Giải pháp giúp học sinh hạn chế việc sử dụng ngôn ngữ mạng

Hiện nay, với tốc độ phát triển quá nhanh của internet, các trang mạng xã hội và việc hấp thu các yếu tố của ngôn ngữ nước ngoài, nhu cầu muốn thể hiện bản sắc, cái tôi riêng dẫn đến ngôn ngữ "chat", tiếng lóng đã xuất hiện trong quá trình giao tiếp và ngày càng có xu hướng lan rộng trong giới trẻ ở cả thành thị và nông thôn, trở thành nỗi lo, thực trạng đáng buồn trong xã hội và ảnh hưởng không nhỏ đến sự trong sáng của tiếng Việt.

Tìm hiểu được biết, ban đầu, những từ mới, cách diễn đạt mới chỉ được chấp nhận trong một nhóm người nhất định. Nhưng sau đó, nhờ sự trợ giúp của các phương tiện công nghệ hiện đại như: điện thoại di động, mạng internet… tiếng lóng và ngôn ngữ "chat" nhanh chóng được lan rộng và trở nên phổ biến. Từ đó, khi nói chuyện trên mạng và trong giao tiếp hàng ngày, tiếng lóng được sử dụng thường xuyên, giới trẻ coi đó là ngôn ngữ hiện đại, theo trào lưu, phong cách của thế hệ mình.

Khảo sát của nhóm học sinh lớp 10 dưới sự hướng dẫn của giáo viên giảng dạy bộ môn Ngữ văn tại Trường THPT Đinh Tiên Hoàng [thành phố Ninh Bình] khi thực hiện đề tài: "Vấn đề sử dụng ngôn ngữ mạng xã hội ở học sinh khối 10, Trường THPT Đinh Tiên Hoàng - thực trạng và giải pháp" [Đề tài đạt giải ba cấp trường trong cuộc thi KHKT dành cho học sinh trung học và được chọn tham dự cuộc thi cấp tỉnh] cho thấy, hầu hết học sinh lớp 10 các trường THPT trong tỉnh đều sử dụng ngôn ngữ mạng giống nhau ở cả nam và nữ, với phong cách nói chuyện và sự thể hiện khá nhiều tiếng lóng, câu từ tục tĩu và đặc biệt giản tiện tối thiểu về chữ viết.

Theo đó, nhóm học sinh thực hiện đề tài đã phát phiếu khảo sát cho 396 học sinh lớp 10 trường THPT Đinh Tiên Hoàng, một số trường THPT trên địa bàn thành phố Ninh Bình như Ninh Bình-Bạc Liêu, Trần Hưng Đạo; trường THPT Hoa Lư A [huyện Hoa Lư] và một số trường khu vực nông thôn các huyện Nho Quan và Gia Viễn. Nội dung phiếu điều tra tập trung khảo sát một số vấn đề như: Độ tuổi, giới tính, thời gian sử dụng mạng xã hội trong ngày, ngôn ngữ mạng có giống với văn bản học tại trường, bạn thích sử dụng ngôn ngữ nào, theo bạn ngôn ngữ mạng xấu hay tốt và nguyên nhân khiến nhiều học sinh sử dụng ngôn ngữ mạng...

Em Hoàng Thị Quỳnh Anh, học sinh lớp 10, thành viên tham gia đề tài: "Vấn đề sử dụng ngôn ngữ mạng xã hội ở học sinh khối 10, trường THPT Đinh Tiên Hoàng - thực trạng và giải pháp" cho biết: Qua kết quả khảo sát cho thấy, 100% học sinh đều sử dụng mạng xã hội; trung bình khoảng 9 lần/ngày, mỗi lần khoảng 3-10 phút [đối với học sinh nữ] và khoảng 8 lần/ngày, mỗi lần khoảng 1-7 phút [đối với học sinh nam]. Cách sử dụng ngôn ngữ giữa học sinh nữ và học sinh nam không quá khác biệt: Học sinh nam thường sử dụng kiểu viết giản lược, câu cú không được rõ ràng, thường dùng những từ ngữ khá tục tĩu, bậy bạ; học sinh nữ thường sử dụng biểu tượng cảm xúc và kiểu viết cắt xén giản lược, tuy cấu trúc câu của học sinh nữ rõ ràng hơn học sinh nam nhưng tần suất xuất hiện các từ nói bậy, tục tĩu thì không hề ít hơn…

