Đảng đối lập là gì

  • Đánh giá nền dân chủ không thể dựa vào một… hội nghị

Lâu nay, các phần tử cơ hội chính trị, chống đối cho rằng, Việt Nam không có dân chủ vì thực hiện chế độ nhất nguyên, nhất đảng nên “vừa đá bóng, vừa thổi còi” và vì thế dẫn đến dân chủ hình thức hoặc mất dân chủ. Trong khi đó, các tổ chức nhân danh dân chủ phương Tây đã và đang tìm cách cổ suý “tiêu chuẩn nhân quyền” kiểu phương Tây vào Việt Nam, đồng thời tung tin bịa đặt với các luận điệu cho rằng: “Việt Nam thiếu văn hóa dân chủ, không có dân chủ, hạn chế quyền riêng tư của công dân”, “Việt Nam vi phạm nghiêm trọng quyền con người”, “Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo Nhà nước và toàn xã hội tức là theo chế độ đảng trị, bằng “đảng chủ”; “một đảng cầm quyền thì không thể có dân chủ, chỉ dẫn đến độc tài, độc trị”; “chế độ một đảng lãnh đạo, độc quyền là trái với nguyên tắc nhà nước pháp quyền”; “chế độ nhất nguyên chính trị, một đảng cầm quyền ở Việt Nam là “vừa đá bóng, vừa thổi còi” dẫn đến ở Việt Nam không có dân chủ hoặc dân chủ hình thức”.

Đây là những luận điệu phản khoa học, hết sức nguy hiểm bởi nó cố tình đánh đồng giữa vấn đề đa nguyên, đa đảng với dân chủ, phát triển của đất nước, dân tộc. Thực chất luận điệu trên là muốn phủ nhận vai trò lãnh đạo duy nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước và xã hội, tiến tới thực hiện chế độ đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập để đi đến xóa bỏ định hướng XHCN ở nước ta. Vấn đề mấu chốt trong học thuyết “dân chủ, nhân quyền kiểu phương Tây cần áp dụng đối với Việt Nam” là xóa bỏ nền tảng tư tưởng của Đảng và vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam với cách mạng Việt Nam. Như vậy, chiêu bài dân chủ thực chất là các thế lực thù địch nhằm phá hoại Đảng, Nhà nước và định hướng XHCN ở nước ta.

Trên thế giới hiện nay có ba chế độ dân chủ: Dân chủ tư sản, dân chủ nhân dân, dân chủ xã hội chủ nghĩa. Mỗi chế độ dân chủ nói trên đều có những thiết chế khác nhau, nhưng đều có những yếu tố chung: [1] Sự bình đẳng về quyền và nghĩa vụ của công dân [bao gồm tất cả thành viên xã hội]; [2] bầu cử tự do và theo nhiệm kỳ bầu ra các cơ quan, người lãnh đạo đất nước; [3] quyền lực của nhà nước được chia làm ba nhánh lập pháp, hành pháp và tư pháp. Mỗi cơ quan trên có chức năng riêng: Hiến pháp và pháp luật được xem là tối thượng; các quyền con người, quyền và nghĩa vụ công dân được tôn trọng và bảo đảm.

Chế độ dân chủ sau Cách mạng Tháng Tám ở Việt Nam là chế độ dân chủ Nhân dân hướng theo con đường xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa. Một trong những đặc trưng của chế độ dân chủ ở Việt Nam là do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo và cầm quyền. Tuy nhiên, vai trò cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam phải tuân thủ nguyên tắc Hiến định: “Đảng Cộng sản Việt Nam - đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của Nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, Nhân dân lao động và của cả dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội; Đảng Cộng sản Việt Nam gắn bó mật thiết với Nhân dân, phục vụ Nhân dân, chịu sự giám sát của Nhân dân, chịu trách nhiệm trước Nhân dân về những quyết định của mình; các tổ chức của Đảng và đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật” [Điều 4, Hiến pháp năm 2013].

Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng và Nhà nước Việt Nam ngày càng hoàn thiện các quan điểm về dân chủ, nhân quyền, coi nỗ lực thể chế hóa, luật hóa quan điểm dân chủ, nhân quyền là yêu cầu bức thiết của phát triển. Năm 1998, Bộ Chính trị ban hành Chỉ thị về xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở, khẳng định “phải phát huy quyền làm chủ của dân, thu hút nhân dân tham gia quản lý nhà nước, khắc phục tình trạng suy thoái, quan liêu, mất dân chủ và nạn tham nhũng”. Sau đó, Chính phủ ban hành Nghị định 29/1998/NĐ-CP [đến năm 2003 thay thế bằng Nghị định số 79/2003/NĐ-CP] kèm theo Quy chế thực hiện dân chủ ở xã quy định về nội dung, phương thức, trách nhiệm của chính quyền cấp xã trong việc thực hiện quyền dân chủ của Nhân dân. Năm 2007, Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa XI thông qua Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn... Đây là các bước đi thống nhất, đồng bộ về chủ trương kết hợp hành động cụ thể tạo điều kiện “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”.

Vấn đề một đảng hay nhiều đảng lãnh đạo, cầm quyền không phải là vấn đề mới và vấn đề này phụ thuộc vào nhiều yếu tố khách quan và chủ quan. Về khách quan, vấn đề này phụ thuộc vào điều kiện và hoàn cảnh lịch sử của mỗi nước, mỗi đảng khi lên lãnh đạo, cầm quyền. Về chủ quan, nó phụ thuộc tương quan so sánh lực lượng giữa các giai cấp, các bộ phận trong một xã hội, mà mỗi nước có thể có một đảng hoặc nhiều đảng.

Đảng là tổ chức chính trị của giai cấp, mang tính chất giai cấp, là sự liên kết tự nguyện của những người cùng chí hướng và cùng quyền lợi. Bản chất của đảng chính trị chính là bản chất giai cấp mà đảng ấy đại diện. Lịch sử hiện đại đã chứng minh rằng, trình độ dân chủ và sự phát triển của đất nước không tỷ lệ thuận với sự gia tăng của số lượng đảng phái chính trị. Trong xã hội có sự phân chia giai cấp, mỗi giai cấp khác nhau có đảng khác nhau, thậm chí trong cùng một giai cấp cũng có thể có nhiều đảng khác nhau. Những đảng của cùng một giai cấp sẽ có cùng bản chất của giai cấp, có lợi ích gắn liền với giai cấp sinh ra nó, chúng chỉ khác nhau về hình thức tổ chức, phương thức hoạt động và những mục tiêu cụ thể mà không đối lập về bản chất.

Những đảng của các giai cấp khác nhau hoặc đối lập nhau thì không chỉ khác nhau về tôn chỉ, mục đích, phương cách hoạt động, nguyên tắc tổ chức mà còn đối lập về bản chất của đảng. Như vậy, sự đa đảng cũng có nhiều sắc thái khác nhau. Có hiện tượng đa đảng nhưng vẫn nhất nguyên chính trị, có hiện tượng đa đảng đồng thời là đa nguyên chính trị.

Quan điểm một đảng thì mất dân chủ, cản trợ sự phát triển, còn đa đảng đồng nghĩa với dân chủ, phát triển là luận điệu sai trái. Cho đến nay chưa có cơ sở khoa học nào chứng minh điều này. Bởi đất nước có dân chủ hay phát triển không phụ thuộc vào chế độ một đảng hay đa đảng mà phụ thuộc vào đảng cầm quyền đó có mang bản chất cách mạng, tiên phong hay không, có bảo vệ quyền và lợi ích cho đa số nhân dân lao động hay chỉ cho một bộ phận thiểu số người trong xã hội đó.

