Độ ph của dạ dày là bao nhiêu

pH trong cơ thể người là gì? Tại sao một chỉ số dùng để đánh giá chất lượng nước lại có thể áp dụng với cơ thể? Thông tin chi tiết sẽ có trong bài viết dưới đây!

I. pH trong cơ thể người là gì?

Không nhiều người biết về pH trong cơ thể. Nhưng đây là kiến thức cần thiết, nhất là khi bạn đã nhận ra tầm quan trọng của sức khỏe.

1/ Định nghĩa về độ pH

Định nghĩa về độ pH đã được giới thiệu trong chương trình giáo dục phổ thông. Nhưng nó khá rắc rối và khó hiểu. Theo wikipedia, độ pH [pondus hydrogenii] – là chỉ số đo độ hoạt động của các ion H+ trong dung dịch.

pH trong cơ thể người là gì?

Độ hoạt động của các ion H+ càng lớn thì dung dịch có càng có tính axit. Ngược lại, dung dịch sẽ có tính kiềm nếu độ hoạt động của các ion H+ nhỏ. Bạn không cần phải nhớ công thức tính pH. Tuy nhiên, hãy nên nhớ rằng chỉ số pH luôn nằm trong khoảng từ 0-14.

Lưu ý: Không có chất nào, dung dịch nào có chỉ số pH ngoài khoảng này. Những thông tin lan truyền trên facebook nói rằng có thể phòng chống Covid 19 với các thực phẩm có chỉ số pH lên tới 22-23 là không đúng.

Xem thêm: Độ pH của nước là gì?

2/ pH cơ thể người và pH máu

Như đã nói ở trên, pH là chỉ số có thể tìm thấy trong các dung dịch. Trong cơ thể người, có rất nhiều dung dịch khác nhau. Nhưng máu là loại có số lượng nhiều nhất. Vì thế, nhiều người đã đồng nhất pH cơ thể chính là pH máu.

Theo đó, chỉ số pH cơ thể người khỏe mạnh dao động từ 7.3-7.4 – có tính hơi kiềm. pH của một số vị trí cũng sẽ có sự khác nhau. Cụ thể:

  • pH ruột từ 6,6-7,6
  • pH nước tiểu có giá trị là 6.
  • pH dịch ngoại bào 7,35-7,45.
  • pH dạ dày 1,6-2,4.

II.pH trong cơ thể người nói lên điều gì?

Chỉ số pH trong cơ thể không phải chỉ là một con số khô khan. Nó là một con số biết nói và đằng sau đó là những “bí mật” về sức khỏe.

1/ Cách kiểm tra pH cơ thể người

Có nhiều cách kiểm tra pH khác nhau. Bạn có thể tham khảo những thông tin dưới đây.

  • Sử dụng giấy thử pH: Thời gian thực hiện tốt nhất là trước ăn 1 tiếng hoặc sau ăn 2 tiếng. Bạn chỉ cần làm ướt giấy quỳ thử pH bằng nước bọt. Nhiều chuyên gia cho rằng pH của nước bọt tối ưu ở khoảng 6,4 – 6,8. pH trước và sau ăn sẽ có sự khác nhau vì thế bạn cần chú ý mốc thời gian ở trên.
  • Thử pH nước tiểu: pH nước tiểu cũng phản ánh một phần pH của cơ thể. Chỉ số pH tối ưu nằm trong khoảng từ 6,5-7,0 vào buổi tối trước bữa ăn.

***Để biết được chỉ số pH của cơ thể, tốt hơn hết hãy lắng nghe tư vấn của bác sĩ nhé!

2/ Điều gì ảnh hưởng tới pH cơ thể

pH cơ thể người bị ảnh hưởng bởi rất nhiều yếu tố. Bạn có thể đã biết các yếu tố này hoặc không. Nhưng nếu biết, bạn sẽ có cách để cân bằng pH tối ưu cho cơ thể để sức khỏe ổn định.

Chế độ ăn uống có ảnh hưởng đến pH cơ thể

Dưới đây là những yếu tố ảnh hưởng:

  • Chế độ ăn uống, dinh dưỡng
  • Thói quen, nếp sinh hoạt
  • Phụ thuộc vào chuyển hóa
  • Các yếu tố môi trường bên ngoài.

3/ Sẽ thế nào khi cơ thể mất cân bằng pH?