Một trong những phương thức sử dụng tiếng lóng hiện nay của học sinh là dùng các từ loại như: danh từ, động từ, tính từ… để nhấn mạnh hoặc gây sự chú ý đối với sự việc được nói tới, chẳng hạn như: "chim cú", "tạch rùi", "a kay", "vãi lúa"… Thêm vào đó là sự lai căng, pha tạp giữa tiếng tây-ta, ngay cả khi giao tiếp với người lớn tuổi, chẳng hạn như: "sory chị", "thanh kiu bác", "ô kê thầy"... Thậm chí, trong nhiều trường hợp, tiếng lóng bị lạm dụng, như khi hỏi thăm sức khỏe người lớn tuổi thì: "Sức khỏe của bác có ngon lành cành đào không?", hỏi bạn ăn cơm chưa thì: "Mày đã đớp, hốc chưa?", đi xe máy luồn lách thì "Thằng ấy xà lách tởm vãi!"… Việc "phối hợp" ngôn ngữ bừa bãi, tùy tiện, cách nói bỗ bã, chướng tai như vậy khiến đối tượng giao tiếp và người xung quanh cảm thấy khó chịu, phật lòng và nguy hiểm hơn, làm mất đi sự trong sáng vốn có của tiếng Việt.

Thực sự lo ngại với việc sử dụng ngôn ngữ của học sinh thời nay. Ảnh: MH

Cũng qua khảo sát, về thói quen và nguyện vọng sử dụng ngôn ngữ của học sinh THPT tại một số nhà trường trên địa bàn tỉnh cho thấy, hầu hết các em hay viết tắt trong cả văn bản nói và viết; thường xuyên kết hợp tiếng Anh xen tiếng Việt; hoạt động nói và viết thường không tuân theo chuẩn mực ngôn ngữ thông thường, có xu hướng đi theo trào lưu, làm biến đổi ngôn ngữ. Về nguyện vọng sử dụng ngôn ngữ, đa số học sinh được khảo sát cho biết, muốn ngôn Ngữ có văn hóa, ngắn gọn, dễ hiểu; da dạng, phong phú, dễ đọc, dễ nghe; thoải mái nhưng không phản cảm; theo trào lưu…, hướng tới tính văn hóa trong ngôn ngữ; tuy nhiên, thực tế khi sử dụng, hầu hết các em lại lạm dụng ngôn ngữ mạng, sử dụng các biểu tượng cảm xúc, chèn biểu tượng, tạo nên những cách viết, cách đọc xa lạ, "bóp méo" tiếng Việt.

Cô giáo Tô Thị Hồng Nhung, giáo viên bộ môn Ngữ văn, trường THPT Đinh Tiên Hoàng [thành phố Ninh Bình] cho rằng, thực tế, nhiều khi đọc, chấm bài kiểm tra, bài thi của học sinh, có những câu không hiểu các em muốn diễn đạt vấn đề gì, vì câu chữ quá ngắn, lủng củng và sử dụng khá nhiều ngôn ngữ ký tự, ký hiệu, như: "ah" [à], "ko" [không], "bit" [biết], "thik" [thích], "wa" [quá], "bih" [bây giờ]… Đấy là chưa kể, do sử dụng ngôn ngữ mạng thành quen nên các em rất hay viết tắt, viết sai chính tả. Như vậy, việc lạm dụng ngôn ngữ "chat" trong học tập với thời gian dài có thể khiến học sinh quên đi cách sử dụng từ ngữ theo đúng chuẩn mực, và xa hơn, khi thường xuyên sử dụng ngôn ngữ mạng một cách dễ dãi, bừa bãi, ít nhiều sẽ ảnh hưởng tới tính cách như: tùy tiện, hời hợt, cẩu thả…

Theo Thạc sĩ Nguyễn Thị Nguyệt, Phó Trưởng khoa Tâm lý, Trường Đại học Hoa Lư, ngôn ngữ cần hiểu như là một thứ "tài sản" toàn dân, luôn vận động và biến đổi nhưng phải theo chiều hướng tốt lên, đáp ứng được thị hiếu người dân và biểu hiện của nền văn hóa. Việc sử dụng ngôn ngữ mạng như "con dao hai lưỡi", dùng nhiều sẽ thành quen, có thể dẫn đến việc giới trẻ sử dụng chệch hướng, biến nó thành ngôn ngữ trong nhà trường, trong các văn bản. Do vậy, các nhà quản lý giáo dục-văn hóa, các chuyên gia nghiên cứu… cần sớm có các cuộc khảo sát về mức độ sử dụng và tác động của ngôn ngữ mạng trong đời sống hiện nay, từ đó đưa ra các giải pháp để định hướng giới trẻ.