Thực tiễn cho thấy, dân chủ và sự phát triển của một nước không tỷ lệ thuận với số lượng các đảng mà quốc gia đó có. Vì thực tiễn nhiều quốc gia trên thế giới hiện nay, đa đảng nhưng vẫn mất dân chủ, vẫn là những nước nghèo, kém phát triển. Trong khi, nhiều quốc gia chỉ có một đảng lãnh đạo nhưng dân chủ được bảo đảm, kinh tế-xã hội phát triển, đời sống nhân dân được bảo đảm, nhân dân cảm thấy hạnh phúc, ấm no và có vị thế trên thế giới. Vấn đề thuộc về bản chất của các đảng, lợi ích xã hội mà nó đại diện, bảo vệ; uy tín và năng lực tập hợp, liên kết, lãnh đạo các lực lượng xã hội cùng thực hiện mục tiêu chung của quốc gia - dân tộc. Nếu một đảng chỉ phục vụ cho lợi ích riêng của đảng mình, giai cấp mình thì đảng đó khó có thể được các giai tầng khác chấp thuận làm lực lượng lãnh đạo xã hội, lãnh đạo đất nước. Một đảng đại diện cho lợi ích của giai cấp, của nhân dân và dân tộc, vì dân vì nước mà hành động, chắc chắn sẽ được nhân dân suy tôn, ủy thác làm lãnh đạo. Điều đó là bằng chứng hùng hồn, là minh chứng khẳng định đa nguyên, đa đảng không phải là cứu cánh cho dân chủ và sự phát triển.

Điển hình như hiện nay, Armenia có khoảng 40 đảng, Hà Lan có 25 đảng, Na Uy có 23 đảng... nhưng rõ ràng chúng ta không thể kết luận Armenia dân chủ hơn Hà Lan hay Na Uy. Trên thế giới hiện nay có hơn 30 quốc gia, vùng lãnh thổ theo chế độ một đảng. Điều đó cho thấy rằng, chế độ chính trị do một đảng cầm quyền không phải là đặc điểm chỉ có ở các nước XHCN do Đảng Cộng sản lãnh đạo và không phải các nước theo chế độ một đảng không bảo đảm dân chủ, đất nước không phát triển.

Ngay trong chủ nghĩa tư bản, có những thời kỳ một số quốc gia và vùng lãnh thổ theo chế độ một đảng duy nhất cầm quyền vẫn bảo đảm dân chủ và phát triển mạnh mẽ. Điển hình như vào cuối những năm 1980, Singapore, Hàn Quốc... vẫn theo chế độ một đảng duy nhất cầm quyền nhưng đất nước vẫn phát triển mạnh mẽ và ngược lại, ở một số quốc gia đa đảng vẫn không thực hiện tốt dân chủ. Đồng thời, trong hệ thống chính trị đa đảng, tại một giai đoạn chính trị nhất định cũng chỉ có một đảng thực chất cầm quyền và thậm chí ngay cả trường hợp khi liên minh đảng cầm quyền để thành lập chính phủ, đảng nào chiếm số ghế nhiều hơn trong nghị viện sẽ có quyền quyết định trong các chính sách phát triển của đất nước. Ở một số quốc gia khác [điển hình là Mỹ], mặc dù có nhiều đảng nhưng chỉ có hai đảng luân phiên cầm quyền là Đảng Cộng hoà và Đảng Dân chủ. Những đảng này đại diện cho giai cấp tư sản thì tất yếu phải hướng đến phục vụ cho lợi ích của giai cấp tư sản chứ không thể là một “chính quyền của tất cả mọi người”.

Trải qua hơn 90 năm ra đời và lãnh đạo, Đảng Cộng sản Việt Nam đã luôn khẳng định được vị trí, vai trò không thể thay thế đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam. Những thành tựu to lớn và ý nghĩa lịch sử kết tinh sức sáng tạo của Đảng và Nhân dân Việt Nam đã khẳng định con đường đi lên CNXH của nước ta là phù hợp với thực tiễn Việt Nam và xu thế của thời đại; khẳng định sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Đồng thời, đó cũng là minh chứng rõ nét rằng bản chất của một nền dân chủ không phụ thuộc vào chế độ đa đảng hay một đảng và đối với Việt Nam dưới sự lãnh đạo duy nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam, nền dân chủ trong xã hội không những không bị mất đi, không bị hạn chế mà còn được bảo đảm, được phát huy sâu rộng trong thực tế.