Nhiều nghiên cứu cho thấy khi cơ thể mất cân bằng pH sẽ dẫn tới bệnh tật.

Cơ thể có pH thấp là nguồn gốc của tăng cân, lão hóa sớm, bệnh tim mạch. Nguy hiểm hơn tình trạng này về lâu dài có thể dẫn tới các vấn đề về thần kinh, mầm mống ung thư.

Ngoài ra, khi cơ thể mất cân bằng pH sẽ giảm khả năng hấp thụ dinh dưỡng. Điều này dẫn tới chậm phục hồi khi có bệnh. Do vậy, điều quan trọng nhất là phải duy trì cân bằng pH tối ưu cho cơ thể.

III. Duy trì pH tối ưu cho cơ thể

Có nhiều cách khác nhau giúp hỗ trợ duy trì pH tối ưu cho cơ thể. Trong đó chế độ ăn uống, sinh hoạt đóng vai trò quan trọng nhất. Bạn nên điều chỉnh những thói quen này. Ăn nhiều rau củ quả, hạn chế thức khuya, sử dụng rượu bia, hút thuốc

Chi tiết về các loại thực phẩm kiềm hóa cơ thể.

Ngoài ra, bạn nên chú ý tới nước uống hàng ngày để có thể có pH tối ưu. Theo đó, nước điện giải ion kiềm sẽ có ích. Những tính chất đặc biệt không chỉ giúp hỗ trợ cân bằng pH cơ thể mà còn mang lại nhiều lợi ích cho sức khỏe.

Dạ dày hay bao tử [tiếng Latin: Ventriculus] là một trong những cơ quan trực thuộc hệ tiêu hóa [Apparatus digestorius] ở người và động vật. Ở người, dạ dày là cơ quan có dạng túi chữ J nằm trong hoàn toàn trong khoang ổ bụng [cavitas abdominis], nối bởi thực quản [Oesophagus] và tá tràng [Duodenum], đoạn đầu của ruột non. Nhìn chung, dạ dày có hai chức năng chính: tiết dịch vị [chứa hydrochloric acid HCl, enzyme pepsin phân giải protein thành các đoạn polypeptide ngắn hơn] và co bóp, trộn đều viên thức ăn với dịch vị [gọi là dưỡng chấp]. Hoạt động của dạ dày được điều khiển theo cơ chế thần kinh và cơ chế thể dịch. Bài viết này chủ yếu hướng đến dạ dày người.

Dạ dày ở các nhóm động vật[sửa | sửa mã nguồn]

Dạ dày là cơ quan có ở nhiều loài động vật thuộc phân ngành động vật có xương sống. Hình thái, giải phẫu cùng với chức năng của chúng khá đa dạng và đặc trưng cho mỗi loài. Dạ dày đơn được tìm thấy ở người, động vật ăn thịt [chó, mèo, hổ...] và động vật ăn cỏ như thỏ, ngựa... Tuy nhiên, không phải bất kỳ loài nào cũng có dạ dày đơn.

Cấu trúc dạ dày ở động vật nhai lại

Ở một số động vật nhai lại [trâu, bò, dê...], dạ dày của chúng được chia thành bốn ngăn theo hướng đi của thức ăn là: dạ cỏ [rumen], dạ tổ ong [reticulum], dạ lá sách [omasum] và dạ múi khế [abomasum]. Do đời sống của chúng luôn bị những nguy hiểm rình rập khi ăn [tiêu biểu là bị động vật săn mồi ăn thịt], nên chúng cố gắng nhai thật nhiều cỏ ở chỗ kiếm ăn và tổng thẳng vào dạ cỏ. Ở đây, có hệ vi sinh vật cộng sinh dồi dào có chứa enzyme cellulase có khả năng phân giải chất này. Sau đó, thức ăn [hỗn hợp của thực vật và vi sinh vật bám vào] sẽ được chuyển tới dạ tổ ong. Sau khi rời khỏi nơi kiếm ăn, động vật này có xu hướng tìm đến chốn vắng vẻ. Tại đây, chúng "ợ" thức ăn có từ dạ tổ ong lên và tiếp tục nhai kĩ [do đó nhóm loài này mới có tên gọi là động vật nhai lại]. Thức ăn sau khi nhai kỹ sẽ được chuyển xuống dạ lá sách để hấp thụ bớt nước và chuyển xuống dạ múi khế. Dạ múi khế mới được xem là dạ dày thực sự vì tại đây mới tiết dịch vị như HCl, pepsin.... Nguồn protein trong thức ăn đến từ bản thân thực vật và vi sinh vật cộng sinh ở dạ cỏ.