Cùng với đó, để đảm bảo tính chuẩn mực và giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt, qua các giờ học, các giáo viên cần khơi gợi cho học sinh niềm tự hào đối với tiếng Việt, giúp các em có ý thức giữ gìn sự trong sáng của ngôn ngữ dân tộc. Bên cạnh đó, trong cuộc sống hàng ngày, giáo viên, nhà trường cần phối hợp với gia đình trong việc nhắc nhở, điều chỉnh khi các em học sinh lạm dụng tiếng lóng, ngôn ngữ "chat" trong quá trình giao tiếp, nhất là khi tạo lập các văn bản đòi hỏi tính chuẩn mực cao, từ đó tạo dựng văn hóa ngôn ngữ cho học sinh, tạo nên lối sống văn minh trong trường học, xây dựng môi trường học đường thân thiện; giúp các em học sinh hoàn thiện việc phát triển nhân cách và trí tuệ ở bậc THPT - bậc học quan trọng gắn với việc lựa chọn và định hướng nghề nghiệp trong tương lai.

Hạnh Chi

[HNM] - Ngôn ngữ mạng có tính đặc thù, là thứ ngôn ngữ phi chính thức, thể hiện sự tự do cá nhân. Hiện nay, ngôn ngữ mạng được dùng rất phổ biến và theo các chuyên gia về ngôn ngữ, việc lạm dụng dạng ngôn ngữ này đem lại không ít hệ quả xấu. Ngôn ngữ mạng hiện đang được sử dụng phổ biến, trong trường học, ngoài đường phố, thậm chí cả trong công sở. Với một nhóm xã hội nhất định, nhất là nhóm người trẻ, ngôn ngữ mạng đem lại sự thú vị nhất định. Người ta có thể sử dụng các con số thay cho chữ cái, như viết "6677028" để chuyển thông điệp "xấu xấu bẩn bẩn không ai tán", dùng dãy số "08081508" để nói "không tắm không tắm, một năm không tắm". Đôi lúc, người viết chọn cách "nói" chệch khỏi nguyên tắc, cố tình thay "b" bằng "p", bỏ dấu thanh, chẳng hạn như "em pé nhưng cái suy ngj nó lớn lém anh ơy" [em bé nhưng cái suy nghĩ nó lớn lắm anh ơi]…

Việc lạm dụng ngôn ngữ mạng có thể mang đến tác hại lâu dài trong giới trẻ. Ảnh: Trọng Hải