Phan Dương




1. Nhận diện xã hội dân sự:

Tuy có nhiều cách tiếp cận nhìn nhận, đánh giá và quan niệm khác nhau về “xã hội dân sự” [civil society] tùy thuộc và mỗi giai đoạn lịch sử và những hoàn cảnh, điều kiện cụ thể của từng giai đoạn lịch sử đó, nhưng các quan điểm của các học giả phương Tây đều gặp nhau ở những điểm cốt lõi, đó là:

Về tổ chức, xã hội dân sự là một tổ hợp của các thiết chế chính trị - xã hội phù hợp với hệ thống dân chủ, tự do và kinh tế thị trường, bao gồm: các tổ chức cộng đồng, các tổ chức quần chúng, các hội nghề nghiệp, các tổ chức phi chính phủ. Trong một không gian công cộng, các thiết chế này được hình thành một cách tự nguyện, độc lập, có thể thảo luận, tranh luận với nhau; độc lập hoặc cùng nhau thảo luận, tranh luận với nhà nước về các vấn đề chính trị, kinh tế, xã hội để tạo ra sự đồng thuận trong những vấn đề của đời sống xã hội đặt ra.

Về bản chất, xã hội dân sự là xã hội tự lập phi nhà nước, được hình thành và vận hành trong không gian công cộng và tư nhân, nằm ngoài vùng ảnh hưởng trực tiếp của yếu tố nhà nước. Đó là sự khác biệt giữa “xã hội dân sự” với “xã hội quân sự” hay “xã hội chính trị” [nhà nước], nhưng xã hội dân sự có thể được nhà nước hậu thuẫn. Những vấn đề xã hội dân sự không tự giải quyết được thì thuộc chức năng của nhà nước.

Là những nhà triết học duy vật biện chứng, C.Mác và Ph.Ăngghen quan niệm “Xã hội dân sự theo đúng nghĩa của nó được sinh ra từ xã hội tư sản. Nó được hình thành bởi những chế định lịch sử - xã hội, bởi những hình thức quan hệ sản xuất đặc biệt, bởi những hình thức quan hệ và đấu tranh giai cấp và được bảo vệ bởi những cơ chế chính trị - pháp lý tương ứng”… Về bản chất của xã hội dân sự, theo C.Mác, chủ quyền của nhân dân phải trở thành vấn đề trung tâm trong một xã hội dân sự đích thực, làm cơ sở cho một chế độ dân chủ và một nhà nước dân chủ chân chính. Đó là tư tưởng cách mạng sâu sắc có tính định hướng cho việc nhìn nhận, đánh giá và xác định tính đúng đắn của một số tổ chức được coi là xã hội dân sự và cơ sở, tiêu chí để khẳng định những thiết chế chính trị xã hội lợi dụng danh nghĩa “xã hội dân sự” để chống đối chính quyền nhân dân.

Xã hội dân sự ở Việt Nam phát triển từ đầu thế kỷ XX, khi người Pháp đưa khái niệm dân chủ và quyền công dân vào nước ta. Quá trình phát triển xã hội dân sự ở Việt Nam cùng trải qua một chặng đường dài thăng trầm do sự biến động của thời cuộc và sự lạm dụng vai trò, chức năng của một số tổ chức xã hội dân sự cũng như âm mưu của các thế lực đế quốc, phản động lợi dụng xã hội dân sự xâm phạm an ninh và lợi ích quốc gia.

Pháp luật Việt Nam đã quy định các điều kiện cụ thể để thành lập một tổ chức xã hội dân sự, đó là phải xác định rõ tôn chỉ, mục đích, điều lệ của tổ chức; thành phần ban sáng lập, hội viên, nguồn tài chính để hoạt động và phương thức hoạt động… Hiện nay ở nước ta, bên cạnh các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị-xã hội, nhiều hội, tổ chức phi chính phủ đã và đang được thành lập theo quy định của pháp luật, có tư cách pháp nhân hoạt động công khai hợp pháp. Hiện có khoảng gần 400 hội đang hoạt động trên phạm vi cả nước, trên 600 tổ chức hội, đoàn đang hoạt động trên phạm vi các địa phương; hàng ngàn hiệp hội, câu lạc bộ hoạt đông trên các lĩnh vực khác nhau. Bên cạnh đó còn có khoảng trên 600 tổ chức phi chính phủ nước ngoài có quan hệ với Việt Nam, trong đó gần 400 tổ chức có các chương trình, dự án đang triển khai tại nước ta. Về cơ bản, các tổ chức xã hội dân sự đồng thuận với xã hội, đóng vai trò tích cực trong phát triển kinh tế văn hóa - xã hội.