Chi tiết giải phẫu ống tiêu hóa của gà

Ở nhiều loài chim và gia cầm, dạ dày có thể được chia thành hai phần dạ dày tuyến [proventriculus] và dạ dày cơ hay mề [gigeria]. Thức ăn từ diều sẽ được vận chuyển đến dạ dày tuyến. Tại đây, thức ăn thấm dịch vị [HCl] và chuyển xuống mề [hệ thống cơ rất dày]. Tại đây, thức ăn được co bóp và trộn đều dịch vị. Ở một số loài chim, tiêu biểu là gà, chúng có tập tính nuốt sỏi. Sỏi được tìm thấy chủ yếu ở dạ dày cơ và có vai trò tăng hiệu quả của việc tiêu hóa. Ngoài ra, còn có hình thức dạ dày trung gian giữa dạ dày đơn và dạ dày kép như dạ dày của lợn. Ở dạ dày lợn, phía trái của thượng vị có phần manh nang lồi ra làm cho dạ dày có 5 vùng: thực quản [nhỏ], manh nang, thượng vị, thân vị và hạ vị. Vùng thực quản không có tuyến, vùng manh nang và thượng vị có tuyến tiết ra dịch nhầy, không có pepsin và HCl. Vùng thân vị và hạ vị giống như dạ dày đơn [ở loài ăn thịt].

Giải phẫu học dạ dày người[sửa | sửa mã nguồn]

Định khu[sửa | sửa mã nguồn]

Dạ dày nằm sát dưới vòm hoành trái, phía sau cung sườn và thượng vị trái. Dạ dày có tính co dãn, có thể tích từ 2.0 - 2.5 lít và không có hình dạng nhất định. Khi rỗng, dạ dày có hình túi dạng chữ J.

Hình thái bên ngoài[sửa | sửa mã nguồn]

Hình thể dạ dày

Dạ dày gồm có hai thành trước và sau, hai bờ cong vị lớn và nhỏ, và hai đầu: tâm vị [pars cardiaca] ở trên, môn vị [pars pylorica] ở dưới.

Tâm vị [pars cardiaca] rộng khoảng 3 - 4cm, nằm kế cận thực quản và gồm lỗ tâm vị [ostium cardiacum]. Lỗ tâm vị thông thực quản với dạ dày, không có van đóng kín mà chỉ có nếp gấp. Ở người, lỗ tâm vị nằm sau sụn sường VIII trái, trước thân đốt sống ngực X và lệch về trái.

Đáy vị [fundus ventriculi] là phần phình to hình chỏm cầu, bên trái lỗ tâm vị và ngăn cách với thực quản bởi khuyết tâm vị [incisura cardiaca]. Thân vị [corpus ventriculi] là phần nối giữa đáy vị, tâm vị [giới hạn trên là mặt phẳng ngang qua lỗ tâm vị từ khuyết tâm vị] với môn vị [mặt phẳng qua khuyết góc [incisura angularis] của bờ cong vị nhỏ]. Thân vị có hình ống, cấu tạo bởi hai thành và hai bờ.

Thân vị [Body of stomach] là phần trung tâm lớn dưới đáy vị . chiếm nhiều diện tích, là không gian chính để co bóp thức ăn. Tại đây acid dịch vị sẽ được tiết ra để hỗ trợ cho quá trình phân hủy thức ăn Phân thân vị gồm:

  • Thành trước dạ dày [Stomach anterior wall]: Nằm ở vùng trên liên quan thùy gan trái, cơ hoành, qua trung gian cơ hoành liên quan phổi, màng phổi trái, màng ngoài tim và thành ngực, phần dưới liên quan tới thành bụng trước.
  • Thành sau dạ dày[Postero-inferior Surface]: phần này liên quan tới cơ hoành và liên quan tới các cơ quan khác như thận, tụy, lá lách, tuyến thượng thận. Phần dưới của thành sau liên quan mạc treo kết tràng ngang, nối phần trung gian mạc treo kết tràng ngành với phần lên tá tràng.
  • Bờ cong vị nhỏ [Lesser curvature]: Bộ phận này có mạc nối nhỏ nối dạ dày, tá tràng và gan, giữa hai lá của mạc nối nhỏ có vòng mạch bờ cong vị bé.
  • Bờ cong vị lớn [ Greater curvature]: là đoạn tiếp theo có mạc nối dạ dày với lách và có chứa các động mạch vị ngắn. Ở phần đoạn cuối cùng có mạc nối lớn bám, giữa hai lá của mạc nối lớn chứa bờ cong vị lớn