Theo các nhà nghiên cứu, ngôn ngữ mạng ở Việt Nam là biến thể thiếu chuẩn mực của tiếng Việt - cả ở bình diện ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp. Tuy nhiên, ngoài những trường hợp "bất tuân quy tắc", nhiều khi ngôn ngữ mạng không chệch khỏi quy luật ngôn ngữ. Ví dụ, người ta viết "k" thay "c" vì âm "cờ" có thể đọc như "k", "q". Theo TS Nguyễn Văn Khang, nguyên Phó Viện trưởng Viện Ngôn ngữ học [Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam], ngôn ngữ mạng thiên về khẩu ngữ, là ngôn ngữ nói được thể hiện dưới dạng viết. Nó không chỉ được đơn giản hóa, từ cấu trúc ngữ pháp đến từ ngữ, để bảo đảm tính nhanh gọn mà còn sử dụng các ký hiệu, biểu tượng một mặt để biểu đạt thông tin, làm cho ngôn ngữ trở nên sinh động. Ngôn ngữ mạng mang tính cởi mở bởi nó là ngôn ngữ của giới trẻ với tâm lý muốn cách tân, tạo ra trào lưu mới và muốn khẳng định bản thân, bởi thế mang tính khôi hài và đôi khi có phần dung tục. Mới đây, các nhà nghiên cứu đã thực hiện điều tra về thái độ xã hội đối với ngôn ngữ mạng được sử dụng trên diễn đàn tuổi "teen". Kết quả cho thấy, đối với việc sử dụng tiếng Việt của nhóm trẻ 9x trên diễn đàn, 6,6% số người được khảo sát trả lời "thích", cho rằng ngôn ngữ mạng có gì đó vui vui, tiện lợi và "sành điệu"; 51,2% trả lời "không thích", vì ngôn ngữ mạng khó hiểu, rối mắt và làm hỏng tiếng Việt; 42,2% trả lời "bình thường". Đối với việc "trộn" tiếng nước ngoài vào tiếng Việt, 6,6% trả lời "thích" vì thấy lạ, "sành điệu", 52% trả lời "ghét", cho rằng cách sử dụng ngôn ngữ nói trên gây khó hiểu, làm hỏng tiếng Việt, 41,4% trả lời "bình thường". Như vậy, có thể thấy những luồng ý kiến khác nhau về việc sử dụng ngôn ngữ mạng, có ý kiến ủng hộ, có ý kiến phản đối. Nhìn từ góc độ chuẩn hóa tiếng Việt thì sự phản đối ngôn ngữ mạng là hoàn toàn có lý. Tuy nhiên, nhìn từ góc độ xã hội của ngôn ngữ thì ngôn ngữ mạng là của cư dân mạng, mang tính chất nhóm xã hội, thậm chí mang phong cách cá nhân nên nó hoàn toàn có thể được sử dụng theo cách riêng của mỗi cá nhân, mỗi nhóm. Ngôn ngữ mạng là thứ ngôn ngữ phi quy thức, mang tính khẩu ngữ nên, về nguyên tắc, chỉ nên dùng trong không gian vui chơi giải trí một cách thân mật, trong phạm vi một nhóm xã hội nào đó. Tuy nhiên, trong thực tế, thứ ngôn ngữ này nhiều khi được sử dụng trong phạm vi giao tiếp chính thức, chẳng hạn như tin nhắn của một sinh viên gửi cho thầy giáo: "Em chao thay ak. Thay ui, sang hum nj nha em co vjek, thay cho em nghj hok mot bui dk ko ak?" [Tạm dịch: Em chào thầy ạ. Thầy ơi, sáng hôm nay nhà em có việc, thầy cho em nghỉ học một buổi được không ạ?]. Trong trường hợp này, không tính đến việc thầy giáo có thể không hiểu được thông tin mà sinh viên muốn truyền tải, việc sử dụng ngôn ngữ không phù hợp với phạm vi và bối cảnh giao tiếp là không thể chấp nhận được. Vấn đề đặt ra là trong bối cảnh có nhiều người tán đồng việc sử dụng ngôn ngữ mạng, coi đó như một thứ chuẩn mực để đánh giá giới trẻ, bất kể quy tắc nghiêm ngặt đối với việc sử dụng ngôn ngữ, xã hội nên phản ứng như thế nào? Ngôn ngữ mạng "đã chuẩn" theo quan niệm của một số nhóm xã hội, nhưng thực sự thì cái sự "chuẩn" ấy có cần phải "chỉnh" hay không? TS Nguyễn Văn Khang nhận định: "Ngôn ngữ của giới trẻ giống như mốt thời trang. Nó được thanh niên sử dụng nhằm trẻ hóa, thể hiện cá tính, tâm lý thích đổi mới, ưa cái lạ, chuộng cái hay. Tuy nhiên, ngôn ngữ mạng là ngôn ngữ cá nhân nhưng lại nằm trên mạng xã hội nên có sức lan tỏa rất lớn. Mặt khác, nếu dùng nhiều sẽ thành quen, có thể dẫn đến việc giới trẻ sử dụng chệch hướng, biến nó thành ngôn ngữ trong nhà trường, trong các văn bản. Trong ngôn ngữ mạng, câu không cần đúng, chỉ viết cực ngắn nên nếu sử dụng trong khoảng thời gian dài thì dần dần sẽ ảnh hưởng tiêu cực tới tư duy".

Như vậy, có thể thấy, việc dùng ngôn ngữ mạng như sử dụng dao hai lưỡi. Nó có thể mang lại hiệu quả nhất định trong thời gian ngắn, trong bối cảnh và nhóm xã hội nhất định, nhưng cũng có thể mang đến tác hại lâu dài. Sử dụng hay không sử dụng ngôn ngữ mạng, sử dụng thế nào, đó là điều mọi người nên cân nhắc.

Video liên quan

Chủ Đề