2. "Xã hội dân sự" và âm mưu của các thế lực thù địch

Những năm qua, âm mưu, hoạt động lợi dụng một số tổ chức “xã hội dân sự” kiểu phương Tây chống phá Việt Nam của các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị đối với Việt Nam tập trung vào các hướng sau đây:

Thứ nhất là, đề cao và nhấn mạnh vai trò “phản biện xã hội” của các tổ chức “xã hội dân sự”, triệt để khai thác tính đa dạng về thành phần, mục tiêu thành lập. lợi ích của tổ chức và các thành viên, đa nguyên về tư tưởng, chính kiến để hướng lái hoạt động của các tổ chức “xã hội dân sự” đã hình thành hoặc chuẩn bị hình thành vào các khuynh hướng tư tưởng chính trị khác nhau, từ đa nguyên về tư tưởng, dẫn tới đa nguyên về chính trị và mục đích cuối cùng là đối lập về tư tưởng chính trị. Vì vậy, do tác động, hướng lái của các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị, bản chất đích thực của một số tổ chức xã hội dân sự ở Việt Nam mất dần, thay thế vào đó là cho ra đời các tổ chức “xã hội dân sự” kiểu phương Tây như ở Đông Âu và Liên Xô trước đây.

Thứ hai là, thúc đẩy xu hướng thoát ly sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước. Một số tổ chức “xã hội dân sự” mang tính giai cấp rõ rệt, những người sáng lập không đứng trên lập trường của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, thay vì đặt mục tiêu hoạt động nhằm góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đã hướng lái tổ chức phục vụ lợi ích của một số tầng lớp, một nhóm người, đối lập với lợi ích của dân tộc, quốc gia. Vì vậy, họ luôn tìm cách tách hoạt động của tổ chức khỏi sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước và các cơ quan chức năng. Tổ chức “xã hội dân sự” của họ chỉ là vỏ bọc, thực chất đó là những tổ chức mang màu sắc chính trị, ẩn chứa trong mục đích thành lập và hoạt động là động cơ và mục đích chính trị. Về lâu dài, đây sẽ là diễn đàn đấu tranh giai cấp trên mọi phương diện: chính trị, tư tưởng, văn hóa, kinh tế… Những người sáng lập một số tổ chức “xã hội dân sự” thường là những người các thế lực thù địch gọi là “bất đồng chính kiến”; những người cơ hội chính trị, có quan điểm trái chiều, đối lập với đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, công khai yêu cầu Đảng ta từ bỏ vai trò lãnh đạo, xóa bỏ Điều 4 trong Hiến pháp; đòi đổi tên Đảng, tên nước, từ bỏ con đường xây dựng CNXH mà Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã lựa chọn.