Phần hang môn vị [pars pylorica] gồm hang môn vị [antrum pyloricum] và ống môn vị [canalis pyloricus]. Hang môn vị nối với thân vị và ống môn vị, chạy sang phải và hơi ra sau. Ống môn vị thu lại như cái phễu và kết thúc bằng môn vị.

Môn vị [pylorus]: mặt ngoài được đánh dấu bởi tĩnh mạch trước môn vị [v. prepylorica] và có thể nhận biết bàng cách sờ bằng tay. Ở giữa môn vị là lỗ môn vị [ostium pyloricum] định khu bên phải đốt sống thắt lưng I và nối với hành tá tràng.

Hình thái bên trong[sửa | sửa mã nguồn]

Cấu tạo dạ dày gồm 5 lớp như sau: lớp thanh mạc, tấm dưới thanh mạc, lớp cơ [gồm có 3 lớp cơ nhỏ hơn là cơ dọc, cơ chéo và cơ thứ 3 là cơ vòng], lớp hạ niêm mạc và cuối cùng là lớp niêm mạc – đây là lớp được phân cách bởi một lớp cơ trơn với lớp hạ niêm mạc.

Lớp tiếp theo là mạch máu của dạ dày. Dạ dày được nuôi dưỡng bởi động mạch bắt nguồn từ thân tạng và tạo nên 2 vòng cung, cụ thể:

  • Một vòng cung nhỏ chạy dọc theo bờ cong nhỏ.
  • Một vòng cung lớn chạy dọc theo bờ cong lớn.

Cuối cùng là hệ thần kinh. Dạ dày được chi phối bởi dây thần kinh phế vị [dây X] và một số nhánh của đoạn tủy còn gọi là phần đối giao cảm. Còn phần giao cảm bao gồm các sợi giao cảm từ các hạch giao cảm ngực và thắt lưng.

Lớp thanh mạc

Lớp này có vị trí ngoài cùng thuộc lá tạng phúc mạc.

Tấm dưới thanh mạc

Đây là tổ chức liên kết rất mỏng, gần như dính chặt vào lớp cơ trừ ở gần 2 bờ cong vị dễ bóc tách hơn vì tổ chức này dày lên nhờ chứa mỡ và các bó mạch thần kinh.

Lớp cơ

Lớp này để thích ứng việc nhào trộn thức ăn. Lớp cơ vòng của dạ dày có thêm các sợi chéo. Lớp cơ có cấu tạo từ ngoài vào trong với 3 lớp như sau:

  • Cơ dọc: liên tục với các thớ cơ dọc của thực quản và tá tràng và dày nhất dọc theo bờ cong vị nhỏ.
  • Cơ vòng: bao kín toàn dạ dày, đặc biệt ở môn vị.
  • Cơ chéo: là lớp không hoàn toàn, chạy vòng quanh đáy vị và đi chéo xuống dưới về phía bờ cong lớn.

Tấm dưới niêm mạc [lớp hạ niêm mạc]

Đây là tổ chức liên kết rất lỏng lẻo nên dễ bị xô đẩy.

Lớp niêm mạc

Đây là lớp lót mặt trong dạ dày.

Ngoài ra, dạ dày được cấp máu từ hai nguồn chính: vòng mạch bờ cong vị nhỏ và vòng mạch bờ cong vị lớn. Hai vòng mạch này đều bắt nguồn từ động mạch thân tạng.

Chức năng dạ dày[sửa | sửa mã nguồn]

Cơ học[sửa | sửa mã nguồn]

  • Chứa thức ăn
  • Nhào trộn thức ăn
  • Tống vị trấp ra khỏi dạ dày

Bài tiết và hoá học[sửa | sửa mã nguồn]

Sau khi được nghiền nát một phần bằng động tác nhai và được phân hủy một phần nhỏ nhờ các men có trong nước bọt, thức ăn sẽ được đưa xuống qua một ống cơ trơn gọi là thực quản [nằm gần như song song và sau khí quản] và đến dạ dày. Dạ dày là nơi chứa, nghiền nát, nhào trộn thức ăn với dịch vị. Dạ dày cũng hấp thu chất dinh dưỡng tuy nhiên chức năng này là không đáng kể. Sau khi thức ăn được nghiền nát, nhào trộn và thấm dịch vị, chúng sẽ được đưa xuống ruột non để thực hiện công đoạn tiêu hóa và hấp thu cũng như đào thải.

