tần suất HCC thấp thường có khối u tiến triển chậm hơn, vì vậy không có triệu chứng trong thời gian dài.  

Đau bụng là triệu chứng thường gặp của HCC và là dấu hiệu do khối u lớn hoặc do sự xâm lấn của khối u ra xung quanh gan. Hơn nữa, sụt cân không giải thích được hoặc sốt không rõ lý do là những dấu hiệu cảnh báo bị HCC ở bệnh nhân xơ gan. Những triệu chứng này ít thường thấy ở bệnh nhân bị HCC ở Mỹ bởi vì những bệnh nhân này thường được chẩn đoán ở giai đoạn sớm của bệnh. Tuy nhiên, bất cứ khi nào tổng trạng bệnh nhân xơ gan bị suy giảm thì mọi nổ lực là phải tìm ra xem có phải bị HCC không.  

Triệu chứng khởi đầu rất thường gặp của HCC ở bệnh nhân xơ gan còn bù [chưa có biến chứng của bệnh gan ] là đột ngột khởi đầu biến - chứng. Ví dụ sự xuất hiện đột ngột của báng bụng [ chứa dịch và sưng căng ổ bụng], vàng da hoặc sụt cân mà không có yếu tố nguyên nhân gợi ý tới khả năng bị HCC. Ung thư có thể xâm lấn và làm tắc tĩnh mạch cửa [ tĩnh mạch lớn dẫn máu tới gan từ ruột và lách ]. Khi điều này xảy ra, máu sẽ đi theo con đường ít sức đề kháng hơn như là qua tĩnh mạch thực quản. Điều này sẽ gây ra sự gia tăng áp lực ở những tĩnh mạch này, có thể dẫn tới dãn tĩnh mạch gọi là dãn tĩnh mạch thực quản. Những bệnh nhân này sau đó có nguy cơ bị xuất huyết do vỡ dãn tĩnh mạch vào đường tiêu hóa. Hiếm khi, ung thư cũng tự vỡ và gây chảy máu vào trong khoang bụng và gây ra dịch ổ bụng có máu.  

Trên thăm khám lâm sàng, thường thấy một cái gan lớn, đôi khi đau. Khối ung thư gan chứa rất nhiều mạch máu. Vì vậy, làm gia tăng số lượng máu tới gan và làm tăng tốc độ dòng máu qua động mạch gan. Sự gia tăng dòng chảy này có thể tạo ra một âm đặc biệt ở gan, có thể nghe được bằng ống nghe ở khoảng 25-50% bệnh nhân bị HCC. Bất cứ dấu hiệu nào của bệnh gan tiến triển [ví dụ báng bụng, vàng da, teo cơ] có nghĩa là bệnh đã diễn tiến theo chiều hướng xấu. Hiếm khi, bệnh nhân bị HCC có thể vàng da đột ngột do khối u ăn vào đường mật. Vàng da xuất hiện trong trưòmg hợp này là do cả khối u bị bong tróc ra và chảy máu tạo cục máu đông làm tắc nghẽn ống mật.  

Trong HCC tiến triển, khối u có thể lan từ chỗ ban đầu tới những mô lân cận hoặc theo dòng máu tới bất cứ nơi nào trong cơ thể [di căn xa]. Tại chỗ, HCC có thể xâm lấn vào tĩnh mạch dẫn máu tới gan [tĩnh mạch gan]. Khối u có thể làm tắc tĩnh mạch này và nó sẽ dẫn tới xung huyết gan. Xung huyết xảy ra là do khối u làm tắc tĩnh mạch, do đó máu không ra khỏi gan được [bình thường máu và gan thông qua tĩnh mạch gan ] và ra khỏi gan vào tĩnh mạch chủ dưới, là một tĩnh mạch lớn nhất dẫn máu về tim. Ở những bệnh nhân Phi Châu, khối u thường làm tẳc nghẽn tĩnh mạch chủ dưới đều làm cho gan sưng to và hình thành nên báng bụng. Ở một số bệnh nhân, đã được thấy rõ, khối ung thư có thể xâm lấn vào tĩnh mạch cửa và dẫn tới tĩnh mạch thực quản dãn.  

Đối với những trường hợp di căn xa, HCC thường di căn tới phổi là do tế bào ung thư đi theo dòng máu tới. Thông thường, bệnh nhân không có triệu chứng của di căn phổi, bệnh chỉ được phát hiện bằng chụp X quang thông thường. Hiếm gặp hơn, trong những trường hợp tiến triển, HCC có thể di căn tới xương và não.  

Video liên quan

Chủ Đề