Thứ ba là, lợi dụng chiêu bài “dân chủ, nhân quyền” để hướng lái xã hội dân sự vào các hoạt động trái với tôn chỉ, mục đích. Một số tổ chức “xã hội dân sự” có khuynh hướng đi theo mục tiêu chính trị, đề cao các “giá trị” tự do, dân chủ, nhân quyền của chủ nghĩa tư bản. Những người sáng lập tìm cách tuyên truyền, tác động, lôi kéo một số trí thức, văn nghệ sĩ, học sinh, sinh viên, luật sư tham gia, mở rộng phạm vi, không gian hoạt động trong lĩnh vực dân chủ, nhân quyền, phụ họa và tiếp tay cho các thế lực bên ngoài chống phá Việt Nam. Một số người công khai viết, tán phát tài liệu, sách, sử dụng các trang mạng truyền bá những quan điểm, tư tưởng trái chiều, tạo diễn đàn đối lập với Đảng, Nhà nước. Họ triệt để lợi dụng những sai sót, yếu kém trong phát triển kinh tế - xã hội, những chủ trương, chính sách chưa hợp lòng dân, các vấn đề phức tạp nổi lên về an ninh, trật tự để phê phán đường lối của Đảng, đổ lỗi, quy kết trách nhiệm cho Đảng ta trong các vấn đề hạn chế, tồn tại của đất nước, nhất là trong phát triển kinh tế - xã hội, quan hệ đối ngoại và hợp tác quốc tế trong bảo vệ chủ quyền biên giới, biển đảo… Nhiều bài viết, tài liệu công khai cổ vũ, đề cao mô hình “xã hội dân sự” kiểu phương Tây và yêu cầu, hô hào, tác động áp dụng mô hình này vào xã hội Việt Nam để mở rộng diễn đàn dân chủ, phát huy đa nguyên… Từ đa nguyên chính kiến trong “phản biện chính sách”, “phản biện xã hội” dưới danh nghĩa ủng hộ quan điểm mở rộng dân chủ ở cơ sở, đảm bảo quyền con người để tuyên truyền, vận động có thêm lực lượng, tổ chức xã hội, đoàn thể quần chúng, các tổ chức phi chính phủ tham gia, từng bước hình thành các “phong trào”, “mặt trận” dân chủ, trở thành lực lượng đối trọng, đối lập với Đảng và Nhà nước ta trong tương lai.

Thứ tư là, các thế lực thù địch bên ngoài gia tăng các hoạt động móc nối, liên kết, hậu thuẫn cho những người “bất đồng chính kiến” trong nước, những người bất mãn trong một bộ phận văn nghệ sĩ, trí thức, luật sư… hoạt động theo khuynh hướng “độc lập”, hình thành “xã hội dân sự” đối lập theo mô hình của phương Tây, các nước Đông Âu và Liên Xô trước khi sụp đổ, tan rã.

Trong các nhóm đã được thành lập, có những hội, nhóm, câu lạc bộ, viện nghiên cứu thành phần tham gia khá phức tạp. Được sự cổ vũ, khích lệ của các thế lực chống CNXH ở bên ngoài, họ thường xuyên gặp gỡ bàn bạc, biên soạn, phát tán tài liệu có nội dung phê phán đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Một số tổ chức thông qua hoạt động nghiên cứu, phản biện, tư vấn để truyền bá quan điểm, tư tưởng sai trái, phê phán đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, cổ súy cho một phong trào “xã hội dân sự” độc lập. Họ còn tổ chức các cuộc tọa đàm, hội thảo, trả lời phỏng vấn, đăng tải trên trang mạng các bài viết phủ nhận thành quả cách mạng, yêu cầu Đảng ta từ bỏ vai trò lãnh đạo; tổ chức dịch, phát hành hàng chục đầu sách của các tác giả nước ngoài có nội dung nhạy cảm về chính trị, đề cập đến sự tan rã của Liên Xô, sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu như những tài liệu phổ biến kinh nghiệm biểu tình, lật đổ, tiến hành “cách mạng đường phố”, “cách mạng màu”, cổ vũ cho “xã hội dân sự” đối lập…

3. Đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập - Mục tiêu hướng tới của "xã hội dân sự" kiểu phương Tây:

Trong chiến lược “diễn biến hòa bình” chống phá cách mạng Việt Nam, các thế lực thù địch tập trung tuyên truyền cổ vũ cho chế độ đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập tại Việt Nam. Luận điệu của họ là trong nền chính trị Việt Nam phải tồn tại các nhóm chính trị, các chính đảng khác nhau để đa dạng hóa đường lối cho nhân dân lựa chọn thông qua bầu cử tự do thì mới đảm bảo cho một nền dân chủ. Vì vậy, những năm qua các phần tử chống CNXH luôn tìm mọi cách tập hợp lực lượng, cho ra đời tổ chức, đảng phái chính trị đối lập trong nước.