  • Cross section of stomach wall.

Độ pH rất thấp của dạ dày [từ 2 đến 2,5] không chỉ có tác dụng trong tiêu hóa mà còn có tác dụng trong phòng bệnh. Một số bệnh nhân mắc chứng teo niêm mạc dạ dày không đủ khả năng duy trì một độ pH thấp sẽ dễ mắc các chứng bệnh nhiễm trùng đường ruột vì chính độ pH thấp này là một rào cản hóa học khá hữu hiệu để tiêu diệt các vi sinh vật gây bệnh theo thức ăn đi vào cơ thể. Tuy nhiên nếu độ pH này quá thấp sẽ có tác hại gây loét dạ dày tá tràng. Năm 1982 một loại xoắn khuẩn có tên là Helicobacter Pylori đã được hai bác sĩ người Úc phát hiện. Vi khuẩn này có vai trò cực kỳ quan trọng trong gây bệnh viêm loét cũng như ung thư dạ dày. Chính nhờ phát hiện này mà việc điều trị đã bước sang một kỷ nguyên mới. Phát hiện trên đã được vinh dự nhận giải thưởng Nobel về y học năm 2005.

Bệnh dạ dày ở người[sửa | sửa mã nguồn]

Trào ngược dạ dày thực quản[sửa | sửa mã nguồn]

Là tình trạng trào ngược từng lúc hay thường xuyên của dịch vị trong dạ dày lên thực quản. Tính chất kích thích của các chất dịch trong dạ dày như HCl, pepsine, dịch mật… đối với niêm mạc thực quản, sẽ gây ra các triệu chứng và biến chứng. Các triệu chứng bao gồm các vị của axit ở phía sau miệng, ợ nóng, hơi thở hôi, đau ngực, nôn mửa, khó thở....

Viêm dạ dày[sửa | sửa mã nguồn]

Là tình trạng niêm mạc dạ dày bị viêm sưng. Trong dạ dày có một sự cân bằng nhỏ giữa axit và thành niêm mạc được bảo vệ bởi chất nhầy . Khi lớp niêm mạc này bị phá vỡ vì bất kỳ lý do gì, các dấu hiệu và triệu chứng viêm dạ dày có thể xuất hiện. Điều này có thể dẫn đến đau bụng trên, khó tiêu, chán ăn, buồn nôn , nôn và ợ chua . Khi bệnh tiến triển, cơn đau có thể trở nên liên tục; máu có thể bắt đầu rò rỉ và được nhìn thấy trong phân. Nếu chảy máu nhanh và đủ lượng, thậm chí có thể dẫn đến nôn ra máu đỏ tươi [ nôn ra máu]. Khi độ axit trong dạ dày không được kiểm soát, nó thậm chí có thể gây mất máu nghiêm trọng [thiếu máu] hoặc dẫn đến thủng [lỗ] trong dạ dày, đây là một trường hợp cấp cứu ngoại khoa.

Loét dạ dày[sửa | sửa mã nguồn]

Nặng hơn tình trạng viêm sưng thông thường. Những vết loét phát triển trên niêm mạc của dạ dày và đoạn đầu của ruột non, thường xảy ra do vi khuẩn HP và thói quen sinh hoạt không lành mạnh. Đau thượng vị là triệu chứng phổ biến nhất của loét dạ dày tá tràng. Ngoài ra các triệu chứng như: ợ hơi, ăn không tiêu, đầy bụng, buồn nôn, đi ngoài phân đen... có thể xuất hiện.

Liệt dạ dày[sửa | sửa mã nguồn]

Một vấn đề lâu dài rất phổ biến khác hiện được đánh giá cao hơn là liệt dạ dày . Liệt dạ dày ảnh hưởng đến hàng triệu người và thường không bao giờ bị nghi ngờ và hầu hết bệnh nhân đều chậm trễ trong việc chẩn đoán. Về cơ bản trong liệt dạ dày, nhu động dạ dày biến mất và thức ăn vẫn ứ đọng trong dạ dày. Nguyên nhân phổ biến nhất của liệt dạ dày là bệnh tiểu đường nhưng nó cũng có thể xảy ra do tắc nghẽn ở đoạn cuối dạ dày, ung thư hoặc đột quỵ. Các triệu chứng của liệt dạ dày bao gồm đau bụng, đầy, chướng bụng, buồn nôn, nôn sau khi ăn, chán ăn và cảm giác no sau khi ăn một lượng nhỏ thức ăn.

Bệnh Crohn[sửa | sửa mã nguồn]

Bệnh Crohn là một bệnh viêm ruột có thể ảnh hưởng đến bất kỳ phần nào của đường tiêu hóa, thậm chí cả dạ dày, mặc dù đây là một biểu hiện hiếm gặp. Đặc điểm chính của nó là loét viêm có thể ảnh hưởng đến tổng độ dày của thành dạ dày và có thể chảy máu nhưng hiếm khi thủng. Các triệu chứng bao gồm đau bụng, chán ăn và sụt cân. Tiêu chảy cũng là một triệu chứng có thể phát triển, vì vậy việc kiểm tra phân xem có máu hay không là rất quan trọng. Các triệu chứng của bệnh Crohn có thể tồn tại với một người trong nhiều tuần hoặc tự biến mất. Nên báo cáo các triệu chứng cho bác sĩ để ngăn ngừa các biến chứng nặng hơn.

Ung thư dạ dày[sửa | sửa mã nguồn]

Ung thư dạ dày rất hiếm và tỷ lệ mắc bệnh đang giảm trên toàn thế giới. Ung thư dạ dày thường xảy ra do sự thay đổi nồng độ axit và có thể biểu hiện bằng các triệu chứng mơ hồ như đầy bụng, sụt cân và đau. Nguyên nhân thực sự của bệnh ung thư dạ dày vẫn chưa được biết nhưng có liên quan đến việc nhiễm vi khuẩn Helicobacter pylori , bệnh thiếu máu ác tính , bệnh Menetriere và chất bảo quản chứa nitơ trong thực phẩm

Ngoài ra còn có các bệnh lý khác như: xuất huyết dạ dày, viêm hang vị, viêm môn vị, viêm bờ cong nhỏ dạ dày ...

pH ở dạ dày sau ăn 2 giờ trạng thái nghỉ khoảng bao nhiêu?

Khi ăn, dạ dày sẽ tiết ra các loại enzym để hỗ trợ quá trình tiêu hóa và làm thay đổi chỉ số pH trong dạ dày. Cụ thể, sau một bữa ăn chứa nhiều protein, chỉ số pH dạ dày có thể chỉ còn từ 1 đến 2. Khi quá trình tiêu hóa được hoàn thành, dạ dày trở về trạng thái nghỉ ngơi thì nồng độ axit sẽ tăng trở lại.

độ pH cơ thể bao nhiêu là tốt?

3 Độ pH bao nhiêu là tốt? Nên uống nước có độ pH bao nhiêu? Mỗi môi trường có một nồng độ pH nhất định, trong cơ thể người cũng vậy. Nếu giữ độ pH trong cơ thể người trong khoảng 7.3 - 7.4 và mang tính kiềm thì đây là điều kiện tốt nhất để các tế bào hoạt động bình thường.

pH ở ruột non là bao nhiêu?

Nhưng khi nói đến vai trò của pH thấp đối với vật nuôi thì chúng ta chỉ có thể đề cập đến tiêu hóa ở dạ dày vì dạ dày có pH từ 1-3, pH ở ruột non [tá tàng từ 5 – 6, không tràng từ 6-7, hồi tràng từ 7-8], pH ruột già 5.5 – 7.

Dung tích tối đa của dạ dày là bao nhiêu?

Dạ dày là một phần của hệ tiêu hóa giống như túi hình J. Vị trí dạ dày nằm giữa tá tràng và thực quản, bên trái của khoang bụng, một phần được che bởi gan và cơ hoành. Kích thước của nó thay đổi tùy theo cá nhân và bữa ăn nhưng trung bình dạ dày dài 25cm, rộng từ 10 đến 15 cm và có thể chứa đến 4 lít thực phẩm.

Chủ Đề