Thời gian tới, hoạt động của các thế lực thù địch đối với vấn đề “xã hội dân sự” ở Việt Nam sẽ được đẩy mạnh theo các hướng sau:

Một là, gia tăng hoạt động truyền bá tư tưởng “xã hội dân sự” của phương Tây, đề cao và tuyệt đối hóa để gây áp lực xã hội đối với đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, làm tiền đề cho sự ra đời, phát triển của “xã hội dân sự” Việt Nam - mầm mống của đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập.

Hai là, tập trung tuyên truyền tác động phá hoại nội bộ, thúc đẩy quá trình suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” nhằm tạo dựng, phát triển lực lượng chống đối, bổ sung nhân sự cho việc hình thành các tổ chức “xã hội dân sự” chính trị, đối lập với Đảng Cộng sản Việt Nam.

Ba là, gia tăng các hoạt động móc nối, tác động chuyển hóa các tổ chức xã hội dân sự đích thực ở Việt Nam, nhất là các hội, các tổ chức phi chính phủ trở thành các tổ chức “xã hội dân sự” kiểu phương Tây, làm mất dần bản chất đích thực, vai trò quan trọng của các tổ chức xã hội dân sự hiện nay. Từ đó sẽ trực tiếp chi phối, khích lệ các hoạt động chống đối chế độ, đòi thực hiện đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập ở nước ta. Đây là bước chuẩn bị điều kiện nhân sự, tổ chức cho sự ra đời của đảng chính trị đối lập, từng bước công khai hóa, hợp thức hóa, quốc tế hóa trở thành đối trọng với Đảng Cộng sản Việt Nam, thông qua đấu tranh chính trường, từng bước gạt Đảng Cộng sản Việt Nam khỏi vũ đài chính trị, chiếm đoạt quyền lực, đưa nước ta theo quỹ đạo của phương Tây.

Bốn là, sử dụng các tổ chức “xã hội dân sự” chính trị làm công cụ tuyên truyền tác động tư tưởng, lôi kéo quần chúng, những người có tâm tư bất mãn trong các giai tầng xã hội, các phần tử chống chủ nghĩa xã hội để tập hợp lực lượng quần chúng, chuẩn bị điều kiện kết hợp với các hoạt động gây mất ổn định chính trị - xã hội để phát động một cuộc “cách mạng đường phố”, thay đổi chế độ chính trị ở Việt Nam.

Đấu tranh ngăn chặn, vô hiệu hóa âm mưu, hoạt động của các thế lực thù địch lợi dụng “xã hội dân sự” chống phá Việt Nam trong chiến lược “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ là nhiệm vụ vừa cấp bách, vừa lâu dài. Trước hết, phải xác định đây là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân, các ngành, các cấp, các lực lượng vũ trang.

Vấn đề đầu tiên đặt ra là phải thống nhất và nâng cao nhận thức về xã hội dân sự, phân biệt và đánh giá đúng vai trò, vị trí, tầm quan trọng của các tổ chức xã hội dân sự đích thực để tập trung lãnh đạo, định hướng cho các tổ chức này tuân thủ đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, tích cực đóng góp cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ an ninh quốc gia, cảnh giác trước âm mưu, hoạt động của các thế lực thù địch, không để bị tác động, lôi kéo vào các hoạt động xâm phạm an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội. Không đánh đồng các tổ chức xã hội dân sự đích thực với các tổ chức “xã hội dân sự” theo mô thức của phương Tây.

Làm tốt công tác thông tin tuyên truyền, nâng cao tinh thần cảnh giác cho cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân các giai tầng xã hội để thấy rõ âm mưu của các thế lực thù địch trong việc cổ súy và sử dụng các tổ chức “xã hội dân sự” vào mục đích thay đổi thể chế chính trị ở Việt Nam. Các cơ quan chức năng cần làm tốt công tác nắm tình hình, tham mưu cho các cấp ủy đảng, chính quyền, tổ chức chính trị, đoàn thể quần chúng bảo vệ vai trò lãnh đạo của Đảng, không chấp nhận đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập, không để hình thành tổ chức chính trị đối trọng với Đảng và Nhà nước. Kiên quyết giữ vững ổn định chính trị - xã hội, bảo vệ vững chắc an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, phục vụ đất nước ổn định và phát triển đúng định hướng./.



Video liên quan

Chủ Đề